Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN BIỂN ĐÔNG và CHÍNH SÁCH đối NGOẠI LIÊN QUAN đến vấn đề BIỂN đảo VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.9 KB, 12 trang )

BIỂN ĐÔNG VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

T

rong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển,
đảo luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con
người Việt Nam. Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ
quyền thiêng liêng của tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường
sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta. Tự ngàn đời xưa, tổ tiên ta đã sớm
xem Biển Đông như một nửa cơ ngơi của dân tộc, lấn biển để dựng nước và thông
qua biển để giữ nước là một nét độc đáo Việt Nam trong quá khứ. Càng tự hào và
trân trọng di sản quá khứ, chúng ta càng phải khai thác, khơi dậy nguồn sức mạnh
của bao thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp giữ vững chủ quyền biển đảo,
thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, thực hiện tốt lời dạy của chủ tịch Hồ Chí
Minh. “ Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển.
Bờ biển của ta dài, tương đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó.”
Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa X) “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”, Đảng ta đã nhận định: “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại
dương”. Trước mắt “chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền biển,
đảo nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp
ủy Đảng, các ngành, các tầng lớp nhân dân về vị trí chiến lược của biển, đảo nước
ta. Phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển đảo của Tổ quốc”
Khu vực biển Đông (trong đó có vùng biển của Việt Nam chúng ta) có vị trí địa
kinh tế, địa chính trị rất quan trọng. Hiểu biết về biển Đông và quán triệt sâu sắc
các chủ trương, chính sách đối ngoại liên quan đến vấn đề biển, đảo của Đảng và
Nhà nước ta là cơ sở để mỗi cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
viên quốc phòng nhận thức đúng đắn, xây dựng ý thức trách nhiệm, niềm tin của
mỗi người quân nhân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung, cũng như giữ vững chủ quyền biển, đảo nói


riêng trong tình hình hiện nay.

1


KHÁI QUÁT VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

Việt Nam là quốc gia nằm bên bờ Tây của Biển Đông, với bờ biển dài
3.260km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển,
các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Như vậy, cứ 100km 2 đất liền có 01km
bờ biển. Diện tích biển nước ta khoảng trên 1 triệu km 2. Trong 63 tỉnh, thành phố
của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển.
Nước ta có khoảng 3000 hòn đảo lớn, nhỏ. Với tổng diện tích khoảng
1.636,6 km2 , trong đó có 82 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2, chếm 92% diện tích
các đảo. 23 đảo có diện tích trên 10 km 2, và 3 đảo có diện tích trên 100 km 2, Đảo
nước ta có vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ
sườn Đông của Tổ quốc, trong đó, có hai quần đảo quan trọng đó là Hoàng Sa và
Trường Sa.
* Quần đảo Hoàng Sa

Hoàng Sa nằm ở phía Bắc biển Đông, gồm trên 37 đảo, đá, cồn san hô và
bãi cạn trong vùng biển rộng khoảng 15.000km 2. Có hai đảo lớn là Phú Lâm và
Linh Côn, mỗi đảo rộng khoảng 1,5 km2. Từ lâu Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã
thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa. Trung Quốc đã chiếm
đóng trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và hiện đang tích cực triển khai các
hoạt động để khẳng định chủ quyền và dự kiến xây dựng đảo Phú Lâm (đảo lớn
nhất) hiện đại như Hồng Kông.
* Quần đảo Trường Sa

Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về phía

Nam. Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san hô nằm
trải rộng trong vùng biển khoảng 180.000km2, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc)
595 hải lý. Quần đảo Trường Sa là vị trí quân sự chiến lược án ngữ phía Đông
Nam nước ta. Các nhà chiến lược Phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát
được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.
Biển, đảo nước ta có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tê đất nước mà còn có vai trò lớn lao
trong công cuộc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

2


I. BIỂN ĐÔNG VÀ TÌNH HÌNH TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG TRONG
THỜI GIAN GẦN ĐÂY

1. Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Biển Đông
Biển đông là một trong 380 biển trên thế giới, có diện tích gần 3,5 triệu km 2
(gấp 8 lần biển Đen, gấp 1,2 lần Địa Trung Hải). Xung quanh biển Đông có 10
nước và vùng lãnh thổ là, Trung Quốc, Phiplíppin, Inđônêxia, Malaixia, Xingapo,
Brunây, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và Đài Loan. Biển đông có ảnh hưởng
trực tiếp của 300 triệu dân các nước này.
a. Về giao thông

Biển Đông Biển Đông là tuyến đường hàng hải và hàng không huyết mạch
trong khu vực và thế giới, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, Châu Âu,
Trung Đông với Châu Á và giữa các nước Châu Á với nhau, là vùng biển có 1
trong số 10 tuyến đường hàng hải lớn nhất trên thế giới. Hàng ngày có khoảng 200
- 300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại (không kể tàu dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu
lượng tàu hoạt động trên biển của thế giới.Năng lực vận tải qua biển Đông chiếm
45% năng lực vận tải quốc tế.

