Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.12 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
--------------------

TIỂU LUẬN
“Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của
tập đoàn viễn thông quân đội Viettel”
Giảng viên hướng dẫn
Lớp tín chỉ
Khóa
Khoa

:
:
:
:

PGS. TS Trần Thị Ngọc Quyên
DTU308.1
52
Kinh tế đối ngoại

Hà Nội, ngày 29, tháng 11, năm 2015


Mục Lục


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu hướng quốc tế hóa đang ngày một diễn ra rộng khắp, hàng hoá không còn giới


hạn ở phạm vi biên giới quốc gia nữa. Các công ty muốn tồn tại và phát triển thì
không thể chỉ quẩn quanh ở thị trường nội địa mà phải vươn ra thị trường quốc tế,
phải đối diện với những thách thức, khó khăn trước sự cạnh tranh ngày càng khốc
liệt mang tính quốc tế nhằm giành giật khách hàng và mở rộng thị trường ngay trong
nước cũng như thế giới. Trong xu thế này, Việt Nam nói chung và ngành viễn thông
nói riêng đã và đang tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Viễn
thông luôn được coi là một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng và là một trong những
lĩnh vực kinh tế mũi nhọn ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời là lĩnh
vực ảnh hưởng nhạy cảm đối với an ninh, chính trị của quốc gia.
Các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đã nỗ lực tìm kiếm những con đường để có thể
từng bước vươn ra thị trường quốc tế. Trong số đó không thể không kể đến Tập đoàn
viễn thông quân đội Viettel, tập đoàn viễn thông quân đội Viettel đã tiên phong đưa
ngành viễn thông Việt Nam hội nhập với thế giới bằng cách đầu tư cơ sở hạ tầng và
cung cấp dịch vụ viễn thông tại thị trường nước ngoài. Với những nỗ lực của mình,
Viettel đã dần dần vươn xa khỏi biên giới quốc gia, bước đầu đạt được những thành
quả nhất định. Tính tới đầu năm 2012, Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel đã thâm
nhập được 5 thị trường nước ngoài là Campuchia, Lào, Haiti, Mozambique và Peru.
Với những thành công mà Viettel đã đạt được như: tại thị trường Campuchia Viettel là
mạng lưới đứng thứ nhất sau sáu tháng khai trương, tại Lào là thuê bao đứng thứ ba
ngay tại thời điểm khai trương... Để có thể tìm hiểu thị trường một cách chi tiết và cung
cấp cái nhìn sâu sắc nhất về môi trường đầu tư, nhóm chúng em xin lựa chọn thị trường
Mozambique làm thị trường nghiên cứu vì đây là thị trường mà Viettel đang tiến hành
thâm nhập và đã đạt được những thành công nhất định.Cũng chính từ phân tích trên,
nhóm đã quyết định chọn đề tài : “Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới
góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel” gửi tới cô và các bạn.

Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang



2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản về môi trường đầu tư quốc tế,
nhóm chúng em đi phân tích và đối chiếu với thực trạng thâm nhập thị trường
Mozambique của Viettel, đánh giá những kết quả đạt được, những khó khăn hạn chế
cần khắc phục, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm triển khai thực hiện tốt chiến
lược thâm nhập thị trường Mozambique của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài luận tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về môi trường
đầu tư quốc tế của Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel trong thời gian vừa qua.
Cụ thể là phân tích môi trường đầu tư tại Mozambique, thực trạng lựa chọn phương
thức thâm nhập và thực trạng triển khai các hoạt động chức năng của Viettel tại thị
trường nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài luận có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý
luận và thực tiễn như: phương pháp tổng hợp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp đặt vấn đề và suy luận logic. Ngoài
ra, khóa luận còn sử dụng các sơ đồ, bảng biểu, biểu đồ để làm tăng thêm tính trực
quan của khóa luận.
5. Kết cấu của khóa luận
Chương I: Các vấn đề lý luận về môi trường đầu tư và sự cần thiết của môi
trường đầu tư
Chương II: Thực trạng thị trường Mozambique và phương thức thâm nhập thị
trường của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel.
Chương III: Đề xuất một số giải pháp nhằm triển khai thực hiện tốt chiến
lược thâm nhập thị trường Mozambique của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel.

Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang



Chương I. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ

1.1. Khái niệm
Môi trường đầu tư: là tổng hòa các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư
như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, tài chính, cơ sở hạ tầng, năng lực thị
trường, lợi thế của một quốc gia có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của
nhà đầu tư.
Theo World Bank 2004, môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa
phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có hiệu
quả tạo, tạo việc làm và mở rộng sản xuất. Tập hợp những yếu tố đặc thù này bao
gồm 2 thành phần chính sách của Chính phủ và các yếu tố khác liên quan đến quy
mô thị trường và ưu thế địa lý. Hai thành phần này tác động đến ba khía cạnh liên
quan đến nhà đầu tư :
- Chi phí cơ hội (Opportunity Costs) của vốn đầu tư .
- Mức độ rủi ro ( Investment Risks) trong đầu tư.
- Những rào cản về cạnh tranh ( Barriers to Competion) trong quá trình đầu tư
2.

Phân loại môi trường đầu tư1:

2.1. Môi trường đầu tư cứng:
Môi trường đầu tư cứng có liên quan đến các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đảm
bảo cho sự phát triển kinh tế vùng, quốc gia như: hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông
(đường sá, cầu cảng, sân bay, bến cảng…), hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cung

cấp năng lượng, nước…
2.2. Môi trường đầu tư mềm:
Môi trường đầu tư mềm bao gồm hệ thống các dịch vụ hành chính công, dịch vụ pháp lý
liên quan đến hoạt động đầu tư (đặc biệt là các vấn đề liên quan đến chế độ đối xử và
giải quyết các tranh chấp, khiếu nại), hệ thống các dịch vụ tài chính – ngân hàng, kế
toán, kiểm toán…
Cụ thể môi trường đầu tư được cấu thành từ nhiều yếu tố mà theo UNCTAD, có thể
tổng hợp thành 3 nhóm yếu tố sau:

