Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Giới thiệu các thể loại âm nhạc nổi tiếng ở nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.28 KB, 9 trang )

Các thể loại âm nhạc nổi tiếng ở Nhật Bản
J-Pop

AKB48, một nhóm nhạc thần tượng nữ đã bán được hơn 30 triệu đĩa.

J-pop, viết tắt của nhạc pop Nhật, là khái niệm về một thể loại nhạc du nhập vào xu thế âm nhạc
Nhật Bản vào những năm 1990. J-pop hiện đại có nguồn gốc từ nhạc pop và nhạc rock những năm
1960, như là ban nhạc The Beatles, dẫn đến những ban nhạc như Happy End kết hợp rock với âm
nhạc Nhật Bản.[10] J-pop còn được định nghĩa rộng hơn bởi những những ban nhạc New Wave như
là Yellow Magic Orchestra và Southern All Stars vào cuối những năm 1970.[11] Cuối cùng, J-pop thay
thế cho kayōkyoku ("giai điệu pop ", một thuật ngữ cho nhạc pop Nhật từ những năm 1920 đến
những năm 1980) trong bối cảnh âm nhạc Nhật Bản. [12] Thuật ngữ được tạo ra bởi giới truyền thông
Nhật Bản để phân biệt nhạc Nhật với nhạc nước ngoài.
Những thần tượng âm nhạc đóng một vai trò lớn trong thị trường âm nhạc Nhật, với những nhóm
nhạc thần tượng nữ và nam thường xuyên dẫn đầu bản xếp hạng đĩa đơn. Trong đó bao gồm các
ban nhạc như Arashi, có đĩa đơn bán chạy nhất năm 2008 và 2009, và nhóm AKB48, với đĩa đơn
bán chạy nhất kể từ năm 2010.
Nhạc sàn và nhạc disco
Vào năm 1984, nhạc sỹ người Mỹ Michael Jackson trở thành nghệ sỹ phương Tây đầu tiên có
album([ Thriller]) bán hơn 1 triệu bản theo như bảng xếp hạng Oricon.[13] Phong cách của ông được
coi như hình mẫu cho nhạc nhảy Nhật Bản, dẫn đầu danh sách ưa thích của công tyAvex Group và
Johnny & Associates.[14]
Năm 1990, hãng Avex Trax bắt đầu phát hành loạt đĩa mang tên Super Eurobeat ở Nhật. Nhạc
Eurobeat ở Nhật bản đã làm nên sự thành công của hình thức nhảy nhóm Para Para. Trong khi
những nghệ sĩ của hãng Avex như là Every Little Thing và Ayumi Hamasaki trở nên nổi tiếng trong
những năm1990, những tên tuổi mới cũng nổi lên vào cuối những năm 1990 bao gồm Hikaru
Utada và Morning Musume. Album ra mắt của Hikaru Utada, First Love, trở thành album bán chạt
nhất của Nhật với 7 triệu bản, còn Ayumi Hamasaki trở thành nữ nghệ sỹ và nhạc sỹ solo hàng đầu
của Nhật, và Morning Musume vẫn là nhóm nhạc nữ được biết đến nhiều nhất của nền công nghiệp
nhạc pop Nhật Bản.