Biển Đông là yết hầu trong giao thông hàng hải và kinh tế đối với nhiều cường
quốc trên thế giới. Với Mỹ, đây là tuyến hoạt động chính của Hạm đội 7,90% hàng
hóa của Mỹ chuyên chở qua Biển Đông. Với Trung Quốc, hàng năm nhập 160 triệu
tấn dầu thì 50% dầu nhập và 70% hàng hóa qua Biển Đông. Với Nhật Bản, 70%
lượng dầu nhập khẩu và 42% lượng hàng hóa xuất khẩu chuyên chở qua Biển Đông.
* Đối với Việt Nam

Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía Đông, Nam và Tây Nam, các vùng
biển và thềm lục địa Việt Nam là một phần Biển Đông trải dọc theo bờ biển
khoảng 3.260 km. Cứ 100km2 có 1km bờ biển. Không một nơi nào trên đất nước
Việt Nam lại các xa biển hơn 500 km. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển,
Việt Nam có quyền tự nhiên lớn nhất đối với Biển Đông. Biển Đông cũng trở
thành không gian sinh tồn của dân tộc Việt Nam.
Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và
hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương,
giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu
vực. Dọc bờ biển Việt Nam có thể xây dựng nhiều cảng nước sâu như: Cái Lân,
3


Đình Vũ, Đồ Sơn, Cửa Lò, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quốc, Cam
Ranh... Ngoài sự hình thành mạng lưới cảng biển, các tuyến đường bộ, đường sắt
dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường
xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng
hóa nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi.
b. Về kinh tế:

Biển Đông chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời
sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, nhất là nguồn thủy sản và
khoáng sản.

Thủy sản: Sản lượng khai thác hàng năm của Trung Quốc khoảng 17 triệu

tấn (lớn nhất thế giới), In đô nê xi a và Thái Lan đạt 4 triệu tấn (Lớn thứ 9 thế
giới), Việt Nam đạt 3 triệu tấn (lớn thứ 20 thế giới).
Dầu khí: Biển Đông được coi là một trong bốn khu vực có trữ lượng lớn

của thế giới ở lòng đất đáy biển. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí
cao là các bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani, Nam Côn Sơn, Mê
Công, Sông Hồng… Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là
khu vực thềm lục địa ngoài của vịnh Bắc Bộ và bờ biển Miền Trung, khu vực
thềm lục địa Tư Chính. Các nhà khoa học dự đoán, Biển Đông chứa khoảng 130
tỷ thùng dầu và hàng ngàn tỷ m3 khí tự nhiên.
Mới đây các nhà khoa học phát hiện, Biển Đông có nguồn tài nguyên mới là
“băng cháy”. Đây là tên gọi thông thường của hợp chất mê tan và nước ở nhiệt độ
thấp và áp suất cao dưới đáy biển. Năng lượng tỏa ra từ 1m3 băng cháy tương
đương với năng lượng tỏa ra từ 180m 3 khí thiên nhiên (Ước tính, trữ lượng băng
cháy chiếm khoảng 10% tổng diện tích hải dương (3,6 triệu km 2), đủ cho loài
người sử dụng trong khoảng 1000 năm).
* Đối với Việt Nam

Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ, khí
đốt. Trữ lượng dự báo tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn
dầu quy đổi và khoảng 1.000 tỷ m3 khí. Ngoài ra còn có các khoáng sản quan trọng
và có tiềm năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát thủy tinh, muối và các loại
vật liệu xây dựng.
4


Nguồn thủy, hải sản trong vùng biển nước ta vô cùng to lớn khoảng 11.000
loài sinh vật, nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Thủy sản là một trong những ngành

kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong các ngành kinh tế
của đất nước.
Biển Việt Nam có tiềm năng du lịch lớn với nhiều thắng cảnh thiên nhiên,
bãi tắm nổi tiếng như: Hạ Long, Nha Trang, Vũng Tàu, Cửa Lò, Sầm Sơn... Các di
tích lịch sử, văn hóa như: Cố đô Huế, phố cổ Hội An, Nhà thờ đá Phát Diệm…
phân bố tại vùng ven biển.
c. Về chính trị, quốc phòng – an ninh:

