Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

GIÀ HÓA DÂN SỐ Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA AN SINH XÃ HỘI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.4 KB, 25 trang )

GIÀ HÓA DÂN SỐ Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA AN SINH XÃ HỘI VỚI NGƯỜI
CAO TUỔI
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Ở Việt Nam, ASXH là một trong những trụ cột cơ bản trong hệ thống các chính sách
xã hội được Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng. ASXH là nhân tố đảm bảo công bằng
xã hội. Thực tiễn phát triển đã cho thấy ASXH có vai trò rất lớn trong việc khắc phục
những hệ lụy của phân hóa xã hội, tăng cường gắn kết xã hội, sự đồng thuận và đảm bảo
ổn định chính trị. Như chúng ta đều biết, đất nước ta đang trên con đường hội nhập và
phát triển, chúng ta hướng mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để có
thể sánh vai với các nước phát triển trên thế giới. Trong những năm vừa qua bên cạnh
những thành tựu đáng kể đạt được về kinh tế - xã hội thì chúng ta đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức nảy sinh từ mặt trái của quá trình phát triển đó như phân tầng
xã hội, quá trình đô thị hóa không đồng bộ, môi trường bị xuống cấp, thất nghiệp, tệ
nạn ma túy, người già neo đơn... Dân số nước ta ngày càng già đi, quá trình già hóa dân
số diễn ra nhanh chóng kéo theo đó là số lượng người cao tuổi ngày càng tăng lên gây
sực ép đối với nền kinh tế - xã hội. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng em đã chọn đề tài:
"Già hóa dân số ở Việt Nam và vai trò của ASXH đối với người cao tuổi" để làm đề
tài nghiên cứu cho nhóm từ đó đưa ra các thực trạng, nguyên nhân, thành tựu cũng như
thách thức của công tác ASXH với người cao tuổi từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp
giúp cho người cao tuổi có cuộc sống tốt đẹp hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lí luận, thực tiễn về ASXH và vai trò của ASXH đối với người cao tuổi.
- Nêu và phân tích thực trạngASXH đối với người cao tuổi.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác ASXH đối với người cao tuổi thông qua
đó giảm bớt sức ép của vấn đề già hóa dân số đến sự phát triển kinh tế xã hội
3. Phương pháp nghiên cứu
1




- phương pháp thu thập thông tin thứ cấp (thông qua bài giảng ,giáo trình, internet,...)
- phương pháp phân tích, xử lý thông tin số liệu
- Phương pháp trình báy thông tin
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.

Khái niệm
1.1.
An sinh xã hội

Theo tổ chức LĐQT (ILO) : ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên
của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về
kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm
đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong ; sự cung
cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình đông con.
Hiện nay ASXH được hiểu là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của
mình không may lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong xã hội thông qua biện pháp cân đối lại
tiền bạc và của cải xã hội. Bản chất của ASXH là tạo ra mạng lưới an toàn gồm nhiều
tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay
khi gặp những rủi ro xã hội khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản
của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo
đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội do đó vừa có tính
kinh tế, vừa có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc.
1.2. Người cao tuổi
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với
việc suy giảm các chức năng của cơ thể
Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên. Một số nước phát triển như

Đức, Hoa Kỳ… lại quy định người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên.
Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu
hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những nước có hệ thống y
tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân cũng được nâng
2


cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về
tuổi của các nước đó cũng khác nhau.
Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy định: Người cao
tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
Theo luật lao động: Người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở lên (với nam),
từ 55 tuổi trở lên (với nữ)
Tuy nhiên quan niệm này có thể thay đổi theo thời gian khi điều kiện về kinh tế
và tuổi thọ trung bình thay đổi.
Đa số NCT Việt Nam hiện nay là thế hệ sinh ra trong thời kỳ trước 1950, nhiều người
tham gia các cuộc đấu tranh giữ nước, xây dựng đất nước. Do sinh ra và trưởng thành
trong các điều kiện hết sức khó khăn họ không có điều kiện bảo vệ sức khoẻ và tích luỹ
vật chất cho tuổi già. Chính vì vậy, khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, họ là
những người đang phải đối mặt với những khó khăn trong việc thích nghi với thay đổi.
2. Một số khái niệm có liên quan.
- Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở
đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
- Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiềm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe không vì lợi ích lợi nhuận do nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng
đóng góp theo quy định của bảo hiểm y tế.
- Trợ cấp xã hội là sự giúp đỡ thêm của nhà nước dành cho các nhóm đối tượng
có hoàn cảnh khó khăn nhằm hướng tới bảo đảm các nhu cầu tối thiểu giúp họ

phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ
3. Sự cần thiết của An sinh xã hội đối với người cao tuổi
- Thứ nhất, Tỷ lệ người cao tuổi ngày càng gia tăng tạo nên gánh nặng cho quỹ
hưu trí.
Khi dân số cao tuổi chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số cũng đồng nghĩa với tỷ lệ
tham gia lực lượng lao động có xu hướng giảm đi và số người sau 60 tuổi sẽ tăng
3


lên và sống lâu hơn. Như vậy, số người làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có
xu hướng giảm đi và số người thụ hưởng sẽ có xu hướng gia tăng. Điều này ở
một khía cạnh nào cũng sẽ tạo ra “gánh nặng” cho quỹ hưu trí quốc gia khi phải
chi trả lương hưu nhiều hơn và dài thời gian hơn, trong khi đó số người đóng góp
có xu hướng giảm đi tương đối so với số người thụ hưởng (do hệ quả của mức
sinh thấp.
- Thứ hai, Chi phí y tế dành cho người cao tuổi cao
Theo quy luật chung, tuổi càng cao, sức khỏe càng giảm. Dù muốn hay không,
con người vẫn đối mặt với tình trạng bệnh tật, sức khỏe của mình khi tuổi ngày
càng cao trong vòng đời Sinh- Lão- Bệnh- Tử. Khi đã ngoài 60 tuổi, quá trình
đồng hóa giảm đi, quá trình dị hóa tăng lên, quá trình lão hóa diễn ra với tốc độ
ngày càng nhanh, đồng thời phát sinh những loại bệnh tật đặc trưng của tuổi già.
Mặc dù, nhờ những thành tựu trong phát triển kinh tế cũng như trong tiến bộ của
y học, nhưng cơ cấu bệnh tật của dân số nước ta nói chung và của người cao tuổi
nói riêng đang chuyển dần từ mô hình bệnh tật của những nước đang phát triển
sang của nước phát triển. Cơ cấu bệnh tật hiện nay của nước ta chuyển từ không
nhiễm trùng, không lây nhiễm sang các bệnh chủ yếu như cao huyết áp, đột quỵ,
tiểu đường, rối loạn chuyển hóa… (Giang Thanh Long, 2011). Như vậy, cùng
với tuổi tác, cơ cấu chi tiêu của người cao tuổi đã thay đổi nhiều, chi phí cho
khám, chữa bệnh có xu hướng tăng lên. Người già lại hay bị những loại bệnh đòi
hỏi chi phí y tế cao như huyết áp, đột quỵ, tim mạch…Theo PGS-TS Phạm

