Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM VÀ NỘI DUNG CỦA KẾ HOẠCH HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.57 KB, 6 trang )

NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM VÀ
NỘI DUNG CỦA KẾ HOẠCH HOÁ
I. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG
1. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Có lẽ chúng ta đều thấy rằng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nền kinh
tế trong đó việc giải quyết các vấn đề lớn của một nền kinh tế như sản xuất cái gì?
sản xuất cho ai?, sản xuất như thế nào?, và sản xuất ở đâu? đều được Nhà nước
quyết định và điều hành trực tiếp bằng kế hoạch pháp lệnh và thông qua kế hoạch
pháp lệnh.
2. Đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
a.Về vấn đề sở hữu: tồn tại hai hình thức sở hữu: sở hữu công (sở hữu toàn
dân) và sở hữu tập thể, Nhà nước không công nhận bất kỳ một hình thức sở hữu
nào khác hai hình thức sở hữu trên. Trong nền kinh tế chỉ tồn tại thành phần kinh tế
hợp tác xã và kinh tế quốc doanh. Do nóng vội xây dựng hình thức sản xuất Xã hội
chủ nghĩa. Chúng ta không ngừng thực hiện xây dựng, hình thành, duy trì và củng
cố hai hình thức sở hữu trên trong một hời gian tương đối dài…
b.Về cơ chế điều hành sản xuất: thực hiện cơ chế tập trung, việc xây dựng,
thực hiện các kế hoạch đều được quyết định một cách trực tiếp từ trên xuống theo
kiểu mệnh lệnh. Như vậy trong vấn đề sản xuất cái gi? không được thực hiện thông
qua việc thoả thuận giữa người mua và người bán, mà người bán (người sản xuất)
trực tiếp quyết định, nghĩa là thực hiện bán cái mình có chứ không bán cái người
mua cần. (sự lựa chọn đa dạng của nggười mua không được đáp ứng, không kích
thích được nhu cầu tiêu dùng của con người phát triển),… Dẫn đến tồn tại một sức
ì lớn trong nền kinh tế.
c. Nhà nước không công nhận cơ chế thị trường (thực hiện phân phối theo
tem phiếu, cấp phát…), dẫn đến thị trường không phát triển, thông tin thị trường
không chính xác (bị bóp méo )…
3. một số nhận xét
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta hiểu sai, hiểu chưa đúng,
chưa đầy đủ về chủ nghĩa mac- lênin dẫn đến trong thực hiện chúng ta làm không
đúng, thậm chí còn vi phạm các quy luật khách quan, các nguyên lý, nguyên tắc