Biển Đông là nơi tập trung các mâu thuẫn chính trị, kinh tế:
- Là nơi diễn ra tranh chấp quyết liệt, phức tạp nhất.
Những năm gần đây, trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển đảo
rất quyết liệt và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Nơi đây đang diễn ra
những tranh chấp về chủ quyền giữa các quốc gia, đẩy tới xu hướng tăng cường
lực lượng quân sự, đặc biệt là Hải quân của các nước trong khu vực.
- Liên quan đến nhiều quốc gia nhất (Kể cả nước có chủ quyền và không có
chủ quyền, kể cả các nước trong khu vực và trên thế giới).
Nếu khủng hoảng sẽ dẫn đến: Giao thông gián đoạn, hậu quả thiệt hại nặng
về kinh tế, nhiều nền kinh tế suy thoái và ảnh hưởng đến an ninh thế giới.
* Đối với Việt Nam:

Trên Biển Đông, vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển 7 nước là, Trung
Quốc, Campuchia, Thái Lan, Philippin, Malaixia, Inđônêxia, Brunây. Biển Đông có
địa thế hết sức hiểm yếu đối với thế phòng thủ nước ta, trong đó có 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa chiến lược về quân sự và kinh tế, là nơi lý tưởng
để thiết lập các căn cứ quân sự chiến lược nhằm kiểm soát các tuyết đường qua lại.
Do đặc điểm lãnh thổ đất liền hình chữ S trải dài ven biển từ Bắc vào Nam,
(nơi rộng nhất khoảng 600km, nơi hẹp nhất khoảng 50km), nên chiều sâu đất nước
bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm trong
phạm vi cách bờ biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu
chiến tranh xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt động, bắn

phá của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất phát từ hướng biển.
5


Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ được củng cố xây dựng căn cứ, vị trí trú
đậu, triển khai của lực lượng Hải quân Việt Nam và sự tham gia của các lực
lượng khác thì biển đảo có vai trò quan trọng làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu
quả cho đất nước. Vì vậy, việc phòng thủ từ hướng biển luôn mang tính chiến
lược của nước ta.
2. Tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
Hiện nay, Biển Đông là nơi mà nhiều quốc gia (kể cả các quốc gia có và
không có chủ quyền, các nước trong khu vực và các nước trên thế giới) đều có
những tuyên bố về lợi ích và tranh chấp chủ quyền đối với Biển Đông. Tình hình
tranh chấp ở Biển Đông hiện nay đã, đang và sẽ có những diễn biến phức tạp, tiêu
biểu là trên quần đảo Trường Sa hiện nay với 5 quốc gia và 1 vùng lãnh thổ.
Quá trình tuyên bố chủ quyền và sự hiện diện của các bên ở Trường Sa.
Philippin: Hiện diện tại Biển Đông vào những năm 1971-1973. Hiện nay,

Philippin có mặt tại 8 đảo trên quần đảo Trường Sa. Năm 2009, Philippin đã công
bố luật mới về đường cơ sở gồm 135 điểm cơ sở trong đó có 9 điểm nằm trong
vùng quần đảo Trường Sa.
Malaixia: Cũng hiện diện tại Trường Sa từ những năm 1971. Malaixia ủng

hộ chủ trương hợp tác đa phương để tìm giải pháp cho toàn bộ quần đảo Trường
Sa, nhưng họ cũng ủng hộ chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác” của Trung
Quốc và phương châm của Malaixia là “khai thác trước, chủ quyền sau”. Malaixia
đang hiện diện tại Trường Sa với 7 điểm đảo.
Đài Loan: Hiện đã chiếm giữ đảo Ba Bình (đảo lớn nhất trong quần đảo

Trường Sa) và bãi cạn Bàn Than. Đài Loan dựa vào Mỹ để tuyên bố độc lập

nhưng lại thỏa hiệp với Trung Quốc để “bảo vệ chủ quyền của người Hoa”.
Ngoài ra, Đài Loan đang tập trung xây dựng đảo Ba Bình thành căn cứ quân sự
mạnh gồm hải cảng và sân bay quân sự.
Brunây: Mặc dù không có bất cứ sự hiện diện nào ở Trường Sa song cũng