1 Giáo trình Đầu tư nước ngoài, Vũ Chí Lộc
Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang


a) Khung chính sách: bao gồm hệ thống các quy định hành chính, luật pháp và
chiến lược của Nhà nước để trên cơ sở đó Chính phủ, các cơ quan thuộc
Chính phủ và địa phương điều hành hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được
các mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
b) Các yếu tố kinh tế: là tổng thể các nhân tố hữu hình và vô hình, có sẵn (trời
cho) và tạo ra cấu thành của một nền kinh tế và cũng là thước đo để đánh giá
“tầm vóc” của nền kinh tế quốc gia. Yếu tố kinh tế là mục tiêu nghiên cứu, là
mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nhà đầu tư nào.
c) Yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh tại nước nhận đầu tư: là
các biện pháp mà Chính phủ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư
nước ngoài gồm: hoạt động xúc tiến đầu tư, các biện pháp khuyến khích đầu
tư (miễn, giảm thuế, thuế ưu đãi, ưu đãi thuê mặt bằng…); các biện pháp
nhằm giảm tiêu cực phí (minh bạch và đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng
hiệu quả công tác quản lý, giảm và loại trừ tham nhũng); các biện pháp cải
thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ tiện ích, công cộng nhằm nâng cao chất

lượng sống của con người.

d) Nghiên cứu môi trường đầu tư quốc tế dưới góc độ quan tâm của nhà
đầu tư nước ngoài:
_ Khi lựa chọn địa điểm đầu tư ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ phải cân nhắc đến
các điều kiện sản xuất, kinh doanh ở địa điểm đó xem có thuận lợi hay không.
Nghĩa là cân nhắc đến các yếu tố có liên quan đến lợi thế địa điểm của nước
nhận đầu tư. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế địa điểm của các nước nhận
đầu tư được đề cập đến trong khái niệm “môi trường đầu tư”. Theo
UNCTAD, các yếu tố quyết định FDI của nước tiếp nhận đầu tư được chia
thành 3 nhóm sau:
+) Khung chính sách về FDI của nước tiếp nhân đầu tư bao gồm: các quy
định liên quan trực tiếp đến FDI và các quy định có ảnh hưởng gián tiếp đến
FDI.
+) Các yếu tố của môi trường kinh tế.
+) Các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh.
_ Bên cạnh cách tiếp cận của UNCTAD, còn có cách tiếp cận khác theo đó
môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố sau:
+) Môi trường chính trị xã hội.
+) Môi trường pháp lý và hành chính.
+) Môi trường kinh tế và tài nguyên.
+) Môi trường tài chính.
+) Môi trường cơ sở hạ tầng.
+) Môi trường lao động.
+) Môi trường quốc tế.

Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang



3.

Sự cần thiết nghiên cứu môi trường đầu tư quốc tế2:

3.1.

Đối với doanh nghiệp:
Mọi hoạt động đầu tư dù ở đâu (trong nước hay ngoài nước) suy cho cùng là để
thu lợi nhuận, vì thế môi trường đầu tư hấp dẫn phải là môi trường mà ở đó các hoạt
động đầu tư có hiệu quả cao nhất, hạn chế thấp nhất mức độ rủi ro. Điều đó lại chịu ảnh
hưởng bởi nhiều nhân tố như: điều kiện tự nhiên, chế độ chính trị, chính sách và pháp
luật. Các yếu tố xã hội, như truyền thống, văn hóa, tập quán và tôn giáo cũng tác động
rất lớn tới hoạt động đầu tư và khả năng sinh lợi của dự án đầu tư.
Như vậy, việc nghiên cứu môi trường đầu tư quốc tế sẽ là căn cứ quan trọng để
các nhà đầu tư quyết định có đầu tư hay không, đầu tư cái gì, lĩnh vực nào, ở đâu, quy
mô, dự án ra sao.
3.2. Đối với Chính phủ:
Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều nhận thấy vai trò quan trọng của đầu tư quốc tế
đối với sự phát triển kinh tế nên rất tích cự cải thiện môi trường đầu tư để hấp dẫn, thu
hút nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn FDI.
Việc nghiên cứu môi trường đầu tư quốc tế để các Chính phủ thấy điểm mạnh, điểm
yếu của quốc gia mình trong việc tạo lập môi trường kinh doanh tốt và trên cơ sở đó sẽ
có chính sách, biện pháp thích hợp nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư.
4.
Cách tiếp cận vấn đề:
Phân loại và đi phân tích môi trường đầu tư theo hướng :
4.1.

Môi trường vĩ mô


4.2.

Môi trường kinh tế

4.3.

Môi trường chính trị, pháp luật

4.4.

Môi trường văn hóa, xã hội

4.5.

Môi trường khoa học, công nghệ

4.6.

Môi trường Viễn thông

2 Giáo trình Đầu tư nước ngoài, Vũ Chí Lộc
Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang


Chương II.
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG MOZAMBIQUE
VÀ PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG CỦA TẬP

ĐOÀN VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL
1.

Phân tích thị trường Mozambique

1.1.

Môi trường vĩ mô

Thông tin đại cương về Mozambique
Mozambique là một nước thuộc Đông Nam Châu Phi với diện tích 801.590
km23, dân số 27.220.000 người (Năm 2014) gần bằng ¼ dân số Việt Nam4, người
trong độ tuổi lao động chiếm ½ dân số (tương đương với gần 11 triệu lao động). Tỷ lệ
người nghèo tương đối cao 69%, tỷ lệ người biết chữ thấp khoảng 47.5% (Năm
2009), ngôn ngữ chính là tiếng Bồ Đào Nha. Khí hậu Mozambique là nhiệt đới gió
mùa, với nhiệt độ mùa hè khoảng 21-31 độ C, mùa đông là 13-24 độ C.
Mozambique phải hứng chịu nhiều thiên tại như lũ lụt, lốc xoáy, hạn hán.
Nợ công của Mozambique đã nhanh chóng tăng lên 55% GDP vào năm 2014 và dự
kiến sẽ ổn định khoảng 60% GDP trong trung hạn. Lạm phát ở mức thấp (0,12% vào
cuối tháng Sáu năm 2015) mặc dù có những áp lực lạm phát ở phía bắc của đất nước do
lũ lụt hồi đầu năm. Sự sụt giảm giá khoáng sản và nguyên vật liệu nói chung cũng đang
ảnh hưởng đến mức độ đầu tư vào Mozambique.5
Từ những thông tin trên ta có thể thấy Mozambique là đất nước còn nghèo nàn,
dân cư thưa thớt, độ tuổi lao động thấp so với mức trung bình, thiên tai hoành hành,
nhưng Mozambique là một đất nước khá rộng lớn và có khí hậu ôn hòa. Như vậy với
những điều kiện xã hội đó Mozambique nằm trong khối thị trường mục tiêu mà Viettel
đang hướng tới.6
1.2.