Thắng- Viện Lão khoa quốc gia, nhu cầu chăm sóc người cao tuổi (y tế, xã hội,
tài chính) sẽ là một thách thức lớn đối với xã hội và gia đình. Người cao tuổi có
nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn, trong khi chi phí cho đối tượng này cũng
cao gấp 7-8 lần so với trẻ em. Chi phí này hoặc là gia đình phải tự chi hoặc là hệ
thống BHYT chi trả (đối với những người tham gia BHXH hoặc đối tượng thụ
hưởng BHXH, BHYT).
- Thứ ba, Tỷ lệ hưởng BHXH hưu trí của những người cao tuổi ở khu vực nông
4


thôn còn thấp.
Đối với một nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam, cho đến nay, về
cơ bản nước ta vẫn là nước nông nghiệp với trên 70% số dân và cũng khoảng
70% số lao động đang sống ở và lao động ở nông thôn, trong đó khoảng 50%
làm các nghề nông nghiệp. Trong khi đó số lao động tham gia hệ thống BHXH
chỉ chiếm khoảng 10% -20% tổng lực lượng lao động và chủ yếu ở khu vực
thành thị. Như vậy, đa số người lao động nông thôn khi trở thành người cao tuổi
(60 tuổi trở lên) sẽ không được hưởng lương hưu từ hệ thống BHXH. Để tiếp tục
cuộc sống, những người cao tuổi này buộc phải tự lao động kiếm sống hoặc nhờ
sự hỗ trợ của con cháu, hoặc nhờ sự trợ giúp của cộng đồng.
- Thứ tư, nước ta trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài với rất nhiều thế hệ người
lính phải sống và chiến đấu ở những vùng ác liệt, nhiều nơi bị nhiễm chất độc da
cam… Đến nay, đa phần họ đã thuộc nhóm người cao tuổi.
Ngoài những loại bệnh của người già, không ít trong số họ mắc những bệnh đặc
trưng của chiến tranh, trong khi đó, đa phần trong số họ sau chiến tranh về quê
nhà sinh sống, họ không có lương hưu. Điều này, đòi hỏi cần có những chính
sách ASXH đặc thù cho nhóm người này.
- Thứ năm,Người lao động ở Việt Nam “ già khi chưa giàu”
Cũng là đặc thù của nền kinh tế Việt Nam khi thu nhập của người lao động thấp,
thu nhập chỉ đủ trang trải (thậm chí không đủ) cho những chi tiêu trước mắt,

không có và không thể có cho tích tũy trong tương lai. Điều này là nguy cơ tiềm
năng khi người lao động không làm việc được nữa, họ sẽ không có khoản tích
lũy để chi dùng khi trở thành người cao tuổi. Một số nhà phân tích đã nêu, người
lao động Việt Nam “già khi chưa giàu”. Đối với một người “già khi chưa giàu”
sẽ tạo áp lực cho con cái, nhưng đối với một xã hội “già hóa” và xã hội “già” thì
áp lực này sẽ chuyển sang hệ thống ASXH.
Qua những phân tích trên cho thấy giữa già hóa dân số, dân số già và ASXH có
mối quan hệ “nhân- quả”. Điều này cho thấy, một mặt phải điều chỉnh chính sách

5


dân số sao cho quá trình già hóa dân số diễn ra chậm hơn và quá trình chuyển từ
dân số già hóa sang dân số già diễn ra với thời gian lâu hơn; mặt khác, cần phải
có chiến lược ASXH ứng phó phù hợp. Chính sách ASXH đối với người cao tuổi
không nên chung cho mọi nhóm bởi người cao tuổi không phải là nhóm dân số
đồng nhất. Người cao tuổi cũng có người giàu, người nghèo; có người khỏe
mạnh và người ốm yếu; có người được sống cùng con cháu, nhưng có người chỉ
sống một mình… Vì vậy, nên phân nhóm đối tượng để có chính sách ASXH ứng
phó phù hợp. Phải xây dựng và phát triển các dịch vụ xã hội đối với người cao
tuổi, đặc biệt là đối với người cao tuổi ở nông thôn. BHXH cho mọi người lao
động và BHYT toàn dân là hướng đi và là giải pháp tích cực, chủ động trong
chính sách ASXH của mỗi quốc gia. Sinh- Lão– Bệnh– Tử là quy luật của cuộc
sống loài người. Ai sinh ra rồi cũng phải già và chết. Do vậy, ASXH đối với
người cao tuổi hiện tại cũng chính là đảm bảo ASXH tương lai cho người lao
động hiện tại.
4. Kinh nghiệm nước ngoài
- Tại Trung Quốc, chương trình ASXH cho NCT gồm BHXH, TGXH và phúc lợi xã hội.
Trong hệ thống hưu trí quốc gia này, nhằm đảm bảo mức cơ bản, triển khai rộng, linh
hoạt và bền vững, nguồn tài trợ là do sự đóng góp của cá nhân và hỗ trợ của Chính phủ.

Với mức đóng góp của cá nhân được chia ra làm 5 mức (đối với nông thôn), từ 100-500
NDT/tháng và từ 100-1.000 NDT (đối với thành thị); sự hỗ trợ của Chính phủ là cùng
đóng góp 30 NDT/năm cho tài khoản cá nhân và 55NDT/tháng vào khoản hưu cơ bản.
Khi đến 60 tuổi (nghỉ hưu) và đã có 15 năm đóng góp, người dân Trung Quốc sẽ được
hưởng hưu trí.
- Tại Thái Lan, theo Quỹ Hưu trí quốc gia, cá nhân có thể đóng góp từ 50 bạt tới 13.200
bạt/năm. Số tiền này sẽ được đưa vào tài khoản cá nhân. Song song với đó, Chính phủ sẽ
đồng đóng góp với người lao động tùy vào tuổi của họ.

6


-Tại Hà Lan, tất cả mọi người 65 tuổi trở lên đều được hưởng một mức trợ cấp nhất định.
Với những người có lương hưu, họ sẽ vừa được hưởng lương hưu và khoản trợ cấp này.
PHẦN III. NỘI DUNG
1. Gìa hóa dân số ở Việt Nam
Tại hầu hết quốc gia trên thế giới, người dân sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn so với
một thế kỷ trước. Tuổi thọ tăng lên cùng với quá trình giảm sinh dẫn tới già hóa dân số,
có nghĩa là số lượng người lớn tuổi ngày càng tăng ở các quốc gia (đặc biệt là ở các nước
phát triển) so với số lượng dân số trẻ hơn trong độ tuổi làm việc - những người được coi
là sẽ “hỗ trợ” người lớn tuổi khi về già.

Tuổi thọ dân số thế giới tăng 50% kể từ năm 1950, từ 46,7 tuổi lên 70,8 tuổi vào
2013 nhờ cải thiện chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng và công nghệ. Trong giai đoạn này,
tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm xuống chỉ còn một nửa, từ 4,96 con xuống 2,47 con/phụ nữ.
Kết quả là dân số 60 tuổi trở lên đã tăng nhanh chóng, từ 8% năm 1950 lên 12% năm
2013 và dự báo sẽ lên tới 21% năm 2050 (UN, 2013).
Hiện nay, ở Việt Nam mức sinh giảm và được khống chế ở ngưỡng mức sinh thay thế
TFR = 2,09 (2014), bên cạnh đó tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã đạt 73,2 tuổi
7



(Tổng cục Thống kê, 2014). Như vậy dân số Việt Nam đã già chưa? Đây là vấn đề rất
đáng quan tâm vì nó liên quan đến các chính sách kinh tế-xã hội, bao gồm cả an sinh xã
hội.
Một trong những chỉ tiêu quan trọng biểu thị mức độ già hoá của dân số là chỉ số già hoá,
được đo bằng tỷ số giữa dân số từ 60 tuổi trở lên so với 100 người dân từ 15 tuổi trở
xuống. Trong 15 năm qua, chỉ số già hoá ở Việt Nam tăng gần gấp 2, từ 24,3 (1999) lên
45,2 (2014), dự báo sau 15 năm nữa con số này sẽ là 85/100 vào năm 2029 (UNFPA,
2011), cho thấy xu hướng già hoá dân số ở nước ta diễn ra khá nhanh.

