Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Giới thiệu phật giáo ở nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.67 KB, 5 trang )

Ph ật giáo ở Nh ật B ản
Phật giáo được truyền bá vào Nhật Bản qua bán đảo Triều Tiên muộn hơn nhiều so với Việt
Nam. Cho tới nay, thời điểm Phật giáo vào Nhật Bản được coi là năm 538 sau Công nguyên, vua
Bách Tế (một vương quốc thuộc bán đảo Triều Tiên) cử đoàn sứ thần sang Nhật Bản, trong đó có
cả các nhà sư cùng với tặng phẩm là bức tượng Phật bằng vàng và một bộ kinh Phật. Tuy vậy,
trong dân gian, Phật giáo đã được truyền bá từ trước đó vào thông qua những người nước ngoài.
Phật giáo đã từng bước hiện diện trong đời sống xã hội ở Nhật Bản. Thời kỳ đầu, Phật giáo chỉ
có ảnh hưởng đối với giới quí tộc, sau đó mới dần truyền bá trong tầng lớp bình dân. Người có
vai trò quan trọng nhất trong sự phát triển của Phật giáo Nhật Bản thời kỳ này là Thái tử Shotoku
(聖徳太子- Thánh Đức Thái tử). Bên cạnh đề cao tôn giáo truyền thống là Thần đạo, Thái tử
Shotoku đã ban bố Hiến pháp 17 điều, trong đó ghi rõ: “Dốc lòng tín ngưỡng nơi Tam bảo, qui y
theo Phật, Pháp, Tăng. Dứt bỏ tà tâm, tuyệt đối tuân theo giáo lý nhà Phật". Đây là bằng chứng
khẳng định có tính pháp lý về vị trí của Phật giáo tại Nhật Bản thời đó.

Cho tới nay, Phật giáo Nhật Bản đã trải qua gần hai nghìn năm lịch sử với nhiều thăng trầm.
Thời kỳ Nara (奈良, 710- 794), Phật giáo có vị trí như một tôn giáo nhà nước, phát triển mạnh
mẽ và khá đa dạng, với 6 tông phái chủ yếu bao gồm : Tam Luận tông (三論宗), Thành Thực
tông (成実宗), Câu Xá tông (倶舎宗), Pháp Tướng tông (法相宗), Hoa Nghiêm tông (華厳宗),


Luật tông(律宗), được gọi chung là “Nam Đô lục tông ". Phật giáo Nhật Bản mang màu sắc nhập
thế, nhằm đi vào lòng người thuộc mọi đối tượng. Với hai khuynh hướng: khuynh hướng cung
cấp những dịch vụ thiết thân như chữa bệnh, làm lễ trong đám tang, vỗ về người sống bằng các
nghi lễ cầu hồn nhằm tạo sự an tâm về sự quấy rối của linh hồn khi có người chết…cho quảng
đại quần chúng và khuynh hướng phục vụ những người coi thế giới này là ảo và chất đầy sự đau
khổ, đem lại cho họ nhận thức và phương tiện để giải thoát, Phật giáo Nhật Bản nhanh chóng
được cả giới cầm quyền và đông đảo người dân chấp nhận.Điều đáng chú ý là trong số các tôn
giáo lớn trên thế giới, Phật giáo chủ trương hoằng hóa, phổ độ bằng con đường hòa bình. Chủ
trương này được khởi xướng từ việc tôn trọng cá nhân, đức tin của cá nhân. Theo Phật giáo, đã là
một tín niệm, không thể cưỡng bức mà là quá trình tự giác. Điều này có thể không tìm thấy ở
những tôn giáo khác khi các tôn giáo này chỉ thừa nhận bản thân mình là duy nhất, ngoài nó là


“tà đạo”, “dị đạo”. Hơn nữa, với phương châm “Tùy duyên phương tiện ” trong tu hành, trong
hoằng dương Phật pháp mà Phật giáo nhanh chóng thích ứng với tín ngưỡng bản địa, trở thành
một bộ phận văn hóa ở những nơi nó có mặt. Ở Nhật Bản, Phật giáo kết hợp chặt chẽ với tín
ngưỡng bản địa là Thần đạo để tạo thành một tín ngưỡng độc đáo là tín ngưỡng Thần Phật tập
hợp ngay từ ngày đầu du nhập. Tới thời kỳ Heian (平安, 794- 1185), Phật giáo xuất hiện thêm ba
tông phái, đó là Thiên Thai tông (天台宗)và Chân Ngôn tông (真言宗), Tu Nghiệm đạo(修験道).
Bước sang thời kỳ Kamakura (鎌倉,1185-1333), xuất hiện thêm phái Tịnh Thổ tông(浄土宗),
Tịnh Thổ Chân tông (浄土真宗), Nhật Liên tông (日蓮宗),Thiềntông (禅宗).Tới thời kỳ NamBắc triều (南北朝, 1336- 1392,là giai đoạn đầu của thời kỳ Muromachi)và Muromachi (室町)
(1334- 1573), xã hội xảy ra nhiều hỗn loạn, Thiền tông, Nhật Liên tông và Tịnh Độ tông phát
triển mạnh mẽ. Đến thời kỳ Edo (江戸,1600- 1868), để tiêu diệt tận gốc Cơ Đốc giáo, Mạc phủ
Tokugawa lợi dụng Phật giáo, đề ra chế độ Danka (檀家- Đàn gia),bắt buộc người dân phải đăng
ký vào một ngôi chùa và cung cấp nuôi sống nhà chùa, tăng lữ Phật giáo có quyền quản lý về hộ
tịch, hộ khẩu.