Môi trường kinh tế


Mozambique có tổng GDP đạt gần 16,4 tỷ đôla Mỹ năm 2014, với tốc độ tăng
GDP tương đối ổn định 7,4% (2014),GDP bình quân đầu người đạt 602,1 đô la Mỹ
(năm 2014).7; dịch vụ chiếm 32,7% GDP trong cơ cấu thương mại.8
3 Nguồn: />4 Nguồn: />5 Nguồn: />6 Nguồn: />Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang


Hình 2.1 : Tăng trưởng GDP so với Việt Nam

Nguồn: />source=2&country=&series=NY.GDP.MKTP.CD&period=

Hình 2.2 : Cơ cấu GDP của Mozambique từ 2006-2014 (đơn vị: đô la Mỹ)

Nguồn : />7 Nguồn: />8 Nguồn: />Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang


Hình 2.3 : GDP bình quân đầu người tại Mozambique (đơn vị: đô la Mỹ)

Với tỷ lệ lạm phát 2,8% (2014), Mozambique được đánh giá là có tỷ lệ lạm
phát tương đối thấp so với các nước châu Phi khác (Angola: 3,7%, Cameroon :
4,0%, Nambia 11,7%, Nam Phi: 5,8%, Malawi 20,9%...năm 2014)9. Chỉ số
minh bạch là 126/180 cho thấy tham nhũng cũng là một vấn đề lớn ở
Mozambique. Lãi suất ngân hàng năm 2014 là 16%, thấp hơn so với các nước
Nam Phi.
Mozambique đạt giá trị nhập khẩu năm 2014 là 742,7 tỷ đôla Mỹ, chủ yếu
là các mặt hàng máy móc, thiết bị, sản phẩm công nghiệp từ Nam Phi, Hà Lan,

Trung Quốc. Giá trị xuất khẩu đạt 1.181,3 tỷ đôla Mỹ năm 2014, các mặt hàng
xuất khẩu là nhôm, đường, cotton, thị trường xuất khẩu chủ yếu của
Mozambique cũng là Hà Lan, Nam Phi.
10

9 Nguồn: />10 Nguồn : /> />
Phân tích môi trường đầu tư của Mozambique dưới góc nhìn của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

Trang 10


Đơn vị tiền tệ của Mozambique là Meticais. Tỷ giá quy đổi đồng Meticais của
Mozambique ngày càng có xu hướng mất giá do việc tăng giá đồng đôla Mỹ và đồng
rand Nam Phi mà Mozambique nhập khẩu lớn từ Nam Phi.
Cơ sở hạ tầng Mozambique còn nghèo nàn. Mozambique có 23 sân bay nhưng
chỉ 5 sân bay đạt tiêu chuẩn quốc tế, 3.123 km đường sắt nhưng tốc độ di chuyển chậm
do đường ray hẹp, 460 km đường thủy với 5 cảng biển và 30.400 km đường bộ với 6
quốc lộ nhưng chỉ 1 quốc lộ được trải lát.
Mozambique trượt bảy bậc trong chỉ số "Kinh doanh" báo cáo thường niên của Ngân
hàng Thế giới trong năm 2011, từ 132 đến 139. Trong số mười chỉ tiêu đánh giá,
Mozambique xếp thứ 70 trong chỉ số "Thành lập doanh nghiệp" và xếp thứ 46 trong chỉ
số "Bảo vệ nhà đầu tư ", hai chỉ số xếp hạng xếp hạng cao nhất. Tuy nhiên,
Mozambique xếp hạng gần cuối trong danh mục mới "Cung cấp điện" (xếp thứ 172) và
Đăng ký bất động sản (xếp thứ 156). Tuy nhiên đối với những nhà đầu tư tập trung
trước mắt vào ngành dịch vụ và bản thân doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư cơ sở hạ tầng tại
nước nhận đầu tư (host country) thì đó không phải điều trở ngại.Điều này cung cấp
thêm bằng chứng về việc dễ dàng bắt đầu một doanh nghiệp tại Mozambique nhất là
trong ngành dịch vụ; Tuy nhiên, những thách thức quan liêu và cơ sở hạ tầng vẫn là
một trở ngại cho việc mở rộng kinh doanh và đầu tư.11
Như vậy nền kinh tế Mozambique là một nền kinh tế tăng trưởng ổn định,mức lạm

phát thấp,sa sút,cơ sở hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu. Từ đó cho thấy chi phí cho tiêu
dùng thấp, lực lượng cạnh tranh là khá cao ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp. Mức lãi suất cao ảnh hưởng không nhỏ đến mức cầu của sản phẩm, chính sách
tiền tệ và tỷ giá hối đoái trong xu hướng đi xuống cũng là một nguy cơ lớn. Tỷ lệ lạm
phát cao dẫn đến việc kiểm soát giá cả và tiền công có thể không làm chủ được. Lạm
phát tăng lên, dự án đầu tư trở nên mạo hiểm hơn, đây là mối đe doạ cho doanh nghiệp.
1.3.

Môi trường chính trị, pháp luật

1.3.1. Chính trị
Từ thế kỷ XV, Mozambique là thuộc địa của Bồ Đào Nha. Sau 10 năm chiến tranh,
Đảng FRELIMO đã giúp Mozambique giành được độc lập ngày 25/6/1975. Hiện nay
Mozambique theo thể chế cộng hòa. Tổng thống có quyền hành pháp, có quyền bổ
11Nguồn: />dered/PDF/654280Mozambiq0BOX0365766B00PUBLIC0.pdf


nhiệm Thủ tướng lên để hỗ trợ ông điều hành đất nước.
Kể từ tháng Giêng năm 2015 Mozambique có một tổng thống mới, Filipe Nyusi;
chiến thắng đảng cầm quyền Frelimo ứng cử viên của tháng 10 năm 2014 cuộc tổng
tuyển cử. Đảng của ông cũng được bảo đảm một phần lớn mạnh trong quốc hội (144
ghế trong tổng số 250 trong tổng số), mặc dù trong sự sụt giảm mạnh so với các cuộc
bầu cử trước đó vào năm 2009 khi nó thu hút được 75% số phiếu bầu. Renamo, phe đối
lập lớn nhất và cựu nhóm phiến quân, tăng hơn gấp đôi chỗ ngồi của mình trong quốc
hội. Renamo đã tranh cãi về kết quả cuộc bầu cử và đã đề xuất một phân cấp của hệ
thống chính trị hiện hành để cho phép nó để cai trị các tỉnh, nơi nó trở lại phía trước
trong các cuộc thăm dò.12
Về hợp tác quốc tế, Mozambique tham gia nhiều tổ chức quốc tế như ITU, FAO, IMF,
v.v, là thành viên của WTO từ năm 1995.
Ngày 25/6/1975 Mozambique thiết lập quan hệ với Việt Nam.