đưa ra yêu sách chủ quyền ở biển Đông.
Trung Quốc: Hiện đã chiếm giữ 7 điểm tại Trường Sa. Trong thời gian gần

đây, Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều hoạt động vi phạm, xâm chiếm chủ quyền
biển, đảo trên biển Đông, tiêu biểu như:

6


Ngày 26/5/2011, tàu Hải giám Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp tàu Bình
Minh 02 đang hoạt động trên vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
Ngày 21/6/2012 Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn quyết định thành lập
thành phố Tam Sa (bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa). Ngày 23/6/2012 Trung
Quốc công bố mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí nằm sâu trong thềm lục địa của Việt
Nam.... Theo yêu sách đường chữ U thì toàn bộ quần đảo Trường Sa đều thuộc
Trung Quốc, điều đó đều bị Việt Nam và các nước liên quan và dư luận quốc tế
phải đối kịch liệt.
Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái
phép giàn khoan Hải Dương (HĐ 981) nằm sâu trong vùng biển thuộc quyền
chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, thu hút sự quan tâm của thế giới.
Đây là sự bộc lộ một nấc thang mới trong việc áp đặt mang tính nước lớn của
Trung quốc, thách thức các nước quanh Biển Đông.
Trong 2 năm (9/2013 – 7/2015). Trung Quốc tiến hành cải tạo, bồi đắp
trái phép các đảo, bãi đá ngầm trên một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Các
hành động này đã hủy hoại một diện tích khổng lồ 12,8 triệu m 2 (băng 1/3 diện

tích thủ đô Manlila của Philippin) bề mặt rạn san hô trên quần đảo Trường Sa,
khối tích các và san hô bị phá hủy khoảng 130 triệu m 3…
Đối với Việt Nam: Thực tế và lịch sử, Việt nam thực sự chiếm hữu hai quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XVII khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất
cứ quốc gia nào. Nhà Nước Việt Nam đã thực hiện liên tục chủ quyền của mình
cho đến khi bị nước ngoài dùng vũ lực xâm chiếm. Hiện nay, Việt Nam có thể
đứng vững chắc ở Trường Sa với việc đang làm chủ 21 đảo gồm 9 đảo nổi và 12
đảo chìm với 33 điểm đóng quân.
Mỹ :
Biển Đông không phải là ưu tiên cao trong chiến lược toàn cầu của Mỹ,
nhưng Mỹ có lợi ích quan trọng là duy trì hòa bình, ổn định và tự do hàng hải ở
Biển Đông, không để nước nào, nhất là Trung Quốc, độc chiếm Biển Đông, kiềm
chế ảnh hưởng của Trung Quốc.
Về mặt quân sự, Biển Đông là măt xích quan trọng trong phòng tuyến chạy
từ vịnh Péc – xích, qua Biển Đông, đến bán đảo Triều Tiên. Đây là điểm quá cảnh
và vùng hoạt động của hải quan (chủ yếu là hạm đội 7) và không quân Mỹ. Đặc
7


biệt, quần đảo Trường Sa có vị trí chiến lược do các tuyến đường vận chuyển hàng
hải quốc tế chủ yếu đều đi qua khu vực gần quần đảo, có thể sử dụng quần đảo làm
căn cứ theo dõi và kiểm soát các hạm đội trên biển. Mỹ cói Biển Đông là một trong
những điểm nóng tiềm tàng:
Từ tháng 10/1994, Bộ Quốc phòng Mỹ đưa Biển Đông vào danh sách những
điểm nóng trên thế giới.
Đến nay, các công ty dầu khí lớn của Mỹ đã ký kết hợp đồng thăm dò và
khai thác dầu khí với hầu hết các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Mỹ khuyến khách ASEAN đóng vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình
ổn định tại Biển Đông.