Rock
Vào những năm 1960, nhiều ban nhạc rock Nhật chịu ảnh hưởng bởi dòng nhạc Rock phương Tây
như của ban Beatles, Bob Dylan, và the Rolling Stones, cùng với dòng nhạc khác như nhạc dân
gian Appalachian, psychedelic rock, mod và các thể loại tương tự: một hiện tượng mang tên Group
Sounds (G. S.). John lennon của nhóm nhạc The Beatles sau này trở thành một trong những hình
tượng nhạc sỹ phương Tây nổi tiếng nhất ở Nhật Bản.[15] Group Sounds là một thể loại rock Nhật
Bản nổi tiếng vào giữa cho đến cuối những năm 1960. [phạt cần] Sau sự bùng nổ của thể loại nhạc này,
có một vài nhạc sỹ sáng tác nổi danh. Nobuyasu Okabayashi là người đầu tiên được biết đến rộng
rãi.[phạt cần]Wataru Takada, chịu ảnh hưởng bởi ca sỹ Woody Guthrie, cũng trở nên nổi tiếng.[phạt cần]. Họ
đều đi theo phong cách của nhạc dân gian Mỹ nhưng thay vào đó là viết lời ca Nhật Bản. Takada sử
dụng thơ hiện đại Nhật Bản cho lời nhạc, trong khi Kazuki Tomokawa sử dụng lời thơ của Chuya
Nakahara. Tomobe Masato, lấy cảm hứng từ Bob Dylan, viết lên những bản nhạc được đánh giá rất
cao.[phạt cần] The Tigers lại là nhóm nhạc nổi tiếng nhất của thể loại nhạc này trong thời kỳ đó. Sau đó,
là vài thành viên của The Tigers, The Tempters và The Spiders, tách nhóm và thành lập ra siêu ban
nhạc Pyg.
Dòng nhạc rock kết hợp với nhạc dân gian đã được hình thành từ những năm 1960. [phạt cần] Những
ban nhạc như Happy End được coi là gần như là đã tạo ra thể loại nhạc này. Vào những năm 1970,
thể loại nhạc này càng trở nên nổi tiếng hơn.[phạt cần] Những ban nhạc như Champloose, cùng với
Carol (dẫn dắt bởi Eikichi Yazawa), RC Succession và Shinji Harada đặc biệt nổi tiếng và giúp định
hình giai điệu của thể loại này. Đôi lúc, vào buổi đầu cuối những thập niêm 60, hoạt động mạnh vào
những năm 70, có những nhạc sĩ kết hợp nhạc rock với nhạc dân gian Mỹ và các yếu tố nhạc pop,
thường được người Nhật gọi là nhạc "dân gian" do dùng đàn guitar acoustic. Trong đó, có những
ban nhạc là Off Course, Tulip, Alice (dẫn dắt bởi Shinji Tanimura), Kaguyahime, Banban, Garo và
Gedō hoặc các nghệ sỹ độc tấu như Yosui Inoue, Yuming, và Iruka. Các nhóm sau này, như Kai
Band (dẫn dắt bởi Yoshihiro Kai) và Southern All Stars thời kỳ đầu, cũng gắn liền với phong trào
trên.


Ban nhạc Yellow Magic Orchestra, năm 2008


Một số nhạc sỹ Nhật Bản đã bắt đầu thử nghiệm nhạc cụ điện tử vào rock vào đầu những năm
1970. Ví dụ điển hình như Isao Tomita, với album kết hợp nhạc cụ điện tử với nhạc rock đương đại
và pop, Electric Samurai: Switched on Rock, vào năm 1972.[16] Một vài bản thu khác bao gồm album
Ice World (1973) của Inoue Yousui và album sử dụng Progressive rock, Benzaiten (1974), của
Osamu Kitajima. Cả hai đều có sự đóng góp của Harruomi Hosono, người mà sau này lập ra ban
nhạc mang tên "Yellow Magic Band" (sau này đổi thành "Yellow Magic Orchestra") vào năm 1977. [17]
Vào những năm 1980, ban nhạc Boøwy gợi cảm hứng cho các nhóm nhạc Alternative
rock như Shonen Knife, The Pillows, và Tama & Little Creatures, cũng như nhiều nhóm nhạc thể
nghiệm như Boredoms và những nhóm nhạc trào lưu như Glay. Vào năm 1980, Huruoma và Ry
Cooder, các nhạc sỹ người Mỹ, hợp tác cùng làm nên album rock với Shoukichi Kina, tạo tiền đề
cho nhóm nhạc Okinawan Champloose nêu lên ở trên. Cũng trong thòi kỳ những năm 1980, nhạc
metal của Nhật và các ban nhạc rock đã tạo ra một phong trào mang tên visual kei, với các nhóm
nhạc đại diện như X Nhật, Buck-Tick, Luna Sea, Malice Mizer và nhiều ban nhạc khác nữa, một
trong số đó đã gặt hái được thành công ở trong nước cũng như quốc tế trong những năm gần đây.
Trong những năm 1990, các ban nhạc rock Nhật Bản như B'z, Mr. Children, Glay, Southern All
Stars, L'Arc-en-Ciel, Tube, Spitz, Wands,T-Bolan, Judy and Mary, Asian Kung–Fu Generation, Field
of View, Deen, Ulfuls, Lindberg, Sharam Q, The Yellow Monkey, The Brilliant Green và Dragon
Ash giành được những thành quả lớn.[phạt cần] B'z là có tiết mục bán chạy số 1 tại Nhật kể từ
khi Oricon bắt đầu xếp hạng.[phạt cần], theo đó là Mr. Children.[phạt cần] Những bài hát nhạc pop được sử
dụng thường xuyên trong phim, anime, truyền hình quảng cáo và các chương trình drama, trở thành
một trong những thể loại âm nhạc bán chạy nhất tại đất nước mặt trời mọc. [phạt cần]Sự trỗi dậy của các
bài hát pop có sẵn luôn được liên hệ với sự ưa thích karaoke, dẫn tới các chỉ trích của Kazufumi
Miyazawa của ban nhạc The Boom rằng: "Tôi ghét việc các bài hát được mua, nghe rồi bỏ đi rồi lại
được hát lại ở các quán karaoke." Các nhóm nhạc phong trào visual kei, như Luna Sea đã dành
được thành công liên tiếp, trong khi đó các ban nhạc như Malice Mizer, La'cryma Christi, Shazna,
Janne Da Arc, và Fanatic Crisis cũng đạt được thành công vào cuối những năm 1990. [phạt cần]