Tháng 1/2007: Tổng thống Mozambique Armando Emilio Guebuza thăm chính thức
Việt Nam.
Tháng 5/2007: Tổng thống Mozambique bổ nhiệm ông Lê Thiết Thảo làm
Lãnh sự Danh dự của Mozambique tại Hà Nội.
Tháng 4/2008: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm chính thức Mozambique. Tháng 3,
tháng 4/2009, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Phát triển Mozambique và Chủ tịch Phân
ban Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam Mozambique dẫn đầu đoàn Chính phủ
Mozambique tham dự kỳ họp 1 tại Hà Nội. Cuộc họp thông qua Biên bản Kỳ họp 1
của Ủy ban Liên Chính phủ.
Tháng 6/2009: Chính phủ Việt Nam phê duyệt Biên bản Kỳ họp 1 Ủy ban Liên Chính
phủ trên 15 lĩnh vực: chính trị ngoại giao, kinh tế thương mại đầu tư, nông nghiệp,
thủy sản, khoa học công nghệ, y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá, du lịch và thể thao, an
ninh, quốc phòng, tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, hợp tác địa phương.
Tháng 7/2009: Đoàn đại biểu nước ta do đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban Bí thư thăm Mozambique theo lời mời của Đảng
FRELIMO. Trong cuộc viếng thăm này hai bên có đề cập đến vấn đề hợp tác hai
bên trong lĩnh vực viễn thông.
Việt Nam – Mozambique đã ký kết rất nhiều các văn bản, Hiệp định như: Hiệp
định thương mại (tháng 11/2003), hiệp định Khung về hợp tác kinh tế, văn hóa,
khoa học và công nghệ (tháng 11/2003), nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao
(tháng 11/2003), hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa hai nước (tháng
12 Nguồn : />

1/2007), Hiệp định về hợp tác phát triển khoa học nông nghiệp (tháng 1/2007), Hiệp
định về hợp tác giáo dục, văn hóa (tháng 1/2007), Hiệp định về hợp tác y tế (tháng
1/2007), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và chống gian lận thuế (tháng 9/2010)
Về trao đổi thương mại: Cho đến nay kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước
đã có những bước phát triển mới nhưng còn chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi
nước.
Năm 2007, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Mozambiue đạt hơn

11,08 triệu đôla Mỹ, chủ yếu là các mặt hàng: gạo (9,37 triệu đôla Mỹ), sản phẩm dệt
may (1,2 triệu đôla Mỹ).
Việt Nam nhập khẩu từ Mozambique chưa nhiều, đạt khoảng 6,31 triệu đôla Mỹ
(năm 2007). Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nâm là gỗ và sản phẩm gỗ (2,7
triệu đôla Mỹ), sắt thép phế liệu (1,7 triệu đôla Mỹ), bông các loại (1,6 triệu đôla Mỹ).
Như vậy chính trị Mozambique khá ổn định, quan hệ hợp tác giữa hai nước rất tốt
đẹp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy đầu tư hai nước nói chung và cho doanh
nghiệp Viettel nói riêng.
1.3.2. Luật pháp
Hiện nay các quy định chung về thương mại của Mozambique rất thông thoáng.
Các ngành nghề đều được tự do hoá, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ. Các ngân hàng
và các công ty bảo hiểm cũng tư nhân hoá với sự tham gia của nước ngoài. Nhà nước
Mozambique cung đang rất nỗ lực tư nhân hoá trong lĩnh vực viễn thông và giao thông
nhằm giảm giá sản phẩm trong các ngành này.
Về nhập khẩu thì sau cải cách chính sách thương mại năm 2001, chính phủ
Mozambique đã nỗ lực giảm thuế tối đa để cải thiện đầu tư. Sự cải cách này đã đem lại
sự tăng trưởng kinh tế bình quân 8,7% trong suốt giai đoạn 2001-2007, chính do tăng
FDI và những khoản viện trợ từ nước ngoài
Thủ tục hải quan được đơn giản hoá, thuế nhập khẩu trong phạm vi 0 – 30%, thuế
nhập khẩu bình quân là 13.8%, là một trong những nước có thuế nhập khẩu thấp
nhất trong khu vực Nam Phi. Thuế giá trị gia tăng là 17%, thuế môn bài (excise)
được đánh vào xe máy, các hàng hoá xa xỉ, bia rượu và thuốc lá. Cũng giống như
các nước khác, Mozambique cũng đánh thuế vào các sản phẩm nông nghiệp (tối đa là
100%). Những sản phẩm không phải là nông nghiệp chịu mức thuế là 5% - 15%.
Về xuất khẩu, chính phủ mong muốn khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt là các sản
phẩm nông nghiệp và hải sản. Thiết lập chính sách kiểm soát hối đoái
Về luật đầu tư, hình thức hợp tác nước ngoài bao gồm:
-Thành lập chi nhánh của pháp nhân nước ngoài tại Mozambique;



- Thành lập Công ty một thành viên;
-Thành lập Liên doanh với (các) nhà đầu tư trong nước dưới hình thức tương tự Công
ty TNHH (Sociedades por Quotas de Responsabilidade Limitada - LDA), Công ty Cổ
phần (Sociedades Anónimas de Responsabilidade Limitada - SA) hoặc Công ty hợp
danh (cooperative association);
-Hợp tác với (các) nhà đầu tư trong nước theo hình thức liên danh

-

membership association (tương tự hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh tại Việt
Nam).
Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài: Luật pháp về đầu tư của
Mozambique không hạn chế tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong liên
doanh. Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý là công ty liên doanh thành lập tại
Mozambique có tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài lớn hơn 50% sẽ được coi là
công ty nước ngoài. Trong trường hợp đó, công ty sẽ phải mở thêm văn phòng đại
diện tại Mozambique (bắt buộc đối với các công ty nước ngoài có hoạt động kinh
doanh hơn 1 năm tại Mozambique).
Thủ tục xin cấp phép đầu tư tại Mozambique cũng khá phức tạp nhưng chính
phủ cũng đang nghiên cứu để đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho nhà đầu tư, khuyến khích đầu tư nước ngoài


Thủ tục cấp phép đầu tư giảm từ 14 giai đoạn xuống 9 giai đoạn, thời gian cấp giấy
phép là 13 ngày và các yếu tố tạo điều kiện trong kinh doanh đứng thứ 70 (Theo xếp
hạng của tổ chức – theo Doing business report year so với các nước khác trong khu
vực (Boswana 90, Tanzania 123, Angola 167, Zambia 69 )
Luật Viễn thông Mozambique khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực viễn thông,
cho phép tự do hóa, cạnh tranh trong dịch vụ di động, cho phép tư nhân hóa viễn
thông. Nhà nước Mozambique đang tích cự cải cách mở rộng ngành viễn thông.