23/7/2010, phát biểu tại cuộc họp báo sau khi dự diễn đàn an ninh khu vực
ARF tại Hà Nội, ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton cho biết oasinhton quan ngại
rằng tranh chấp chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động thương mại trên biển và ngăn trở các tuyến hàng hải quốc tế. Bà cũng
cho biết : “ Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc giải quyết những tranh chấp này. Mỹ
ủng hộ tất cả các bên cùng nhau tìm giải pháp chính trị để giải quyết tranh chấp
vùng lãnh thổ. Chúng tôi phản đối việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực của bất kỳ bên
nào”.
II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA LIÊN QUAN
ĐẾN VẤN ĐỀ BIỂN ĐẢO.
Giải quyết vấn đề tranh chấp biển đông là một quá trình lâu dài, khó khăn,
phức tạp, vì liêu quan đến nhiều nước, nhiều bên. Giữ vứng chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông là những vấn đề mang tính toàn
cục. Giải quyết tranh chấp và xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông cần được đặt
trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong chính sách
đối ngoại hòa bình, độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của ta với
các nước.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng: Kiên trì, kiên quyết 2 mục tiêu chiến lược, độc

lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vẫn đề bất di bất dịch và giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước.
* Chủ trương:
8


Một là, kiên định giải quyết các tranh chấp bằng giải pháp hòa bình, bằng

sức mạnh tổng hợp: đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, lịch sử và chuẩn bị cả
phương án đưa ra tòa án quốc tế khi cần thiết.
Đây chính là chủ trương thực sách. Chúng ta không thể dùng vũ lực để giải

quyết vấn đề chủ quyền một cách toàn diện, mà phải kết hợp sức mạnh tổng hợp,
tạo ra các mối quan hệ đa phương, song phương tốt. Chúng ta muốn hòa bình, tất
cả các nước cũng vậy, đây chính là điểm mấu chốt để giải quyết các vấn đề liên
quan đến biển, đảo hiện nay.
Việc đề nghị “gác tranh chấp, cùng khai thác của Trung Quốc, Việt Nam
không phản đối nhưng không chấp nhận tuyên bố “chủ quyền thuộc ngã” (chủ
quyền thuộc về ta) của Trung Quốc.
Việc áp dụng giải phát tạm thời theo quy định của công ước Luật biển 1982
có trước khi các bên đàm phán để thống nhất được một ranh giới biển cho những
vùng chồng lấn được hình thành bởi các yêu sách do các bên đưa ra theo các tiêu
chuẩn của Công ước Luật Biển năm 1982. Tuy nhiên, Việt Nam không chấp nhận
“đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc là đường yêu sách để tạo thành vùng
chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Do vậy, không
thể “cùng phát triển” trong khu vực được tạo bởi “đường lưỡi bò” lấn sâu vào vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục khai thác và bảo vệ các nguồn lợi kinh tế
trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, trong đó có các hoạt động của các công ty
dầu khí. Việt Na hoan nghênh và cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty
nước ngoài có thực lực và kinh nghiệm tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác tài
nguyên dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam.
Chúng ta kiên trì, tránh xung đột nhưng khi chủ quyền bị xâm phạm chúng
ta sẵn sàng giáng trả bằng quyền tự vệ chính đáng. Ta sẵn sàng chuẩn bị các
phương án sẵn sàng chiến đấu từ thấp nhất đến cao nhất. Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta cũng đã đầu tư, mua sắm nhiều loại vũ khí, phương tiện hiện đại. Nhưng
chúng ta luôn hi vọng: mua để sẵn sàng đối phó với mọi tình huống chứ không
phải dùng đến để giải quyết tranh chấp.

9



Hai là, xử lý thật tốt mối quan hệ toàn vẹn độc lập, chủ quyền và duy trì hoà

bình ổn định. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cố gắng ở mức cao nhất duy
trì môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, coi trọng quan hệ với Trung Quốc trong khuân khổ hợp tác, đối tác

chiến lược toàn diện, giữ vững hòa hiếu, hòa khí, xây dựng tình đoàn kết hữu nghị
và thực hiện các cam kết đã ký với Trung Quốc.
Bốn là, thực hiện thắng lợi đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, đa dạng

hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế. Trong quan hệ ngoại giao phải khôn
khéo (không dựa vào bên này để chống bên kia và ngược lại)
* Biện pháp:
Một là, chủ trương giải quyết vấn đề biển Đông bằng biện pháp hòa bình

Xu thế của thời đại: Hòa bình ổn định, hợp tác, phát triển là xu thế chủ đạo
của thế giới hiện nay. Việt Nam chúng ta cần một môi trường hòa bình, ổn định và
phát triển để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Vì vậy, cần nắm chắc xu thế và
theo xu thế.
Thực tiễn lịch sử chính sách đối ngoại của nước ta từ khi dựng nước đến nay
luôn đặt chữ “hòa hiếu” lên hàng đầu. Quan hệ Việt – Trung kể từ năm 1991 (Sau
khi bình thường hóa quan hệ) đến nay, ta đã giải quyết tốt 2/3 vấn đề với Trung
Quốc đó là biên giới trên bộ và Vịnh Bắc Bộ. Chúng ta kiên trì đàm phán hòa bình
với Trung Quốc những vấn đề tranh chấp ở Biển Đông hiện nay
Việt Nam tuân thủ công ước Liên Hợp quốc và Luật Biển Việt Nam là giải
quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Hai là, đấu tranh kiên quyết bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của