Sân Khấu của Lễ hội Fuji Rock.



Lễ hội Fuji Rock đầu tiên bắt đầu vào năm 1997. Lễ hội Rising Sun Rock mở cửa vào năm 1999. Lễ
hội Summer Sonic và lễ hội Rock in Japan đã mở vào năm 2000. Dù những năm 2000 không cuồn
nhiệt bằng, các nhóm mới như Bump of Chicken, ONE OK ROCK, Sambomaster, Flow, Orange
Range, Remioromen, Uverworld, Radwimps và Aqua Timez, đã đạt được thành công. Các nhóm từ
trước như B'z, Mr. Children, Glay, and L'Arc-en-Ciel vẫn tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng, mặc dù chỉ
B'z và Mr. Children là hai nhóm duy nhất có số lượng bán đạt chỉ tiêu qua các năm.
Nhạc rock underground cũng hết sức phát triển ở Nhật, những ban nhạc thể loại Noise rock nổi
tiếng trên thế giới như Boredoms và Melt Banana, hay là ban nhạc stoner rock như là Boris,
psychedelic rock như là Acid Mothers Temple và alternative rock như với nhóm Shonen Knife,
Pizzicato Five vàThe Pillows(nhóm dành được nhiều sự chú ý của quốc tế vào năm 1999 với bản
thu FLCL) . Các nghệ sỹ nhạcindie rock truyền thống như như Eastern Youth, The Band Apart và
Number Girl đã có chút thành công tại Nhật bản[phạt cần], nhưng ít dành được sự chú ý ở nước ngoài.
Một số tiết mục lưu diễn của nhạc indie rock như là của nhóm Mono và Nisennenmondai.
Punk rock / alternative
Các ví dụ điển hình của thể loại punk rock ở Nhật bao gồm SS, The Star Club, The Stalin, Inu,
Gaseneta, Bomb Factory, Lizard , Friction và The Blue Hearts. Những hình ảnh nhạc punk vẫn sống
mãi trong bộ phim của Sogo Ishii, giám đốc chỉ đạo bộ phim Burst City vào năm 1982 có sự tham
gia của các nhạc sỹ nhạc rock. Vào năm những năm 1980, những ban nhạc kỳ cựu
như GISM, Gauze, Confuse, Lip Cream và Systematic Death bắt đầu xuất hiên, một số ban nhạc kết
hợp với các yếu tố của thể loại crossover .[phạt cần] Các cảnh độc lập cũng bao gồm đa dạng nghệ sỹ
các thể loại như alternative/punk rock/new wave như là Aburadako, P-Model, Uchoten, Auto-Mod,
Buck-Tick, Guernica và Yapoos, G-Schmitt, Totsuzen Danball và Jagatara, cùng với các ban nhạc
noise/industrial như Hijokaidan và Hanatarashi.
Các ban nhạc Ska-punk của những năm 90 kéo dài cho đến những năm 2000 bao gồm
Shakalabbits và 175R (đọc là "inago rider").