Luật thuế thu nhập Doanh nghiệp Mozambique tương đương với các nước trong
khu vực là 32%. Hiện giữa Việt Nam và Mozambique chưa có Hiệp định tránh
đánh thuế 2 lần. Thuế giá trị gia tăng: 17%. Thuế chuyển lợi nhuận về nước:
1,5% lợi nhuận thu được.So với Việt Nam mức thuế thu nhập doanh nghiệp được đánh
giá là cao hơn vì tại Việt Nam mức thuế ở trong khoảng 20-22%.Tuy nhiên ở
Mozambique doanh nghiệp không phải chịu phí hải quan,phí đường bộ,phí xăng cộ…
Thuế bất động sản rất thấp (0,1-1%)13
Về ưu đãi thuế thì đối với các dự án trọng yếu, mục đích xây dựng hạ tầng quốc
gia (trong đó có viễn thông) : Giảm 80% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm đầu,
60% từ năm thứ 6 đến năm thứ 10 và 25% từ năm thứ 11 đến năm thứ 15. Đồng thời
đối với các dự án có vốn đầu tư lớn hơn 12.500.000 tỷ Meticais (tương đương với 417
triệu đôla Mỹ) thì nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu (5%) và một số ưu đãi về thuế
khác trong 5 năm đầu.
Có thể nói luật pháp Mozambique khá thông thoáng cho nhà đầu tư, đây là
thuận lợi rất lớn cho viettel khi đầu tư vào Mozambique.

Luật đầu tư ở Mozambique
Luật Mozambique về đầu tư, số 3/93, ngày 24 tháng sáu năm 1993, và các quy định
liên quan của nó chi phối đầu tư trong nước và nước ngoài. Sửa đổi trước đó, từ năm
1993 đến năm 1995, gần đây đã được thay thế bằng Nghị định số 43/2009 vào tháng
Tám năm 2009, trong đó cung cấp các quy định mới của Luật Đầu tư :
- Trung tâm xúc tiến đầu tư ( CPI – Investment Promotion Center) hỗ trợ cả đầu tư
trong nước và nước ngoài trong việc có được giấy phép. Tuy nhiên, nói chung, các nhà
đầu tư lớn nhận được hỗ trợ nhiều hơn từ các chính phủ trong quá trình đăng ký kinh
doanh hơn so với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Cơ quan chính phủ phải chấp thuận tất cả
các hoạt động đầu tư nước ngoài và trong nước đòi hỏi ưu đãi theo quy định của Luật
Đầu tư. ( Theo Các quy định của Bộ luật Lợi ích tài chính được quy định tại Nghị định
số 56/2009 đã được phê duyệt trong tháng 10 năm 2009 )
13 Nguồn: />


Chính sách quản lý ngoại hối
Đầu tư (FDI) vào Mozambique phải được đăng ký với Ngân hàng Trung ương trong
vòng 90 ngày để cho phép việc kiểm định ngoại hối. Cá nhân tư nhân được giới hạn tối
đa là $ 5,000 cho mỗi giao dịch ngoại hối và nếu lớn hơn 5000$ phải nhận được sự chấp
thuận của Ngân hàng Trung ương. Các thủ tục hành chính cần thiết cho việc hồi hương
vốn, lợi nhuận và cổ tức, tất cả đều nhất thiết phải là giao dịch ngoại hối, có thể mất một
số lượng đáng kể thời gian và đòi hỏi sự phối hợp với Bộ Tài chính để có được giải
phóng mặt bằng thuế. Các nhà đầu tư nên tìm hiểu kỹ luật đầu tư tại Mozambique trong
quá trình đàm phán với Chính phủ Mozambique để tránh bất kỳ vấn đề phát sinh tranh
cãi nào

Những quy định hoạt động và ưu đãi
Mozambique nói chung tuân thủ với các quy định đầu tư của tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) , Các nghĩa vụ của Tổ chức Thương mại Thế giới (TRIMs). Bộ luật Lợi ích
tài chính được cấu trúc thành hai phần: động cơ nói chung và ưu đãi cụ thể.

Bộ luật của lợi ích tài chính
Bộ luật này có chứa một số ưu đãi cụ thể được cấp cho các đối tượng có ý định đầu tư
vào các khu vực địa lý nhất định trong Mozambique có tiềm năng tài nguyên thiên
nhiên , nhưng mà thiếu cơ sở hạ tầng và có mức độ thấp của hoạt động kinh tế. Đối với
mục đích này các Khu Phát triển nhanh (Rapid Development Zones -RDZ) chế độ đã
được tạo ra, bao gồm các thung lũng sông Zone Zambeze, tỉnh Niassa, Quận Nacala,
Đảo Moçambique, Đảo Ibo và các khu vực khác đã được phê duyệt của Chính phủ. Đầu
tư vào các khu vực này được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhất định, và được
cấp một khoản tín dụng thuế đầu tư bằng 20% tổng đầu tư (với quyền thực hiện chuyển
tiếp trong 5năm). Ưu đãi thêm dành cho đào tạo chuyên nghiệp và trong xây dựng và
cải tạo cơ sở hạ tầng công cộng, bao gồm nhưng không giới hạn ở các tuyến đường bộ,
đường sắt, nước, trường học và bệnh viện.
1.4.