của chủ nghĩa mác. Hậu quả là chúng ta lâm vào khủng hoảng kinh tế trong nhiều
năm của thập kỷ 80 (cụ thể là chúng ta đã lâm vào khủng hoảng thiếu). Xin đơn cử
một số dẫn chứng, theo chủ nghĩa mác- lênin thì sự vật hiện tượng là thống nhất
của các mặt đối lập, vậy nếu ta coi vấn đề sở hữu là sự vật hiện tượng thì nếu tồn
tại hình thức sở hữu công thì tất yếu phải tồn tại sở hữu tư với tư cách là một mặt
đối lập tạo thành sở hữu. Vấn đề không phải là loại trừ bất kỳ một hình thức sở hữu
nào trong hai hình thức trên mà vấn đề chỉ là tỷ lệ giữa chúng là bao nhiêu?.
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã xem nhẹ vấn đề “ lợi
ích”, đây là vấn đề then chốt, vấn đề của mọi vấn đề. Có tính chất quyết định nhất
đối với mọi hoạt động của con người. Có thể nhận thấy rằng lợi ích được biểu hiện
trên hai phương diện cơ bản, một là trên phương diện vật chất: thì lợi ích được biểu
hiện tập trung ở lợi ích kinh tế, lợi ích kinh tế là lợi ích của các lợi ích xét về
phương diện vật chất,…; hai là trên phương diện tinh thần: thể hiện ở độ thoả
dụng, thoả mãn mà con người có thể nhận được về mặt tinh thần, đáp ứng được
những đòi hỏi về tinh thần của con người,… đối với bất kỳ một cá nhân nào thì lợi
ích về mặt vật chất bao giờ cũng phai được đáp ứng trước (có trước) nó đáp ứng
trước hết là nhu cầu về vật chất thiết yếu của con người ( nhu cầu về ăn, mặc,….) ,
sau đó mới xuất hiện, tồn tại và phát triển về lợi ích tinh thần, đến lượt mình thì lợi
về mặt tinh thần xuất hiện và phát triển và có tác động ngược trở lại lợi ích về mặt
vật chất, có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến lợi ích về mặt vật chất,…. Xin
đươc bàn thêm một chút về vấn đề này trên thực tế và xin dẫn chứng một thực tế là
trong việc khuyến khích cán bộ đi công tác ở những nơi xa các trung tâm, xa thành
phố. Một câu hỏi đặt ra là tại sao hầu hết mọi người không muốn đi công tác ở
những nơi xa những trung tâm? câu trả lời thực sự là đơn giản khi chúng ta đứng
trên quan điểm về lợi ích như đã được đề cập ở trên, nghĩa là lý do con người ta
không thích công tác xa các trung tâm vì khi công tác ở các trung tâm họ nhận
được không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế mà họ còn nhận được lợi ích tinh thần
mà các lợi ích này chỉ ở các trung tâm của sự phát triển mới có, bên cạnh đó các
chính sách của Nhà nước chỉ đáp ứng được về lợi ích kinh tế cho họ khi họ công
tác xa thành phố,... Tuy nhiên chúng ta không nên rơi vào chủ nghĩa lợi ích, mà ở

đây chỉ xin được đưa ra để xem xét vấn đề lợi ích như một vấn đề chính, vấn đề cơ
sở của hầu hết các vấn đề trong hoạt động của con người,… vì lợi ích kinh tế và
địa vị xã hội sẽ quyết định việc con người ta nói gì và làm gì. về vấn đề này người
Trung Quốc đã từng nói “ không có bạn mãi mãi, không có thù mãi mãi mà chỉ có
lợi ích của con người là mãi mãi.”. Liên quan trực tiếp đến vấn đề lợi ích là vấn đề
“nhu cầu”, thống nhất giữa lợi ích với nhu cầu tạo nên con người trong mối quan
hệ tổng hoà. Nhu cầu được thoả mãn bằng – thông qua lợi ích, nhu cầu của con
người là cái động nhất, cái căn bản nhất của con người , mọi hoạt động của con
người suy cho cùng đều nhằm mục đích đem lại lợi ích để thoả mãn nhu cầu của
mình, cũng như vấn đề lợi ích vấn đề về nhu cầu cũng được biểu hiện trên phương
diện vật chất và phương diện tinh thần. Nhu cầu của con người là cái vượt trước
vĩnh viễn, do đó lơi ích của con người là mãi mãi,… Lợi ích và nhu cầu là vấn đề
rất rộng, có liên quan (trực tiếp, gián tiếp ) tới rất nhiều vấn đề của đời sống xã hội
và ở đây chỉ xin đề cập tới hai vấn đề này trên phương diện phục vụ cho bài viết
này.
II. NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC KẾ HOẠCH TRONG NỀN KINH TẾ TẬP
TRUNG
1. Kế hoạch dài hạn
Kế hoạch dài hạn có thể hiểu là việc căn cứ vao đường lối phát triển, căn cứ
vào các quan điểm phát triển xây dựng các mục tiêu phát triển có tính chất to lớn,
toàn cục của một quộc gia trong một thời gian dài (thường từ 10 tới 20 năm) và các
giải pháp, biện pháp, các chính sách nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra
Đất nước ta kể từ khi dành lại được độc lập thì đảng và nhà nước ta xác định
con đường đi là đi lên chủ nghĩa xã hội. Căn cứ vào đường lối chung đó để xác
định các mục tiêu phát triển cho một thời kỳ dài, như thực hiện công nghiệp hoá
hiện đại hoá, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp nặng,… đưa đất nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội…
Kế hoạch dài hạn là cơ sở, là căn cứ, làm xuất phát điểm cho việc xây dựng,
thực hiện, quản lý kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm ( kế hoạch 1 năm). kế
hoạch dài hạn còn là một bước cụ thể hoá các quan điểm phát triển, cụ thể hoá