Heavy metal
Nhật Bản nổi tiếng có các ban nhạc metal đi luu diễn ở nước ngoài và có rất nhiều bản album trực
tiếp được thu ở Nhật Bàn. Ví dụ điển hình như là Unleashed in the East củaJudas Priest, Maiden

Japan của Iron Maiden, Made in Japan của Deep Purple, One Night at Budokan của Michael
Schenker Group hay Live at Budokan của Dream Theater.
Những ban nhạc heavy metal của Nhật bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 1970, tiên phong bởi
những ban nhạc như Bow Wow thành klaapj vào năm 1975 bởi tay chơi ghita Kyoji Yamamoto và
ban nhạc Loudness được thành lập vào năm 1981 bởi Akira Takasaki. Mặc dù có rất nhiều ban nhạc
cùng thời như là Earthshaker, Anthem và 44 Magnum, những album ra mắt của họ chỉ được ra mắt
vào tận những năm 80 khi mà các ban nhạc metal đã bắt đầu được quảng bá nhiều. Lần lưu diễn
đầu tiên của Bow Wow là tại Hồng Kông và tại lễ hội Montreux Jazz ở Thụy sĩ, sau đó là ở Anh tại


Reading Festival vào năm 1982. Loudness cũng lưu diễn tại Mỹ và Châu Âu và bắt đầu tập trung
vào sự nghiệp công diễn nước ngoài kể từ 1983. Album Thunder in the East và Lightning Strikes
của họ đã đứng thứ 74 (thứ 4 trong bảng xếp hạng Oricon trong nước) và thứ 64 tạiBillboard
200 khi ra mắt và năm 1985 và 1986. Đến những năm cuối thập niên 80, chỉ có 2 ban nhạc là Ezo
và Dead End có album ra mắt tại Mỹ. Cũng vào thời gian đó, chỉ có ít các ban nhạc có thành viên là
nữ, như là ban nhạc nữ Show-Ya với ca sỹ chính là Keiko Terada, hay như Terra Rosa háy cùng với
Kazue Akao. Vào tháng 9 năm 1989, album Outerlimits của Show-ya được ra mắt, đứng thứ 3 trong
bảng xếp hạng Oricon. Những ban nhạc heavy metal đạt đỉnh cao vào cuối những năm 1980 và sau
đó nhiều nhóm tan rã vào giữa thập niên 90.

Buổi hòa nhạc của những người tiên phong cho phong trào visual kei, X Nhật ởHồng Kông vào năm 2009 sau
khi tái thiết lại 2 năm trước đó.

Năm 1982 chứng kiến một số ban nhạc thể loại glam metal đầu tiên được thành lập, như
là Seikima-II với phong cách trang điểmKabuki và X Japan đi đầu trong phong trào visual kei (dần
trở thành nhóm nhạc bán chạy nhất) .[18] Album của Seikima-II mang tên Seikima-II - Akuma ga
Kitarite Heavy Metal đã ra đời vào năm 1985, mặc dù chỉ đứng thứ 48 trên bảng xếp hạng Oricon,
lại bán ra đến 100.000 bản (lần đầu tiên trong lịch sử các ban nhạc metal tại Nhật). Những album
của họ thường xuyên đứng top 10 trong thời kỳ giữa những năm 1990. Vào tháng tư năm 1989, X
Japan phát hành album thứ 2, Blue Blood, và ngay lập tức đứng vị trí thứ 6 và sau 108 tuần đã bán

được 712.000 bản.[19] Album Jelaousy ra vào tháng 7 năm 1991; đứng đầu bảng xếp hạng và bán
được 1.11 triệu bản.[19] Hai album tiếp theo, Art of Life và Dahlia, đều bán được hơn nửa triệu bán và
đánh dấu cho sự kết thúc của ban nhạc vào năm 1997. [20]
Nhạc meta Nhật Bản nhận được sự chú ý của cộng đồng quốc tế qua sự thành công của ban
nhạc Babymetal. Sự thành công nhờ có nhiều bản nhạc hot trên youtube như là Gimme
Chocolate!! cùng với sự thành công của chuyến lưu diễn quốc tế bao gồmSonisphere Festival 2014
ở Anh và Heavy MONTRÉAL ở Canada cùng với những ban nhạc
như Metallica hay Slayer. Babymetalcũng tham gia vào một trong năm tiết mục mở đầu của buổi
hòa nhạc của Lady Gaga trong chuyến công diễn ArtRave: The Artpop Ball.[21][22] Babymetal còn dành
được nhiều giải thưởng như là giải "Tinh thần độc lập" của Kerrang và "Ban nhạc đột phá" của
Metal Hammer. Năm 2016, ban nhạc bắt đầu chuyến lưu diễn thế giới tại Wembley Arena ở Luân
Đôn trước khi về công diễn tại Tokyo Dome, Nhật Bản .[23]