Môi trường văn hóa-xã hội
Người dân Mozambique chủ yếu thích màu xanh và trắng, họ thích nhảy và âm

nhạc, 23,8% dân số theo Thiên chúa giáo, đạo Hồi (17,8%), còn lại là các tôn giáo
khác hoặc không theo tôn giáo.
Giáo dục Nền giáo dục của Mozambique còn gặp nhiều khó khăn do tình
hình đất nước bất ổn; đói nghèo; tình trạng thiếu trường lớp, giáo viên... Tỷ lệ biết chữ
của người lớn là 56%, và tuổi thọ trung bình khi sinh chỉ là 50,3 năm. Mozambique
phải đối mặt với những thách thức khác như tăng suy dinh dưỡng .. Sốt rét vẫn là
nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong, chịu trách nhiệm cho 35% tỷ lệ tử vong trẻ em
và 29% cho người dân nói chung. Tỷ lệ nhiễm HIV ở người trưởng thành cho thấy một
xu hướng giảm, ổn định ở một tỷ lệ tương đối cao 11,5%.
Các chỉ số tiến bộ xã hội để tiếp cận cải thiện nguồn nước và vệ sinh đứng
Mozambique thứ 128 và 119, tương ứng, trong số 135 quốc gia. Thật vậy, Mozambique


có một trong những mức thấp nhất của tiêu thụ nước trên thế giới. Như một phản ứng
với những thách thức như vậy, các cơ quan chức Mozambique đã xem xét các lĩnh vực
xã hội là những ưu tiên hàng đầu và kinh phí đã được gia tăng đối với những ngành nói
chung. Tỉ lệ cấp điện thấp đứng thứ 172 và kém nhất trong khu vực :


Như vậy nhìn chung đời sống xã hội, nhận thức và hiểu xã hội của người dân
Mozambiquecòn thấp. Nhưng có thể nói ở Mozambique xã hội thanh bình, con người
thân thiện. Đây vừa là những khó khăn cho Viettel đầu tư vào thị trường này đồng thời
đây cũng là những cơ hội kinh doanh cho Viettel vì đây là một thị trường tiềm năng.Tỉ
lệ cấp tín dụng thấp cũng là 1 trở ngại không hề nhỏ khi Viettel quyết định đầu tư vào
Mozambique.(Đứng thứ 150 về xếp hạng cấp tín dụng do ngân hàng ở đây còn chưa
phát triển)14


14 Nguồn: />dered/PDF/654280Mozambiq0BOX0365766B00PUBLIC0.pdf


1.5.

Môi trường khoa học, công nghệ
Hiện tại môi trường công nghệ viễn thông Momzambique còn thấp, chưa có

nhiều công nghệ mới, các công nghệ hiện có trên thị trường là rất phổ biến. Hầu hết
các nhà mạng đều sử dụng công nghệ GSM.n (900/1800).
Có thể thấy rằng, Mozambique sẽ là một thị trường tiềm năng nếu Viettel tạo ra
được những thay đổi trong môi trường công nghệ. Đồng thời sự ra đời của công nghệ
mới xuất hiện những người mới gia nhập ngành, làm tăng thêm áp lực cạnh tranh.
1.6.

Môi trường Viễn thông
Các chính sách của Nhà nước đối với ngành Viễn thông đang dần được thông

thoáng hơn nhằm cải cách mở rộng ngành viễn thông, khuyến khích các nhà đầu tư tư
nhân, khuyến khích đầu tư vào viễn thông để tạo tính cạnh tranh trong môi
trường viễn thông và lợi ích cho khách hàng
Cơ quan quản lý viễn thông hiện tại là Policy Maker (Bộ Giao thông và Truyền
thông) với nhiệm vụ lập chính sách và xác định chiến lược phát triển viễn thông và
Regulatory (Viện Quản lý Truyền thông Quốc gia) chịu trách nhiệm cấp, quản lý giấy
phép, tần số; Kiểm soát giá và dịch vụ; Chứng nhận thiết bị.


Các quy định trong lĩnh vực di động hiện nay có quy định về giá cước
(Không có quy định về mức sàn của giá cước) và quy định về kết nối mạng được áp
dụng chung cho 2 nhà mạng MCel và Vodacom là 2,59 meticais (tương đương với

8,7 cents). Cước kết nối này là rất cao so với Việt Nam (1 cent) và Campuchia (4,65
cents) nên sẽ làm cho chi phí cước kết nối trong 2-3 năm đầu rất cao khi lúc này
Viettel chưa có nhiều thuê bao.
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp thông tin thị trường viễn thông Mozambique (2009)

Nội dung

Di động

Cố định

Internet

Tổng thuê bao

5.970.781

82.240

57.300

Mật độ/100 dân

29,1

0,43

Số nhà cung cấp

02


01

Tên nhà cung cấp

MCel và Vodacom TDM

2,68
(Broadband:0,05%)
21

(Nguồn: Tổng hợp từ Hồ sơ mời thầu của INCM, ITU)
Nhìn chung cơ sở hạ tầng viễn thông: còn nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu sử
dụng truyền dẫn vệ tinh và viba.
Cáp biển: EASSY, tổng chiều dài 17.000 km, cho phép các quốc gia Nam
Phi, Mozambique, Tanzania, Kenya, Djibouti and Egypt kết nối Internet được với
Châu Âu và Ấn Độ với tốc độ cao (1,28 Tbps of capacity). Hệ thống cáp biển này do
Công ty SeaCom cùng với đối tác cung cấp là Tyco Telecommunication triển khai.
Việc triển khai đã được hoàn thành từ tháng 7/2009 và đến nay truy cập Internet với
tốc độ cao tại các quốc gia Châu Phi trên là hoàn toàn khả thi.
Cáp quang: TDM có mạng lưới cáp quang lớn nhất Mozambique, đã thực
hiện được 2.970 km cáp quang dọc đường quốc lộ Mozambique. Dự tính sẽ triển khai
thêm để đạt được 5.500 km trong năm 2012. Hiện nay, cáp quang trục
(backbone) đã nối miền Trung tới các tỉnh rồi lan ra các vùng: Maputo – Inchope,
Mutarana – Curue, Lichinga – Pemba, Nampula – Angoche, Chimoio – Beira,


Maputo – Swaziland. Ngoài ra hệ thống cáp này còn nối với các nước: Zimbabwe,
Nam Phi, Malawi, Swaziland. Tuy nhiên, thực tế là cáp quang của TDM thường xuyên
bị đứt (đứt 3 lần trong vòng 4 tháng đầu năm 2010).