Theo
Luật người cao tuổi Việt Nam, người cao tuổi (NCT) là công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở
lên. Nhóm dân số 60+ tăng hơn 50%, từ 6,1 triệu người năm 1990 lên 9,4 triệu vào năm
2014 và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng dân số, tương ứng từ 8% lên 10,4%
(TCTK, 2014). Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn “già hóa dân số” từ năm
2011.
Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề già hóa dân số có hai vấn đề ít được quan tâm. Thứ
nhất, những người trẻ tuổi rồi cũng sẽ già và cần được hỗ trợ. Thứ hai, việc tăng mức
sinh để trì hoãn già hóa sẽ dẫn đến tăng dân số. Vì vậy, không có sự lựa chọn nào khác là
phải chấp nhận và “chào đón” dân số già.
8


Hình 3. Thời gian để chuyển từ “bắt đầu già” sang “già”

Nguồn: Kinsella và Gist, 1995; U.S. Census Bureau, 2005;
Việt Nam: GSO (2010), theo UNFPA (2011)
So với các quốc gia khác trên thế giới, thậm chí với nhiều nước phát triển hoặc có mức
thu nhập bình quân đầu người cao hơn, tốc độ già hóa dân số Việt Nam khá cao. Hay thời

gian cần thiết để chuyển từ giai đoạn “già hóa” sang “già” là ngắn hơn nhiều nước (Hình
1): Pháp mất 115 năm, Mĩ mất 69 năm, Nhật Bản và Trung Quốc mất 26 năm, trong khi
Việt Nam chỉ mất có 20 năm.

9


Từ tất cả các thực trạng nêu trên, có thể thấy Việt Nam đang đối diện với “sự già hóa”
nhanh chóng. Với điều kiện phát triển kinh tế và xã hội như hiện nay thì đây là một thách
thức lớn cho Việt Nam trong việc thích ứng với dân số “già hóa” nhanh. Việt Nam có thể
sẽ trở thành một nước già trước khi giàu. Nhiều nước già hóa dân số diễn ra từ lâu, đã
tích lũy được nhiều kinh nghiệm đối phó với thực trạng này. Trong khi đó, ở Việt Nam
thời gian qua chính sách dân số ở nước ta tập trung vào vấn đề giảm sinh nên các công
trình nghiên cứu cũng mới chỉ tập trung vào mức sinh và kế hoạch hóa gia đình, còn rất ít
các công trình nghiên cứu toàn diện và sâu về người cao tuổi. Do vậy, ngay từ bây giờ
cần đẩy mạnh nghiên cứu quá trình già hóa dân số ở nước ta làm cơ sở cho việc xây dựng
và thực thi chính sách, chiến lược quốc gia nhằm đối phó với xu hướng già hóa dân số
diễn ra ngày càng nhanh, mạnh. Nhằm nâng cao chất lượng sống của người cao tuổi cũng
như ổn định nền kinh tế trong trung và dài hạn.
Bảng 4. Chỉ số già hóa và tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng ở Việt Nam, 1979-2049
Năm
Chỉ số già
hóa
Tỷ lệ hỗ
trợ tiềm

1979

1989


1999

2009

2019

2024

2029

2034

2039

2044

2049

16

17

24

36

50

65


85

107

124

141

158

7.44

7.43

7.33

7.27

5.29

4.60

3.83

3.27

2.88

2.51


2.20

năng
Nguồn: Tổng điều tra dân số năm 1979,1989,1999 và 2009 và Dự báo dân số của GSO
(2010)
Bảng 3 cho thấy, chỉ số già hóa sẽ vượt ngưỡng 100 vào khoảng năm 2033. Đây là thời
điểm Việt Nam bắt đầu có dân số cao tuổi nhiều hơn dân số trẻ em. Dự báo dân số cũng
cho thấy tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng giảm nhanh chóng trong thời gian tới khi tốc độ tăng của
dân số cao tuổi ngày càng lớn. Nếu năm 2009, cứ 7 người trong độ tuổi lao động sẽ hỗ
trợ 1 người cao tuổi thì đến năm 2049, tỷ số này chỉ còn là 2, tức giảm hơn 3 lần.Việc tỷ
lệ hỗ trợ tiềm năng giảm nhanh chóng cho thấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của người
10


già phụ thuộc ngày càng đè nặng lên dân số ở độ tuổi lao động. Làm cho lực lượng lao
động thu nhỏ và số lượng người cao tuổi phụ thuộc tăng lên sẽ có nghĩa là giảm sút về
thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư và năng suất cũng như việc tăng chi
tiêu công cho an sinh xã hội, chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi của người cao tuổi. Không
những thế, tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng giảm còn dẫn đến nguy cơ vỡ quỹ Bảo hiểm xã hội,đặc
biệt đối với các hệ thống trả lương hưu như ở Việt Nam theo hình thức trả lương trong đó
những người lao động hiện tại chi trả cho những người đang nghỉ hưu.
2. ASXH cho người cao tuổi
2.1. Thực trạng ASXH cho người cao tuổi tại Việt Nam
Nguồn sống của NCT Việt Nam khá đa dạng: từ lao động của chính bản thân NCT
(30%), lương hưu trợ cấp và của cải tích lũy từ khi còn trẻ và do con cháu chu cấp
(39,3%). Có sự khác biệt đáng kể giữa NCT thành thị và nông thôn về nguồn sống từ
lương hưu, trợ cấp hoặc tự lao động để kiếm sống. Lương hưu hoặc trợ cấp là nguồn sống
chính của 35,6% NCT ở thành phố, trong khi chỉ có 21,9% NCT ở nông thôn được hưởng
lương hưu hoặc trợ cấp. Tự lao động để kiếm sống là cách của 35,2% NCT ở nông thôn,
khi chỉ có 17,5% NCT ở thành phố phải làm như vậy. NCT thành thị có lương hưu/trợ

cấp và tích lũy cao hơn 1,5 lần so với NCT nông thôn, ngược lại nguồn sống của NCT
nông thôn từ lao động của chính mình cao hơn gấp 2 lần NCT thành thị. Tuy nhiên,
nguồn tài chính do con cháu trợ cấp vẫn đóng vai trò quan trọng và hoàn toàn không phụ
thuộc vào đời sống kinh tế giữa thành thị và nông thôn (tương ứng 40,1% ở thành thị và
38,9% ở nông thôn) cũng như nguồn lương hưu và nguồn sống từ lao động của NCT(4).
Ở NCT, tuổi càng cao thì sự lệ thuộc vào chu cấp của con cháu càng lớn, tỷ lệ này tăng từ
26,3% (nhóm 60-69 tuổi) lên 46,6% (nhóm 70-79 tuổi) và 66,7% (nhóm từ 80 tuổi trở
lên). NCT ở nhóm nghèo nhất lệ thuộc vào con cháu nhiều hơn (48,9% nhóm nghèo và
38% ở nhóm giàu).
Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn “già hóa dân số” và các chính sách an sinh cho
NCT càng được chú trọng. Theo Luật, NCT được hưởng các chính sách theo quy định
của Nghị định “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NCT” (số
11