Extreme metal
Các ban nhạc thể loại extreme metal được hình thành từ làn sóng các nước Châu Âu và Mỹ, tuy
nhiên không được quảng bá rầm rộ, cũng như chỉ thường được coi là loại nhạc underground ở Nhật
Bản.[phạt cần] Các nhóm nhạc thrash metal được hình thành từ buổi đầu những năm 1980
như United hay Outrage. United có chuyến lưu diễn quốc tế tại lễ hội "Foundations Forum" tại Los
Angeles vào tháng 9 năm 1995 và có một số album phát hành ở Bắc Mỹ. Nhóm nhạc Doom, sau khi
thành lập vào giữa những năm 1980, được thuê biểu diễn ở Mỹ vào tháng 10 năm 1988 tại CBGB
và tiếp tục cho đến khi giải thể vào năm 2000.
Những nhóm nhạc đầu tiên chơi thể loại black metal là Sabbat(vẫn còn hoạt động) và Bellzlleb(hoạt
động cho đến những năm 1990) hay như nhóm nhạc Sign.
Doom metal cũng nhận được sự đón nhận từ Nhật Bản. Hai nhóm nhạc của Nhật được biết đến
nhiều nhất là Church of Misery và Boris, cả hai đều khá nổi tiếng ở ngoài nước.

Hip hop
Hip-hop là thể loại nhạc mới của âm nhạc Nhật Bản. Một số người cho rằng đây chỉ đơn thuần là
phong trào và sẽ sớm kết thúc. Tuy nhiên, thể loại này lại tiếp tục tồn tại và vẫn đang phát triển

trong nhiều năm. Mặc dù trên thực tế, những rapper ở Nhật vẫn không gặt hái được thành công
bằng những nghệ sỹ Hip-hop của những năm 1980. Điều này chủ yếu là do quan niệm trong thế
giới âm nhạc rằng "Tiếng Nhật không có khả năng tạo ra những âm thanh vần điệu với nhau như
trong những bản rap của Mỹ". Có một hệ thống chắc chắn và rành mạch của ngành công nghiệp âm
nhạc gọi là "hệ thống kim tự tháp của ngành công nghiệp âm nhạc". [24]Giống như Ian Condry giải
thích, "Bằng cách sử dụng sơ đồ kim tự tháp chúng ta có thể hiểu theo nhiều hướng về sự quan
trọng của các cấp độ và các bước thành công."[25] Các cấp độ này như sau (từ thấp nhất đến cao
nhất): fan hâm mộ và các nghệ sỹ tiềm năng, những nghệ sỹ biểu diễn, các nghệ sỹ thu âm, các
nghệ sỹ có thương hiệu, và các ngôi sao. Các cấp độ này có thể được thấy ở các quán hộp đêm,
gọi là genba. Một hội rapper thường cùng biểu diễn trên sân khấu, thường gọi là một "Gia đình".
Một "gia đình" rapper về bản chất là tập hợp các nhóm rapper mà thường được dẫn đầu bới một
trong những người biểu diễn nổi tiếng hơn ở Tokyo, thường có những người học việc đi theo. [26] Khái
niệm này rất quan trọng vì nó là chìa khóa để hiểu đặc điểm khác nhau về nghệ thuật giữa các
nhóm[26] Những người quyết định trong các câu lạc bộ đêm chính là những khác thính giả hâm mộ
Hip-hop. Họ chính là những giám khảo để quyết định xem ai mới là người chiến thắng trong các
rapper trên khán đài. Một ví dụ của việc này chính là trận tranh tài giữa Dabo (một nghệ sỹ có tên
tuổi) và Kan. Kan thách đầu với Dabo trong khi anh đang biểu diễn.