Hiện nay trên thị trường Mozambique mới chỉ có 3 nhà các cung cấp dịch vụ
điện thoại cố định và di động là TDM, MCel và Vodacom.
TDM là công ty nhà nước độc lập, chính phủ sở hữu 80% cổ phần, 20% cổ phần
còn lại là của nhân viên TDM. TDM có tổng số thuê bao điện thoại cố định là
78.000 chiếm 100% (độc quyền) thị phần.
Mcel là liên doanh của TDM với Deutsche Telekom AG (DETECON), trong đó
TDM nắm giữ 76% cổ phần còn DETECON thì giữ 24% cổ phần. Mcel có tống số
thuê bao di động là 4.004.258, chiếm 71.02 % thị phần với tốc độ tăng trưởng thuê
bao đạt 21,54%. Mcel sử dụng công nghệ GSM 900/1800/2100 (GSM 900: 7.8
Mhz, GSM 1800: 7.8 Mhz), sử dụng truyền dẫn trục quang của TDM. Mcel cũng đã
được cấp giấy phép 3G.
Phủ sóng của Mcel:

Vodacom hiện tại có tổng số thuê bao di động là 1.634.000 chiếm 28,98 % thị
phần với tốc độ tăng trưởng thuê bao 27,46%, Giá cước 20 cents/phút (cao hơn ở Việt
Nam). Công nghệ Vodacom sử dụng là GSM 900/1800/2100 (GSM 900: 7,8
Mhz, GSM 1800: 7,8 Mhz). Cơ sở hạ tầng và công nghệ tại thời điểm hiện tại có
500 trạm BTS, 7 trạm quản lý cơ sở (BSC), 3 trung tâm chuyển mạch gốc (MSCmobile switching centre).Vùng phủ sóng đạt 32% dân số. Hiện nay, Vodacom vẫn


đang xúc tiến nâng cấp và mở rộng vùng phủ sóng. Về sản phẩm và dịch vụ gồm có di
động (trả trước chiếm 97,3% tổng số khách hàng, trả sau 2,7%) và điện thoại công
cộng .
Năm 2006, Vodacom là công ty đầu tiên cung cấp dịch vụ GPRS
Vodacom có 77 đại lý trên toàn quốc và phân phối 70% thẻ nạp tiền điện tử bằng cách
sử dụng hệ thống riêng .
1.7.

Đánh giá chung về thị trường Mozambique
Từ những thông tin viễn thông trên ta có thể thấy Mozambique là thị trường


đang phát triển và có tiềm năng với Viettel. Giá 1 phút gọi cao (khoảng 20 cents) tuy
nhiên ARPU chỉ đạt tương đương 4,32 USD do lưu lượng gọi thấp vì giá cao và tỷ lệ
dân số có thu nhập cao cũng ít. Nếu Viettel có thể xâm nhập thị trường với mức giá
hợp lý hơn thì có thể sẽ chiếm được thị phần nhanh.
Chính phủ khuyến khích đầu tư viễn thông, tư nhân hoá công ty nhà nước
viễn thông từ năm 2001. Chính vì vậy đây là cơ hội để Viettel bước chân vào thị
trường. Mozambique có quan hệ tốt với chính phủ Việt Nam, từ khi thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam năm 1975, đã có rất nhiều cuộc viếng thăm ngoại giao của
các vị lãnh đạo cấp cao của hai nước. Từ 2007, hai bên đã ký kết các hiệp định hợp tác
giữa hai nước trên các lĩnh vực. Hơn nữa, 5/2007, Tổng thống Mozambique đã bổ
nhiệm ông Lê Thiết Thảo làm lãnh sự danh dự của Mozambique tại Hà Nội, việc này
giúp cho việc trao đổi thông tin, hợp tác giữa hai nước được dễ dàng. Thuận lợi
hơn nữa là đại sứ quán ở Việt Nam đã hoạt động lại tháng 5/2009. Đặc biệt là Đảng
Cộng Sản Việt nam và Đảng FRELIMO có mối quan hệ rất tốt đẹp. Do chính phủ
Mozambique có quyền quyết định việc đầu tư vào viễn thông tại Mozambique,
do vậy mối quan hệ tốt đẹp giữa hai chính phủ là một lợi thế. Tháng
6/2009, Chính phủ Mozambique chấp thuận ông Đặng Giang làm Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền nước ta tại Mozambique. Đây là đại sứ thường trú thứ 5 của Việt Nam tại
nước Châu Phi này. Ngày 12/7 Ủy viên Bộ Chính trị đã dẫn đầu đoàn sang thăm và
làm việc với Đảng cầm quyền Mozambique, trong đó có bàn về cơ hội hợp tác viễn
thông giữa hai quốc gia.
Hiện tại chỉ có 2 nhà cung cấp đang cung cấp dịch vụ di động là Mcel (Mcel là
công ty 100% của nhà nước) và Vodacom (Vodacom là công ty nước ngoài, công


ty mẹ là Vodacom Châu Phi). Chính phủ đã có ý định tư nhân hóa Mcel từ cuối năm
2008 và đang hoàn thành các thủ tục để bán 5% cổ phần của Mcel cho các nhà đầu tư
Mozambique. Kế hoạch tiếp theo của chính phủ Mozambique là tư nhân hóa Mcel
bằng cách bán cổ phần Mcel cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, nhà đầu tư nước

ngoài cũng có cơ hội mua cổ phần và có thể trở thành liên doanh với Mcel. Tần số
GSM 900 còn 9.4 Mhz, tần số GSM 1800/2100 còn đủ cho 4-5 nhà cung cấp và chính
phủ còn cấp phép cho nhà cung cấp dịch vụ di động thứ 3.
Luật đầu tư tạo điều kiện đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài như là cho phép
mang lợi nhuận về nước và cho phép vay vốn từ nước ngoài. Điều kiện này là rất
thuận lợi so sánh với các thị trường mà chúng ta đã đầu tư như là Lào và
Campuchia. Ngoài ra chính phủ cũng có những ưu đãi cho các nhà đầu tư nước
ngoài như là giảm thuế tùy theo địa điểm, giá trị đầu tư. Miễn phí thuế hải quan cho
thiết bị nhập khẩu theo dự án. Ngoài ra chính phủ còn đảm bảo quyền sở hữu tài sản
đầu tư.Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó cũng còn có một vài trở ngại lớn cho
Viettel khi thâm nhập thị trường này như:
Giao thông vận tải gặp khó khăn do cơ sở hạ tầng kém, đường sá bị tàn phá bởi
nội chiến kéo dài 16 năm (1975-1992), số km đường được trải nhựa là rất ít. Hơn
nữa, thủ tục xuất nhập khẩu và hải quan rất rườm rà, mất thời gian và có tham nhũng
nên cũng là một vấn đề lớn đối với các nhà đầu tư. Vodacom cũng công nhận Logistics
thực sự là vấn đề lớn của họ khi đầu tư vào Mozambique
Thuế thu nhập doanh nghiệp tương đối cao (32%)
Thủ tục kinh doanh rườm rà, phức tạp, việc đăng ký kinh doanh trong thực tế
thường lâu hơn mức dự kiến và có tham nhũng.
Bảo vệ bản quyền kém, tình trạng sao chép tràn lan.
Phần lớn lực lượng lao động kỹ năng kém đặc biệt là lao động kỹ thuật, do vậy
nếu đầu tư vào Mozambique thì Viettel nên đào tạo đội ngũ kỹ thuật và năng lực tốt
để đưa sang. Tuy nhiên, việc này cũng rất là tốn kém và mất thời gian
Chưa có luật về giá cước và cạnh tranh rõ ràng. INCM (cơ quan quản lý viễn
thông) có quyền quyết định giá cước điện thoại. Ví dụ 10/2007, INCM cho phép 2 nhà
cung cấp dịch vụ di động nâng giá cước lên 12,4%. Năm 2002, trước khi đấu


thầu cho giấy phép di động thứ 2, INCM đã cho phép Mcel nâng giá cước di động lên
gấp đôi.