06/2011, NĐ-CP), trong đó: NCT được quan tâm chú ý và được hưởng các dịch vụ chăm
sóc. Hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam đã được mở rộng
trong những năm vừa qua. Cho đến nay đã có nhiều chính sách, chương trình dành
cho người cao tuổi theo các nhóm đối tượng khác nhau, nhưng tập trung lại thì có
các nhóm chính sách về bảo hiểm xã hội (cụ thể là hưu trí và tử tuất), bảo hiểm y tế và trợ
cấp xã hội.
Về hệ thống BHXH (hưu trí và tử tuất)
Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn “già hóa dân số” với tỷ lệ người cao tuổi
(NCT) từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số. Trong bối cảnh đó, tuổi thọ của người dân
được nâng cao, tiềm lực kinh tế của đất nước được cải thiện, chế độ trợ giúp thường
xuyên cho NCT cũng được điều chỉnh, bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực
tiễn, hướng đến mục tiêu bù đắp để đảm bảo mức sống tối thiểu cho đối tượng. Theo dự
báo dân số của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy dân số Việt Nam đang già hóa với tốc
độ chưa từng có. Số người cao tuổi sẽ tăng gấp ba vào năm 2050 và như vậy sẽ tăng từ
9% đến 26% dân số. Với mức lương hưu hiện nay là rất thấp, phần lớn người cao tuổi

đều sống dựa vào người thân trong gia đình. Luật Người cao tuổi đã được ban hành và có
hiệu lực từ năm 2010. Điều đó cho thấy, những vấn đề về NCT luôn được quan tâm,
chuẩn bị để làm sao những vấn đề an sinh xã hội cho đối tượng này dần dần bắt kịp với
xu thế xã hội, biến động dân số của nước ta.
Hiện nay, đối với NCT tại Việt Nam, nguồn đảm bảo thu nhập trong hệ thống an sinh xã
hội được thể hiện qua hai chương trình là bảo hiểm xã hội (BHXH) và trợ giúp xã hội
(TGXH). Hệ thống BHXH bắt buộc hiện bao phủ khoảng 11 triệu người, còn loại hình tự
nguyện chỉ khoảng 133.000 người, tổng mức bao phủ của 2 hệ thống này chiếm khoảng
20% lực lượng lao động.
Về hệ thống Bảo hiểm y tế.
Người già cô đơn thuộc diện trợ cấp xã hội được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và
không phải trả tiền khi khám chữa bệnh tại các cơ sở công lập, hoặc chỉ trả một phần viện
phí do cơ quan bảo hiểm y tế trả cho cơ sở khám chữa bệnh; người cao tuổi trên 100 tuổi
được cấp thẻ BHYT mệnh giá 50.000 đồng hoặc được khám chữa bệnh miễn phí theo
12


phương pháp thực thanh thực chi; Quyết định 139/2002/QĐTTg ngày 15/10/2002 của
Thủ tướng Chính phủ về khám chữa bệnh cho người nghèo là đối tượng được hưởng trợ
cấp xã hội theo Nghị định 07/2000/NĐ-CP, trong đó có người cao tuổi; Khoản 9, Điều 3
của Nghị định 63/2005/ NĐ-CP ngày 16/5/2005 quy định rõ người cao tuổi cô đơn không
nơi nương tựa, thuộc hộ nghèo là một trong 14 nhóm đối tượng tham gia BHYT bắt
buộc… Luật Bảo hiểm Y tế - là văn bản pháp luật cao nhất về bảo hiểm y tế - được Quốc
hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008 có quy định một số điều liên
quan đến các đối tượng ưu tiên BHYT, trong đó có người cao tuổi.
Về hệ thống trợ cấp xã hội.
Theo báo cáo của các địa phương đến hết năm 2013 cả nước đã có hơn 2,6 triệu người
hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng (thường xuyên). Có hơn 1,5 triệu NCT hưởng trợ cấp xã
hội hàng tháng theo Luật Người cao tuổi, trong đó có hơn 1,4 triệu người từ 80 tuổi trở
lên, với mức hưởng thấp nhất là 180.000đồng/người/tháng, số còn lại nằm trong độ tuổi

từ 60-79 tuổi.
Bên cạnh đó, mức 180.000 đồng này cũng được cho là quá thấp khi chỉ bằng 45% chuẩn
nghèo ở nông thôn và 36% chuẩn nghèo ở thành thị. Một số tỉnh có điều kiện kinh tế khá
hơn đã áp dụng mức hưởng cao hơn. Ví dụ, tại Hà Nội là 350.000 đồng, tại TP HCM,
Đồng Nai là 240.000 đồng. Hiện có 11 tỉnh áp dụng mức hỗ trợ thu nhập trên 200.000
đồng/người/tháng. Năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 136/2013/NĐ-CP, tăng
mức chuẩn xác định mức trợ cấp xã hội hàng tháng từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng,
tuy nhiên, vì những lý do khách quan, đến nay Nghị định này vẫn chưa được thực thi.
Năm 2012, số liệu từ Bộ LĐ,TB&XH cho thấy, chỉ có khoảng 85.000 người được hưởng
từ chính sách này (hưởng 180.000đồng/tháng), cho thấy sự tương phản rõ ràng với chính
sách lương hưu xã hội cho người từ 80 tuổi trở lên. Những quy định ngặt nghèo về đối
tượng hưởng lợi có thể là nguyên nhân khiến ít người từ 60-79 tuổi được hưởng. Chính
sách hướng tới đối tượng nghèo và không hỗ trợ từ gia đình, con số này rất ít ỏi, việc xác
định những người nào thuộc đối tượng này cũng rất khó khăn. Hiện có khoảng 70% số
người từ 60-79 tuổi không được nhận bất kỳ một khoản hỗ trợ thu nhập nào; đồng nghĩa
với việc họ phải phụ thuộc vào tiền tiết kiệm và gia đình.
13


2.2 Những thành tựu trong việc thực thi chính sách an sinh cho NCT
Thực hiện đường lối Đổi mới, trong gần 30 năm qua, công tác đảm bảo ASXH đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Các chính sách và giải pháp đảm bảo ASXH được triển
khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp các đối tượng thụ hưởng tăng khả năng tiếp
cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở,
nước sinh hoạt (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị
trường, tín dụng, việc làm vv... (3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các địa phương
để phục vụ người dân tốt hơn.
Hệ thống pháp luật về ASXH ngày càng được hoàn thiện, trở thành căn cứ pháp lý
quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc
tăng nhanh, từ 4,8 triệu (2001) lên 9,4 triệu (2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần

3 năm triển khai BHXH tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia.
Dự kiến đến hết năm 2010 có khoảng 5,8 triệu người tham gia BHXH tự nguyện tăng
nhanh từ 13,4% dân số (2000) lên 62% (2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách BHYT
miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ
BHYT cho các hộ cận nghèo vv... Mức trợ cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm
2006, thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến
nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình
của dân cư cùng địa bàn.
Hệ thống ASXH Việt Nam trong thời gian qua là đã hỗ trợ đắc lực cho người nghèo,
người yếu thế và nhiều đối tượng khác. Các chính sách ASXH từng bước được mở rộng
về phạm vi, đối tượng và mức hưởng. Hệ thống chính sách ASXH cho nhóm NCT, là
nhóm thường rất nhạy cảm trước mỗi hành vi xã hội có liên quan đến đời sống tinh thần
cũng như các quyền lợi hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Trong những năm vừa qua, đời sống vật chất và tinh thần của NCT đã được cải thiện
cùng với sự phát triển của đất nước. NCT, người cô đơn được hưởng chính sách của nhà
nước hỗ trợ cuộc sống và chăm sóc sức khỏe; các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng
phong phú đa dạng. NCT nghèo, thuộc diện được hưởng trợ cấp xã hội được cấp Thẻ
BHXH miễn phí; các hoạt động chăm sóc sức khỏe NCT ở cộng đồng được tổ chức rộng
14


rãi hơn và NCT ốm đau được hưởng chăm sóc của gia đình, cộng đồng… Theo thống kê,
hiện cả nước có khoảng 1,3 triệu đối tượng hưởng chính sách bảo trợ của nhà nước, cộng
thêm hàng năm có khoảng 1 triệu người cần cứu trợ đột xuất do thiên tai, 27 nghìn đối
tượng đang được nuôi dưỡng tại 317 cơ sở bảo trợ xã hội và hàng trăm mái ấm tình
thương có chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội.
Tuy tuổi thọ trung bình cao nhưng gánh nặng bệnh tật của người Việt Nam cũng cao,
bình quân mỗi người dân có tới 15,3 năm là ốm đau, bệnh tật so với 73 năm tuổi thọ.
NCT đang đối diện với gánh nặng “bệnh tật kép”, một đặc trưng của các quốc gia đang
phát triển khi cùng lúc phải giải quyết các bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng và tai biến

bệnh tật, mặt khác phải đương đầu với các bệnh không lây truyền. Khoảng 95% NCT có
bệnh, chủ yếu là bệnh mãn tính không lây truyền (Báo cáo kết quả hoạt động của Ủy ban
Quốc gia về NCT Việt Nam, 2012). Chính vì vậy, công tác chăm sóc sức khỏe cho NCT
đang là vấn đề được quan tâm nhất hiện nay.
Vấn đề đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở công cộng và tính đến việc ưu tiên NCT gần
đây được quan tâm nhiều để phục vụ NCT tốt nhất và thuận lợi nhất.
2.3. Những hạn chế trong việc thực thi các chính sách ASXH cho NCT
Việc thực hiện ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: Giảm nghèo chưa
bền vững, người dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hoá giàu
nghèo ngày càng lớn. Nguồn lực để thực hiện ASXH còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân
sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn
thấp, vẫn còn không ít tiêu cực, phiền hà. Tất cả những hạn chế này đã đặt hệ thống
ASXH của nước ta trước nhiều thách thức lớn cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn
chỉnh.
Đối với nhóm NCT, việc thực thi chính sách ASXH cho nhóm này còn rất hạn chế. Hệ
thống chăm sóc NCT hiện nay còn nhiều bất cập: nhận thức về già hóa dân số và tác
động tới phát triển kinh tế-xã hội còn hạn chế; các cấp lãnh đạo chưa nhận thức rõ vấn
đề; xã hội thay đổi cách nhìn nhận đối với người già; bản thân NCT chưa nhận thức được
sự cần thiết phải chăm sóc, bảo vệ bản thân; người dân ở nông thôn chưa quan tâm chuẩn
15


bị cho tuổi già; dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe công lập không đảm bảo được nhu cầu
khám chữa bệnh của NCT; trình độ của các bác sỹ còn hạn chế…
Hiện tượng già hoá dân số cũng đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống ASXH hiện hành
và trong tương lai. Theo ước tính của Uỷ ban quốc gia NCT, tỷ lệ NCT ở Việt Nam sẽ là
16% vào năm 2020 và tiếp tục gia tăng những năm sau đó. Nhu cầu thăm khám, chữa
bệnh tăng lên, tuy nhiên sau hơn 1 năm triển khai Thông tư số 35/2011/TT-BYT thống kê
mới nhất của Bộ Y tế cho thấy, cả nước mới có 28 bệnh viện ở Tỉnh và Trung ương thành

lập Khoa Lão khoa, còn nhiều bệnh viện chưa triển khai. Mặc dù gánh nặng bệnh tật đối
với NCT Việt Nam là khá lớn khi có tới 95% NCT có bệnh nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng
y tế, chưa phát triển kịp với sự gia tăng nhanh chóng của NCT và yêu cầu được chăm sóc
của họ.
Hệ thống ASXH cho NCT hiện nay chưa có tính hỗ trợ cho đa số NCT. Với hơn 9
triệu NCT trên cả nước, hệ thống chính sách ASXH ở nước ta mới hỗ trợ nâng cao đời
sống cho một phần nhỏ NCT, gần 2,97 triệu người (39% NCT) được hưởng lương hưu và
trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc chính sách đối với người có công và trợ cấp xã hội, trong
đó, khoảng 1,4 triệu người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội; có 680 nghìn
người hưởng chính sách đối với người có công; gần 890 nghìn người thuộc diện chính
sách trợ cấp xã hội.
Qua hệ thống ASXH, hầu hết NCT cô đơn không có nguồn thu nhập đã được Chính
phủ hỗ trợ qua hình thức trợ cấp xã hội hàng tháng. Như vậy, trợ cấp hưu trí và trợ cấp xã
hội hằng tháng được coi là nguồn thu nhập chính cho số NCT này, tuy nhiên mức độ bao
phủ của các chương trình này đối với NCT chưa cao. Thậm chí, những người thụ hưởng
các chương trình này cho biết mức trợ cấp còn thấp và chỉ chiếm một phần nhỏ trong chi
tiêu của hộ gia đình. Mức độ tiếp cận các chương trình bảo trợ xã hội hiện thời chưa dễ
dàng với NCT do các quy định nghiêm ngặt hoặc do các mức lợi ích đưa ra thấp. Đến
cuối năm 2008, tổng số NCT được hưởng chế độ BTXH theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP
giải quyết được 91,9%. Những NCT từ 60 đến dưới 85 tuổi bị tàn tật, cô đơn đủ điều kiện
để được hưởng chế độ theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP giải quyết được 91,1%. Chương
trình hưu trí dựa trên đóng góp với cơ chế tài chính đóng đến đâu hưởng đến đó đang tạo
16


ra sự bất bình đẳng giữa các thế hệ, giới tính, và bất bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế nhà nước và tư nhân
2.4Nguyên nhân và những vấn đề tồn tại trong thực hiện chế độ cho người cao tuổi.
Trong những năm gần đây, an sinh xã hôi đối với người cao tuổi được thực hiện khá tốt
đã hình thành hệ thống chính sách khá toàn diện và đi vào thực tiễn, góp phần nâng cao