[27]

Electropop
Nhạc pop điện tử ở Nhật Bản đã trở thành một thể loại nổi tiếng kể từ thời kỳ ưa chuộng nhạc
"technopop" của những năm cuối 1970 và đầu 1980. [phạt cần], bắt đầu với ban nhạcYellow Magic
Orchestra và album đơn của Ryuichi Sakamoto và Haruomi Hosono vào năm 1978 trước khi được


nhiều người biết đến vào năm 1979 và 1980. Khi ảnh hưởng bởi nhạc disco, impressionistic, tác
phẩm cổ điển thế kỷ 20, nhạc jazz/fusion pop, các nghệ sỹ nhạc pop điện tử đã ra đời như Kraftwerk
và điện báo, họ tuy đã tham gia vào thị trường nhưng chưa thỏa hiệp với công ty nào. [phạt cần] Ryuichi
Sakamoto tuyên bố rằng đó là "Đối với tôi, việc viết ra nhạc pop không phải một sự thỏa hiệp vì tôi

thích làm việc đó". Những người cùng theo dòng nhạc điện tử này cũng tổ chức không chặt chẽ
tương tự như ở phương Tây, do vậy những ban nhạc thế hệ mới như là P-Model và The Plastics
cũng rơi vào cũng nhóm với thể loại nhạc symphonic techno của Yellow Magic Orchestra. Sự nổi
tiếng của dòng nhạc này kéo theonhuwngxx ca sĩ nổi tiếng của dòng nhạc acoustic trở thành nhạc
pop điện tử, như Taeko Onuki và Akiko Yano, và những nhà sản xuất thần tượng bắt đầu thuê
những bản nhạc điện tử cho những ca sỹ mới vào những năm 1980. [phạt cần] Vào những năm 1990,
Denki Groove và Capsule được thành lập và trở thành cơ sở chính cho nhạc điện tử Nhật Bản.
Ngày nay, các nghệ sĩ mới như là như Polysics ngầm thể hiện lòng tôn trọng tới những người làm
nên kỷ nguyên của dòng nhạc này.[phạt cần]Yasutaka Nakata của Capsule đứng đằng sau sự thành
công của các nhóm nhạc pop điện từ như Perfume và Kyary Pamyu Pamyu, cả hai đều gặt hái
được thành công ở trong và ngoài nước; Kyary đặc biệt đã được phong là " đại sứ Kawaii Harajuku"
nhờ sự nổi tiếng thấy rõ ở ngoài nước.

Nhạc dân gian
Những ban nhạc dân gian như Shang Shang Typhoon hay The Boom trở nên nổi tiếng vào cuối
những năm 1980. Những ban nhạc dân gian Okinawan như là Nenes hay Kina nhận được thành
công về mặt thương mại lẫn trong giới phê bình. Điều này dẫn đến một thế hệ thứ hai của dòng
nhạc Okinawan, tiếp theo sự thành công của nhóm Rinken. Các nhóm nhạc đó bao gồm cả các ban
nhạc quay trở lại như Champluse hay Kina, được dẫn dắt bởi Kikusuimaru Kawachiya.

Nhạc latin, raggae và ska
Một vài thể loại nhạc khác từ Indonesia, Jamaica và một số nơi khác cũng được đồng hóa. Nhạc
soukous Chây Phi hay là nhạc Latin, như của Orquesta de la Luz (オルケスタ・デ・ラ・ルス), khá
nổi tiếng cũng như là nhạc reggae và ska, ví dụ như nhóm Mice Teeth, Mute Beat, La-ppisch, Home
Grown, Ska Flames, Determinations, và Tokyo Ska Paradise Orchestra.

Noise music (âm nhạc tiếng ồn)
Một thể loại nữa được công nhận tại Nhật Bản đó chính là "noise music". Tại Nhật Bản, nó cũng có
tên gọi khác là "Japanoise". Đại điện nổi tiếng nhất cho thể loại nhạc này đó làMasami Akita với dự
án âm nhạc Merzbow.


Nhạc chủ đề
Nhạc chủ đề sáng tác cho phim, anime (anison (アニソン )), tokusatsu, và phim truyền hình Nhật Bản
?

cũng được xem là một thể loại nhạc. Một vài nghệ sỹ và nhóm nhạc đã dành cả sự nghiệp âm nhạc
của mình để trình diễn và sáng tác nhạc phim. Các nghệ sỹ đó là Masato Shimon (hiện giữ kỷ lục


thể giới cho bài hát đơn thành công nhất ở Nhật Bản với bài "Oyoge! Taiyaki-kun"),[28] Ichirou Mizuki,
tất cả các thành viên của JAM Project, Akira Kushida, Isao Sasaki, và Mitsuko Horie. Các nhạc sỹ
sáng tác nhạc chủ đề đáng chú ý bao gồm bao gồm Joe Hisaishi, Michiru Oshima, Yoko Kanno,
Toshihiko Sahashi, Yuki Kajiura, Kōtarō Nakagawa và Yuuki Hayashi.