2.

Phân tích các nguồn lực của Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

2.1.

Nguồn lực công nghệ
Khi tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường viễn thông, Viettel đã lựa chọn

cho mình chiến lược công nghệ là sử dụng công nghệ GSM là công nghệ đang phổ
biến trên thế giới. Sự lựa chọn sáng xuốt của Viettel về công nghệ được thể hiện : Khi
Viettel tham gia thị trường, trên thế giới hiện có công nghệ CDMA đang được tin
tưởng là công nghệ hiện đại, tiên tiến vao thời điểm đó, công nghệ CDMA đang chiếm
xấp xỉ 15% thị phần của thế giới, khi đó CDMA là một giải thuật bao gồm 2 giải thuật
ghép lại là FDMA và TDMA nên đương nhiên là tần số sử dụng hiệu quả hơn, số
người truy cập vào cùng thời điểm nhiều hơn, sự cố nghẽn mạng cũng được giảm
thiểu. Cùng thời điểm đó, công nghệ GSM được đánh giá là công nghệ chậm chạp
(9kbps) nhưng với tính mở và tính tiêu chuẩn hoá cao nên nó dễ dàng triển khai
trên mọi quốc gia, dễ dàng tương thích với rất nhiều nhà cung cấp thiết bị tổng đài cho
đến điện thoại. Do đó đến ngày nay GSM trở thành công nghệ được các nhà cung cấp
trên thế giới lựa chọn. Từ đó cho thấy Viettel có tầm nhìn chiến lược về công nghệ rất
đứng đắn.
Ngày nay với sự phát triển của công nghệ đã dẫn một xu hướng tất yếu trong
lĩnh vực viễn thông, đó là xu hướng hội tụ. Nếu như trước kia các dịch vụ viễn
thông như thoại, số liệu, Internet…được phát triển và cung cấp dựa trên hạ tầng mạng
riêng lẻ, tách biệt nhau thì nay công nghệ mới đã cho phép cung cấp nhiều dịch vụ
khác nhau trên cùng một hạ tầng mạng. Các thiết bị đầu cuối cũng ngày càng mạnh
hơn để tiếp nhận đồng thời các tín hiệu thoại, Internet, truyền hình. Nắm bắt được
những thay đổi đó Viettel đang không ngừng nghiên cứu, đầu tư để cho ra những sản
phẩm công nghệ tiên tiến nhất.

Không chỉ quan tâm tới phát triển công nghệ cung cấp dịch vụ di động mà công
ty còn chú ý tới việc nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp tới khách hàng, do vậy
ngay từ ban đầu công ty đã hạ quyết tâm phủ sóng 64/64 tỉnh thành, có như vậy mới
nâng cao chất lượng mạng phục vụ khách hàng và mới có thể thu hút khách hàng tham
gia sử dụng mạng. Ngay từ ban đầu, ban lãnh đạo của Viettel đã phải bỏ


ra gần 1 triệu USD năm 2003 để thuê tư vấn và nhiều kỹ sư của Viettel đã ngày đêm
quản lý, giám sát, tìm tòi, học hỏi cùng các chuyên gia về công nghệ nước ngoài để tự
triển khai lắp đặt hệ thống tổng đài, mạng lưới, trạm thu phát sóng trên toàn quốc.
Tiếp ngay sau đó, Viettel không ngừng đầu tư cho việc xây dựng các tổng đài, các trạm
thu phát song (BTS) không ngừng được tăng lên theo thời gian và nhanh chóng phủ
sóng toàn quốc, nâng cao chất lượng phục vụ của mạng Viettel.
Với hệ thống cơ sở hạ tầng mạng vững mạnh cùng với quá trình đầu tư liên tục
cho cơ sở hạ tầng, hiện nay Viettel là nhà cung cấp dịch vụ với cơ sở hạ tầng và chất
lượng phủ sóng mạnh nhất cả nước.
2.2.

Nguồn lực nhân sự
Con người là yếu tố cốt lõi thành công của bất kỳ tổ chức nào, Viettel luôn ý

thức được rằng có một tổ chức mạnh thì sẽ có tất cả. Do đó thống nhất và đoàn kết nội
bộ luôn là yêu cầu đặt ra đối với các thành viên của Viettel. Các tổ chức Đảng, chính
quyền và tổ chức quần chúng không ngừng được kiện toàn củng cố nhằm phát huy dân
chủ. Đội ngũ cán bộ công nhân viên được chăm lo đào tạo, bồi dưỡng trưởng thành,
thực sự là nguồn lực to lớn góp phần quan trọng vào quá trình phát triển trước mắt
cũng như lâu dài.
Viettel nhận thức sâu sắc rằng sức mạnh của doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường hiện nay nằm ở nhân tố con người, chính vì vậy việc khơi dậy và khai thác
nguồn lực con người được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, được ưu tiên cao nhất.

Viettel luôn lựa chọn chiến lược nguồn nhân lực cho mình là đặt con người vào
vị trí trung tâm, coi doanh nghiệp là phương tiện để con người phát huy tài năng
sáng tạo, tin tưởng cộng sự, xây dựng đội hình làm việc có hiệu quả. Theo đó, Viettel
đã tập trung mọi nguồn lực để tạo ra môi trường thuận lợi cho các cán bộ quản lý phát
huy năng lực, công nhân viên có đầy đủ việc làm, phát hiện và sử dụng các cán bộ trẻ
có năng lực, tạo điều kiện để các cán bộ phát huy năng lực của mình, đầu tư mạnh mẽ
cho đào tạo để trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng cho từng thành viên trong đó đặc
biệt quan tâm đến người đứng đâu và đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Viettel luôn đưa ra các phong trào thi đua thiết thực, văn hoá, văn nghệ, thể dục
thể thao sôi nổi, được duy trì và phát triển mạnh mẽ, tạo cơ hội bình đẳng để


×