chất lượng cuộc sống của NCT. Nhờ đó, công tác người cao tuổi được triển khai thực
hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, tạo sự thống nhất trong thực hiện các chính
sách hỗ trợ đối với người cao tuổi. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội
hiện nay, một số chính sách đã không còn phù hợp, còn nhiều vướng mắc và vẫn còn
những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện như:
Bảo hiểm xã hội.
- Sự phân biệt về giới tính và khu vực kinh tế giữa những người tham gia hệ thống hưu trí
và điều này sẽ dẫn đến bất công bằng về đóng và hưởng giữa nam giới và nữ giới, giữa
người làm việc trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2007) cho thấy, cả nam giới và nữ giới làm việc
trong khu vực nhà nước sẽ có mức hưởng bình quân cao hơn đáng kể so với những người
làm việc trong khu vực ngoài nhà nước dù họ có cùng thời gian tham gia và cùng mức
đóng góp cho hệ thống . Cụ thể, nghiên cứu này cho rằng lao động nữ và nam khu vực
ngoài nhà nước chỉ nên đóng góp cho hệ thống tương ứng khoảng 22 năm và 28 năm thì
sẽ nhận được mức hưởng cao nhất vì sau đó tỷ lệ hưởng tăng thêm cho mỗi năm đóng
góp vào hệ thống sẽ giảm dần. Chính vì lý do này mà hiện nay mức hưởng giữa những
người về hưu ở các ngành và khu vực khác nhau có sự chênh lệch rất lớn.
- Nguồn quỹ Bảo hiểm xã hội chưa bền vững.
Việc vận hành hệ thống hưu trí theo cơ chế tài chính thực thanh thực chi với mức hưởng
được xác định trước đang tạo ra những nguy cơ thâm hụt nặng nề cho quỹ bảo hiểm xã
hội khi dân số ngày càng già hóa, nhưng các chính sách điều chỉnh còn rất chậm và chỉ
mang tính giải quyết tình thế như tăng mức đóng góp, mở rộng đối tượng bắt buộc tham
gia... Những nghiên cứu gần đây (ví dụ, Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2006; Giang và Pfau,

17


2009c; Giản Thành Công và cộng sự, 2010) đều cho thấy những điều chỉnh chính sách đó
không thể duy trì cân đối tài chính dài hạn cho hệ thống hưu trí Việt Nam. Ví dụ, dự
báo nguyên trạng hệ thống của Giang và Pfau (2009c) theo phương pháp tiếp cận

ngẫu nhiên7 cho thấy, với quy định và xu hướng tham gia như hiện nay, hệ thống hưu trí
Việt Nam sẽ cạn kiệt tài chính vào năm 2052 với độ chệch là 4 năm và độ tin cậy là 90% .
Quan trọng hơn, hệ thống hưu trí này còn có thể tạo ra một khoản nợ lương hưu tiềm ẩn
lớn, tác động tiêu cực đến ngân sách nhà nước cũng như là gánh nặng đối với thế hệ lao
động trong tương lai như phải chịu mức đóng góp cao. Tính toán của Giang Thanh Long
(2013) và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2014) đều cho thấy, trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi, để cân bằng quỹ thì tỷ lệ đóng góp phải tăng từ 20% như hiện nay lên
gần 35% trong vòng 20 năm tới. Đây là những thách thức đáng lo ngại, đòi hỏi phải
chuyển đổi hệ thống hưu trí theo hướng công bằng, hiệu quả và bền vững tài chính.
-Việc chậm điều chỉnh tuổi hưu theo sự gia tăng của tuổi thọ cũng như việc điều chỉnh
bất cân đối giữa mức đóng và mức hưởng. Vấn đề này đang khiến cho nguy cơ người
tham gia chỉ nhận được lương hưu một thời gian ngắn hơn nhiều so với dự kiến. Tính
toán của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2014) cho thấy một người lao động đóng góp trong
30 năm chỉ tích lũy đủ để chi trả cho 8-10 năm khi nghỉ hưu, trong khi thời gian dự kiến
được hưởng khoảng 19 năm. Đây là thách thức lớn không chỉ về cân đối quỹ hưu trí mà
còn cả về an ninh thu nhập cho người cao tuổi. Sự chậm chạp thay đổi và các quy định,
ràng buộc khắt khe khiến cho hệ thống bảo hiểm xã hội tự nguyện không thể hoạt động
hiệu quả, mức ảnh hưởng ít và bao phủ một tỷ lệ không đáng kể dân số cao tuổi
(MoLISA, 2014). Bên cạnh việc hạn chế về loại hình hưởng, chính sách và cách thức vận
hành của hệ thống BHXH tự nguyện chỉ đơn giản là “bản sao” của hệ thống BHXH bắt
buộc. Với một nước có thu nhập còn thấp và khu vực kinh tế phi chính thức còn lớn thì
hệ thống BHXH tự nguyện sẽ là kênh chủ yếu để huy động sự tham gia của người lao
động, nhằm đảm bảo đời sống kinh tế khi về già. Tuy nhiên, với các quy định như hiện
nay, hệ thống BHXH tự nguyện của Việt Nam khó có thể thực hiện vai trò đó.
Bảo hiểm y tế
- Chính sách viện phí đang tạo ra những khác biệt trong việc thanh toán một số dịch vụ
18


như thủ thuật, phẫu thuật, vật tư tiêu hao… làm ảnh hưởng quyền lợi người bệnh BHYT,

trong đó có người cao tuổi. Hệ thống y tế tuyến huyện thay đổi theo Nghị định 172 của
Chính phủ khiến cho công tác khám chữa bệnh BHYT tại các trạm y tế trở nên khó khăn
hơn khi mà các nguồn lực còn chậm thay đổi (Đàm Hữu Đắc và cộng sự, 2010).
- Chính sách điều chỉnh còn chậm, chưa thiết thực nên phạm vi quyền lợi của người tham
gia BHYT bị hạn chế, chi phí xã hội cao.
Ví dụ, một số dịch vụ mang tính dự phòng, giúp chẩn đoán, điều trị sớm với lợi ích kinh
tế và xã hội cao lại không có trong gói quyền lợi. Hình thức đồng chi trả đang tạo ra gánh
nặng tài chính cho nhiều người cao tuổi có thu nhập thấp. Nghiên cứu điều tra của Đàm
Hữu Đắc và cộng sự (2010) còn cho thấy người cao tuổi có thẻ BHYT khi đi khám bệnh
thường đối mặt với nguy cơ bị “phân biệt đối xử” do các cơ sở khám chữa bệnh muốn
tránh những thủ tục thanh toán rườm rà.
- Việc tổ chức triển khai chính sách BHYT cho người cao tuổi còn nhiều hạn chế, trong
đó nổi bật nhất là ở tuyến cơ sở với kinh phí thấp nên cơ sở vật chất nghèo nàn, hầu như
không có cán bộ chuyên ngành lão khoa và sự tham gia rất hạn chế của các dịch vụ y tế
tư nhân tại các địa phương. Chưa có nơi khám chữa bệnh riêng và chính sách riêng về
khám chữa bệnh cho người cao tuổi. Việc phải di chuyển đến những trung tâm y tế hoặc
bệnh viện để khám bệnh bằng thẻ BHYT đối với những người cao tuổi có sức khỏe kém
là một thách thức lớn. Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính quan trọng là Quỹ khám chữa
bệnh lại chưa được triển khai có hiệu quả do chất lượng dịch vụ y tế tuyến xã còn hạn
chế, kiến thức về các vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe của người dân còn chưa đầy
đủ, và hạn chế trong các hoạt động truyền thông.
Trợ cấp xã hội
- Cách thức xác định đối tượng còn mang tính chủ quan cao nên nhiều người cao tuổi
đáng nhẽ phải là đối tượng được thụ hưởng trợ cấp thì lại bị loại bỏ khỏi danh sách.
Ví dụ, cho đến nay, việc xác định đối tượng nghèo, hộ nghèo hoặc xã nghèo ở Việt Nam
trong các chương trình, chính sách hỗ trợ xã hội đều dựa trên đường nghèo do Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội (MoLISA) xây dựng. Ngưỡng nghèo của MoLISA được
coi là mức thu nhập tham chiếu để quyết định mức hỗ trợ. Những hộ gia đình có mức thu
19