Nhạc trò chơi (Nhạc game)
Khi trò chơi điện tử đầu tiên được bán ra, bên trong chúng chỉ có một con chíp âm thanh hết sức thô
sơ. Nhưng khi công nghệ phát triển, chất lượng âm thành và nhạc trong các trò chơi đã được cải
thiện đáng kể. Trò chơi đầu tiên được đánh giá cao về âm thanh là Xevious, đồng thời cốt truyện
sâu sắc cũng được chú ý. Mặc dù nhiều trò chơi có những bản nhạc hay nhưng loạt trò chơi mang
tên Dragon Quest lại hết sức quan trọng đối với lịch sử nhạc game. Koichi Sugiyama tham gia vào
dự án game Dragon Quest chỉ vì tò mò và muốn chứng minh rằng trò chơi có thể có những bản
nhạc hay. Ông còn là một nhà soạn nhạc được biết đến với những bản nhạc trong anime và chương
trình truyền hình, trong đó có Cyborg 009 và bộ phim Godzilla vs. Biollante. Cho đến khi ông tham
gia, nhạc và âm thanh thường bị sao nhãng trong quá trình thiết kế trò chơi và những nhà lập trình
không có nhiều trình độ nhạc lý bị ép phải viết nhạc. Không nản chí bởi những giới hạn về kỹ thuật,
Sugiyama chỉ làm việc với duy nhất 8 phần phức điệu để tạo ra các bản nhạc không làm người chơi
cảm thấy nhàn chán sau khi chơi hàng giờ.
Một tác giả sáng tác nổi tiếng khác là Nobuo Uematsu. Những tác phẩm đầu tay của ông cho trò
chơi Final Fantasy trên hệ máy Famicom (Nintendo ở Mỹ), có thể được dàn xếp cho những bản hòa
nhạc. Năm 2003, ông tạo ra những bản nhạc rock dựa trên những tác phẩm của mình và cùng lập

ra ban nhạc The Black Mages.
Yasunori Mitsuda là nhà soạn nhạc cho những tựa game như Xenogears, Xenosaga Episode
I, Chrono Cross, và Chrono Trigger.
Koji Kondo, quản lý âm thanh cho Nintendo, cũng hết sức có tiếng trong lĩnh vực nhạc trò chơi điện
tử Nhật Bản. Ông được biết đến với những bản nhạc trong trò Zelda vàMario.
Jun Senoue nổi danh nhờ sáng tác những bài nhạc trong game Sonic the Hedgehog. Ông ấy cũng
là tay chơi ghita chính của Crush 40, đồng thời cũng được biết đến qua các bản nhạc chủ đề của trò
chơi Sonic Adventure, Sonic Adventure 2, Sonic Heroes, Shadow the Hedgehog, và Sonic and the
Black Knight, cũng như các trò Sonic khác.
Motoi Sakuraba là một nhà sáng tác nổi tiếng khác. Ông biết đến qua các dòng game Tales of, Dark
Souls, Eternal Sonata, Star Ocean, Valkyrie Profile, Golden Sun, và the Baten Kaitos, và nhiều phần
của tựa game Mario sports.
Yuzo Koshiro được chú ý qua việc tạo ra những bản nhạc electronic dành cho game như
là Revenge of Shinobi và loạt game Streets of Rage.


Nhóm nhạc techno/trance I've Sound đã tự tạo tên tuổi cho bản thân qua việc sáng tác nhạc chủ đề
cho các công ty game eroge và rồi tham gia vào lĩnh vực anime. Không giống những nhóm khác,
I've sound có những fan hâm mộ khác thế giới thông qua các trò chơi eroge và anime.
Ngày nay, các bản nhạc game được bản trên đĩa cũng như tải trên các trang web hoặc phần mềm
như iTunes. Các ca sỹ nổi tiếng như Hikaru Utada, Mizuki Nana và BoA đôi khi cũng tham gia vào
các bài hát trong game, và các ca sỹ cũng qua đó mà gây dựng tên tuổi.



×