Cuối thời Edo, chủ nghĩa “Tôn vương nhượng di ” xuất hiện, chính quyền Mạc phủ phải trao trả
lại quyền lực cho Thiên hoàng. Từ đây, chiến dịch bãi Phật phát triển, truyền thống Thần- Phật
hợp nhất dần dần bị mai một, nhường chỗ cho sự khôi phục vị thế của Thần đạo thời kỳ Minh Trị
duy tân(明治, 1868- 1912). Để củng cố quyền lực, chính quyền Minh Trị đã lợi dụng đức tin vào
Thần đạo để thiết lập cơ cấu chính trị ổn định tập trung vào Thiên hoàng. Trong bối cảnh như
vậy, Phật giáo lâm vào một giai đoạn khó khăn, song vẫn kiên trì bền bỉ, tiến hành các biện pháp
phản đối những chính sách hà khắc của chính phủ. Do vậy, năm 1889, Hiến pháp được ban bố đã
có điều 28 quy định tín ngưỡng tự do. Để tồn tại trong bối cảnh mới, Phật giáo Nhật Bản đã tự
thích nghi và đổi mới, nhiều sư tăng đã du họcchâu Âu, đem về nước một phương pháp học thuật
mới, cải cách giáo dục Phật giáo và hướng hoạt động Phật giáo vào hoạt động thế tục. Tình hình
đó đã hình thành ở Nhật một phong trào nhập thế chưa từng có, làm tiền đề cho những hoạt động
tham chính về sau của một số tổ chức Phật giáo, tiêu biểu là Soka Gakkai (創価学会- Sáng Giá
Học Hội). Thời kỳ Taisho (大正, 1912- 1926), do quá trình tiếp xúc văn hóa Đông- Tây, xuất
hiện hàng loạt tông phái, hội đoàn mới, các tông phái này khá chú trọng vào việc xây dựng, củng
cố tổ chức. Phật giáo Nhật Bản lần đầu tiên đã có tổ chức thống nhất lấy tên là “Hội Liên hiệp

Phật giáo ” (1915). Cũng từ thời kỳ này, Phật giáo Nhật Bản bắt đầu truyền bá ra nước ngoài, ở
Trung Hoa, Triều Tiên, Đài Loan, Mỹ…

Trước Chiến tranh Thế giới II, các tông phái Phật giáo chính thức được công nhận bao gồm 13
tông 56 phái. Sau khi Nhật Bản bại trận trong cuộc Chiến tranh Thế giới II, quân đội Đồng minh
do Mỹ đứng đầu đã tiến hành một loạt thay đổi quan trọng, trong đó có việc xóa bỏ nguyên tắc
“tế chính nhất trí” ,(祭政一致 -dùng tôn giáo để phục vụ cho sự thống trị, được giới cầm quyền
Nhật Bản áp dụng triệt để cho đến trước năm 1945). Tháng 12 năm 1945, Thần đạo Quốc gia đã


bị giải thể, để xác lập tự do tín ngưỡng, tất cả các tôn giáo đều bị tách khỏi nhà nước. Luật về
đoàn thể tôn giáo nhằm kiểm soát tôn giáo trong chiến tranh đã bị bãi bỏ.

Như vậy, chế độ tôn giáo nhà nước đã tồn tại suốt mười mấy thế kỷ ở Nhật Bản bị bãi bỏ, các
tôn giáo có quyền quyết định hướng đi và nắm lấy cơ hội phát triển cho mình, không can dự vào
chính trị mà chỉ thuần tuý hoạt động về tư tưởng, tinh thần. Hiến pháp công bố năm 1947 đã quy
định rõ tự do tín ngưỡng và tách biệt chính trị với tôn giáo. Song điều này cũng gây ra những
khó khăn không chỉ cho Thần đạo, mà cả cho Phật giáo và các tôn giáo khác, do trước đó họ đều
được sự bảo trợ của chính phủ. Những đặc quyền đặc lợi của một số tông phái đã bị xoá bỏ. Mặc
dù vậy, các tổ chức Phật giáo dần dần hồi phục được vị trí vốn có của mình, từ 13 tông 56 phái
phân phái thành 28 tông phái. Kể từ khi Luật pháp nhân tôn giáo ( 宗教法人法) ban hành năm
1951, quyền kinh doanh hợp pháp của các hoạt động kinh tế của các tổ chức tôn giáo nói chung,
trong đó có Phật giáo đã được xác nhận, đây là một trong những nguyên nhân chính đã thế tục
hóa các tổ chức Phật giáo sau Chiến tranh.




×