nhập thấp hơn ngưỡng nghèo này thì được coi là đối tượng của các chương trình xã hội.
Tuy nhiên, như nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2010) phân tích, ngưỡng nghèo của
MoLISA đưa ra nhiều khi được xác định bởi sự sẵn có của ngân sách trung ương và địa
phương chứ không dựa nhiều mức thu nhập có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Đây cũng là
lý do mà chuẩn nghèo của MoLISA rất thấp so với những mức nghèo chuẩn được Ngân
hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế sử dụng.
- Có nhiều chính sách trợ cấp cho người cao tuổi nhưng còn rất manh mún và chưa có tác
động thực sự đến việc cải thiện cuộc sống vốn đã rất khó khăn của người cao tuổi
. Ví dụ, mức trợ cấp cho người cao tuổi nghèo, sống cô đơn không nơi nương tựa hiện
nay chỉ là 180.000 đồng/tháng, trong khi giá cả tăng nhanh và các chi phí về y tế ngày
càng lớn và họ hầu như không có nguồn thu nhập nào khác ngoài nguồn trợ cấp này.
- Hình thức hỗ trợ nhiều khi không phù hợp với đối tượng người cao tuổi. Hình thức hỗ
trợ bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật thường được áp dụng đại trà cho mọi đối tượng nên
rất khó khăn cho một số đối tượng thụ hưởng vì lý do sức khỏe, đi lại… Ví dụ, trợ cấp
lương thực cho người cao tuổi sống cô đơn, sức khỏe yếu không thể đi lại sẽ tốt hơn là
trợ cấp bằng tiền mặt.
- Chính sách về nguồn nhân lực hoạch định và thực hiện các chính sách trợ cấp xã hội
còn chậm thay đổi, trong khi số đối tượng thụ hưởng ngày càng tăng lên. Do đó, cán bộ
phụ trách rà soát đối tượng thụ hưởng khó có thể cập nhật tình hình cụ thể để xác minh
chính xác đối tượng. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ cán bộ thực hiện và giám sát chương
trình trợ cấp, đặc biệt ở những vùng có khó khăn điều kiện đi lại và hạ tầng thông tin yếu,
lại rất hạn chế nên không tạo động lực cho họ trong việc cải thiện chất lượng công việc
và đề xuất đổi mới.

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.

Kết luận
Già hóa dân số là một thành tựu xã hội to lớn của loài người và của các quốc

gia bởi đó là quá trình biến đổi nhân khẩu học tất yếu, đánh dấu sự phát triển
20


mạnh mẽ và vượt trội của con người trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Lợi ích to
lớn nhất mà quá trình già hóa dân số mang lại chính là gia tăng tuổi thọ của con
người, nâng cao thể lực và sức khỏe của bộ phận người cao tuổi, từ đó họ có
điều kiện để tiếp tục đóng góp tri thức và kỹ năng của mình cho quá trình lao
động - sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Tuy vậy, già hóa dân số
làm cho gánh nặng kinh tế và xã hội trở nên nghiêm trọng hơn nếu không có
những bước chuẩn bị và thực hiện các chiến lược, chính sách thích ứng. Việt
Nam sẽ bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ cao và thời gian chuẩn bị
thích ứng không còn nhiều nên cần phải hoạch định những chiến lược, chính
sách ASXH thực tế, xác đáng đặc biệt đối với đối tượng NCT để thích ứng với
tình hình đó.
Kiến nghị

2.

Những phân tích trên đây cho thấy, già hóa dân số đang tạo ra những sức ép
lớn về chính sách đối với Việt Nam trong việc thích ứng với những yêu cầu đảm
bảo cuộc sống có sức khỏe, tinh thần và thu nhập cho người cao tuổi. Nói cách
khác, nếu không chuẩn bị một cách chu đáo các chiến lược, chính sách kinh tế và
xã hội để thích nghi với dân số ngày càng già, Việt Nam có thể phải chịu những
gánh nặng trong việc hỗ trợ, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần và chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi - nhóm dân số đang và sẽ tăng nhanh nhất trong tất
cả các nhóm dân số. Với thực trạng về già hóa dân số và đời sống của người cao
tuổi cũng như những thách thức chính sách hiện nay, báo cáo có một số khuyến
nghị chính sách nhằm hướng đến “già hóa thành công” như sau:



Kiến nghị 1: Nâng cao ý thức và hiểu biết của các nhà quản lý, hoạch định chính
sách cũng như của toàn bộ cộng đồng về những thách thức của già hóa dân số và
đời sống của người cao tuổi.
Thực tế cho thấy, muốn thay đổi bất kỳ chính sách nào thì cần phải nâng
cao được nhận thức và hiểu biết của các nhà hoạch định chính sách và toàn xã
hội về vấn đề đó. Do vậy, nếu vấn đề già hóa dân số và thực trạng dân số cao
tuổi không được đánh giá, quan tâm sâu sắc thì sẽ không có sự thay đổi các
21


chính sách hiện có hoặc đề xuất xây dựng chính sách mới phù hợp với xu hướng
già hóa và thực trạng dân số cao tuổi. Những thách thức mà các nước có dân số
già và rất già như Nhật Bản, Ý và các nước Tây Âu là những bài học thực tiễn
cho Việt Nam, đó là cần phải chuẩn bị ngay các chính sách, chương trình hướng


tới một dân số già nhưng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế còn thấp.
Kiến nghị 2: Giải quyết đồng bộ các chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế và
đảm bảo an sinh xã hội nhằm đảm bảo và cải thiện thu nhập của người cao tuổi
có được từ lao động và hưu trí.
Thứ nhất, thực trạng “già trước khi giàu” là một thách thức rõ rệt đối với
việc đáp ứng nguồn lực giải quyết một dân số già hóa. Trong điều kiện đó, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với các mục tiêu xã hội phải được coi là chiến
lược quan trọng hàng đầu. Cần đa dạng hóa loại hình bảo hiểm nhằm tăng cường
khả năng tiếp cận của các nhóm dân số, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ thống
bảo hiểm tự nguyện với thiết kế linh hoạt, phù hợp với khả năng đóng góp và chi
trả của đối tượng và có khả năng liên thông với các loại hình bảo hiểm khác.
Thứ hai, việc thúc đẩy người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế, đặc biệt
những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, góp phần nâng cao đời sống

và duy trì hoạt động chân tay và trí óc của người cao tuổi. Đặc biệt với các
ngành mà đào tạo thông qua thực hành là chủ yếu thì việc người cao tuổi truyền
đạt kinh nghiệm, kỹ năng cho thế hệ trẻ sẽ tiết kiệm được một nguồn lực lớn cho
đào tạo.
Thứ ba, với trợ cấp xã hội cho nhóm người cao tuổi dễ tổn thương, báo cáo
khuyến nghị theo hướng mở rộng và tiến tới một hệ thống phổ cập cho mọi
người cao tuổi - một hệ thống nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu. Mức hưởng và
cách thức trợ cấp cần được xem xét cho phù hợp với điều kiện sống và sức khỏe
của người cao tuổi. Việc xác định đối tượng cần phải cải cách để tránh sai sót



trong việc chấp nhận hoặc loại trừ đối tượng.
Kiến nghị 3: Tăng cường chăm sóc sức khỏe, xây dựng và mở rộng các dịch vụ
chăm sóc người cao tuổi với sự tham gia tích cực, chủ động của mọi thành phần
xã hội và nâng cao năng lực quốc gia về chăm sóc người cao tuổi.
22


Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng
cao nhận thức, ý thức về sức khỏe cho mọi lứa tuổi để chuẩn bị cho một tuổi già
khỏe mạnh, tránh bệnh tật, thương tật và tàn phế. Cần chú trọng đến việc quản lý
và kiểm soát các bệnh mãn tính (đặc biệt như tim mạch, tăng huyết áp, thoái
khớp, tiểu đường, ung thư…) cùng với việc ứng dụng các kỹ thuật mới trong
chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị lâu dài các bệnh mãn tính. Thực hiện nghiêm
túc các quy định của Chính phủ và các Bộ, Ngành về việc tạo ra môi trường sống
thân thiện cho người cao tuổi (như xây dựng nhà cao tầng phải có thang máy
hoặc đường đi cho xe lăn của người bị tàn tật hoặc già yếu…). Cần phải có một
chương trình mục tiêu quốc gia toàn diện về chăm sóc người cao tuổi mà trong
đó cần xác định một số mục tiêu lượng hoá được và có tính đặc trưng giới để cải

thiện tình trạng sức khỏe người cao tuổi, giảm thiểu các bệnh mạn tính, tàn phế
và tử vong khi bước vào tuổi già.
Thứ hai, xây dựng và củng cố mạng lưới y tế chăm sóc sức khoẻ người cao
tuổi, đặc biệt là mạng lưới kiểm soát các bệnh mãn tính. Mạng lưới y tế này cần
đảm bảo được sự tiếp cận thuận lợi cho các nhóm người cao tuổi thiệt thòi hoặc
bất lợi như người cao tuổi ở nông thôn, phụ nữ cao tuổi hoặc người cao tuổi dân
tộc ít người. Đặc biệt, các khó khăn về tài chính của các nhóm bất lợi này cần
được giải quyết thông qua khám chữa bệnh miễn phí hoặc hỗ trợ toàn phần bằng
thẻ bảo hiểm y tế.
Thứ ba, nhà nước cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cụ thể cho các trung
tâm bảo trợ xã hội và các trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi do tư
nhân cung cấp. Hỗ trợ thông qua giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, định hướng
phát triển nguồn nhân lực… là những việc làm thiết thực nhất để tạo điều kiện
cho các tổ chức này xây dựng, củng cố và phát triển trong điều kiện nhu cầu
chăm sóc người cao tuổi ngày càng cao. Kết hợp hình thức này với việc khuyến
khích chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng và từng bước nâng cao và mở
rộng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại nhà. Đây là hoạt động xã hội hóa chăm
sóc người cao tuổi cần được quan tâm ngay. Về dài hạn, với nguồn nhân lực dồi
23


dào và có chất lượng, Việt Nam có thể cung cấp nhân lực điều dưỡng lão khoa
cho khu vực và quốc tế.
Thứ tư, xây dựng hệ thống bệnh viện và tổ chức nghiên cứu lão khoa trên
phạm vi cả nước. Từng bước xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo
điều dưỡng lão khoa phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của từng địa
phương. Các nội dung về nguyên tắc, cách tiếp cận trong chăm sóc sức khoẻ
người cao tuổi cần phải được đưa vào chương trình đào tạo y khoa cũng như các
chương trình tập huấn cho nhân viên dịch vụ dân số, y tế, xã hội và truyền thông.
Các chương trình đào tạo người chăm sóc không chính thức như các thành viên

gia đình, bạn bè đồng niên… của người cao tuổi cũng cần được xây dựng và


phát triển từ cộng đồng.
Kiến nghị 4: Tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp
trong việc xây dựng, vận động và thực hiện chính sách cho già hóa dân số và
người cao tuổi. Các tổ chức này, đặc biệt là Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi
và Hội Người cao tuổi Việt Nam, cần chủ động, tích cực trong việc tham gia xây
dựng, góp ý các chính sách kinh tế, xã hội, y tế… cho các Bộ, Ngành chuyên
môn để xây dựng được các chính sách nhất quán, thiết thực trong việc chuẩn bị
và giải quyết các vấn đề của một dân số già hóa, cũng như cải thiện đời sống của
người cao tuổi về mọi mặt. Các hoạt động vận động gia đình, cộng đồng và toàn
xã hội tham gia chăm sóc người cao tuổi cần được thúc đẩy và nhân rộng. Cần
kết hợp với các cơ quan chuyên môn trong nghiên cứu và đề xuất việc đa dạng
hóa cách thức, mô hình tổ chức cuộc sống cho người cao tuổi như sống cùng con
cháu, sống tại nhà dưỡng lão hoặc tại các cơ sở chăm sóc người cao tuổi tại cộng
đồng… Tổ chức các hoạt động cộng đồng cho người cao tuổi một cách thường
xuyên nhằm nâng cao hiểu biết và đóng góp ý kiến của người cao tuổi với các



chính sách của nhà nước cũng như đời sống của cộng đồng.
Kiến nghị 5: Cần phải xây dựng được cơ sở dữ liệu có tính đại diện quốc gia và
thực hiện các nghiên cứu toàn diện về dân số cao tuổi. Không có những thông tin
chính xác, cập nhật về già hóa dân số và người cao tuổi thì không thể có những
đánh giá xác đáng về các vấn đề kinh tế, xã hội và sức khỏe của người cao tuổi.
24


Đây sẽ là những đầu vào quan trọng cho việc đề xuất các chính sách, chương

trình can thiệp thiết thực, có trọng tâm và hiệu quả.
 Luật Bảo hiểm xã hội hiện nay không thể chu cấp lương hưu cho phần lớn NCT
tại Việt Nam. Trong khi đó, già hóa nhanh chóng lại đang tạo nên những gánh
nặng cho quỹ lương hưu, sự hao hụt quỹ này đã được dự kiến là sẽ xảy ra. Do
đó, Việt Nam cần có ngay các hành động để đổi mới hệ thống trợ cấp xã hội.
Trong đó, cần tận dụng thời điểm cơ cấu dân số “vàng” với 70% dân số trong độ
tuổi lao động, để xây dựng dự trữ cho quỹ lương hưu, thông qua các khoản bảo


hiểm hưu trí và nộp thuế từ lực lượng lao động trẻ hùng hậu.
“Người cao tuổi phải được ghi nhận là một nguồn lực quan trọng cho phát triển.
Việt Nam nên tạo điều kiện cho NCT có được những cơ hội việc làm, linh hoạt
trong tuổi nghỉ hưu và phát triển kỹ năng nhằm đảm bảo thu nhập và lợi ích khi
về già”

25


×