Trung Quốc

Ta đã sưu tầm được 56 bản đồ cổ do người phương Tây vẽ trong quá trình
phát kiến hàng hải, giao thương, truyền giáo ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương
khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam, trong đó có tấm bản đồ: “ Hoàng triều thực
tỉnh đại dư toàn đồ” do nhà xuât bản Thượng Hải in năm 1904 ghi rõ cực Nam của
Trung Quốc là đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa, Trường Sa.

10


Ba là, giải quyết vấn đề Biển Đông vừa đấu tranh cả song phương và đa

phương, khôn khéo, bình tĩnh, tỉnh táo, trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Nơi nào tranh chấp đa phương thì giải quyết đa phương, tranh chấp song
phương thì giải quyết song phương, không nhất trí với quan điểm của Trung Quốc
là giải quyết Biển Đông với từng nước một.
Bốn là, Tuyên truyền sâu rộng trong nước, đẩy mạnh công tác tuyên truyền

đối ngoại:
Dân tộc ta là dân tộc yêu chuộng hòa bình, hòa hiếu với các dân tộc trên thế
giới, để nhân dân thế giới và nhân dân Trung Quốc hiểu rõ chính nghĩa thuộc về ta...
Biển Đông dậy sóng hay yên bình đang là một vấn đề rất được tất cả các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới quan tâm. Nó phụ thuộc vào thiện chí và trách
nhiệm của các bên có liên quan, kể cả trong khu vực và ngoài khu vực. Mặc dù vẫn
còn đó tiềm ẩn của những mối nguy cơ Biển Đông nổi sóng to gió lớn. Tuy nhiên
điều quan trọng là ngày nay nhân loại đã nhận dượng được nguyên nhân gây ra
những cơn sóng dữ và với những quyết tâm chính trị và nỗ lực không ngừng của
cộng đồng khu vực và quốc tế, chắc chắn sẽ tìm được biện pháp ngăn chặn và đè
bẹp chúng để giữ cho Biển Đông được yên bình vốn có như từ thủa hồng hoang.
III. TRÁCH NHIỆM CỦA MỖI CÔNG DÂN ĐỐI VỚI NHIỆM VỤ BẢO
VỆ BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC


Thưa toàn thể các đồng chí. Biển, đảo Việt Nam là bộ phận lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc, cấu thành chủ quyền của quốc gia...Nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc rất nặng nề, đòi hỏi phải thường xuyên quán triệt,
nắm vững quan điểm, tư tưởng của Đảng, tổ chức triển khai thực hiện chủ động,
sáng tạo trong thực tiễn ở mọi cấp, nghành và toàn dân. Trong tình hình hiện nay,
mỗi chúng ta cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau.
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng trong cơ quan,

đơn vị, làm cho mỗi người có nhận thức đúng đắn, có niềm tin vững chắc về sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc nói chung và biển, đảo quê hương nói riêng, đồng thời xây
dựng ý chí quyết tâm học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp
phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện cũng như góp phần bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển đảo quê hương.
11


Hai là, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải là một tuyên truyền viên tại

gia đình, địa phương. Tích cực tuyên truyền, vận động mọi người thực hiện tốt
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước liên quan đến vấn đề biển, đảo.
Ba là, nhận thức đúng đắn về vai trò của biển, đảo đối với sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thông qua việc nghiên cứu tình hình Biển Đông và quan
điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng liên quan đến vấn đề biển đảo, chúng ta đấu
tranh trước những âm mưu, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, muốn
dùng các vấn đề nhạy cảm để chống phá cách mạng nước ta. Mỗi cán bộ, đảng
viên chúng ta ngồi đây, là người Việt Nam có tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc. Là người công dân, chúng ta có ý thức bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc. Chúng ta “Đồng tâm, đồng ý, đồng chí đồng lòng” xây đắp truyền thống

“hào khí, hòa hiếu và nhân văn” của dân tộc, tạo nên sức mạnh vững chắc bảo vệ
biển, đảo quê hương./.

12



×