đường lối phát triển, là một phương tiện nhằm đạt được quan hệ sản xuất mong
muốn,…
2. Kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm
Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là việc cụ thể hoá của kê hoạch dài
hạn, nó thể hiện ý đồ phát triển của một đất nước trong thơi gian 5 năm, cùng với
cách thức để đạt được mục tiêu đề ra.
Phạm vi kế hoạch: Phạm vi kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm chỉ bao
quát khu vực kinh tế Nhà nước, bao gồm hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh về sản xuất,
cung cấp đầu vào cho sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,…được giao từ TW xuống các
bộ, ngành, địa phương, đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc khu vực kinh tế Nhà
nước,..
Về nội dung kế hoạch: do điều kiện khó khăn của đất nước (chiến tranh tàn
phá,..) nên nội dung của kế hoạch xác định củng cố quốc phòng an ninh, sản xuất,
cung ứng, vận chuyển với bất kỳ giá nào,….kế hoạch là kế hoạch pháp lệnh, nghĩa
là việc xây dựng, thực hiện, quản lý kế hoạch được thực hiện thông qua các chỉ
tiêu pháp lệnh, kế hoạch xem nhẹ quy luật khách quan,…xét về hệ thống các mục
tiêu: giống như kế hoạch dài hạn, các chỉ tiêu hoàn toàn là các chỉ tiêu về mặt hiện
vật, và mang nặng tính chất pháp lệnh, tính chủ quan dẫn tới tính khả thi của mục
tiêu rất thấp, nghĩa là việc đưa ra các chỉ tiêu xa rời với điều kiện cụ thể của đất
nước (điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời gian ngay sau khi độc lập là một
nước với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nhỏ,…), ở đây một
lần nữa ta lại thây rất rõ ràng rằng việc trả lời câu hỏi: chúng ta đang ở đâu? ở mức
độ nào của sự phát triển? đối với chúng ta có lẽ còn là một câu hỏi bỏ ngỏ, chưa
được trả lời. Dẫn tới việc xây dựng kế hoạch chỉ căn cứ vào ý muốn chủ quan, chỉ
căn cứ vào câu hỏi chúng ta muốn gì?. hậu quả là việc thực hiện kế hoạch thường
không đạt mục tiêu, cụ thể là trong các kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 – 1980) và
kế hoạch 5 năm lần thứ 3 ( 1981 – 1985) hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều không
đạt được. Về qui trình lập kế hoạch hàng năm được thực hiện theo kiểu hai “ lên ba
xuống”nghĩa là trung ương giao số kiểm tra xuống các bộ, ngành, các địa phương,
các đơn vị đâu mối kế hoạch để xây dựng kế hoạch; Dự thoả kế hoạch được gửi lên

trung ương và tiến hành bảo vệ kế hoạch; trung ương giao kế hoạch đã được bảo vệ
xuống cho đơn vị đầu mối hoàn chỉnh; Gửi kế hoạch đã hoàn chỉnh lên trung ương
để tổng hợp; trung ương giao kế hoạch chính thức cho đơn vị đầu mối kế hoạch.
Thực chất của việc lập kế hoạch là phép “ cộng” đơn thuần các kế hoạch từ cấp
dưới gửi lên, không có căn cứ khoa học như các phân tích tổng hợp, các dự báo

×