Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Phát triển cộng đồng trong giảm nghèo đối với người dân tộc thiểu số từ thực tiễn 2 xã la ngâu và măng tố, huyện tánh linh, tỉnh bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.74 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ NGỌC THỦY

PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG TRONG GIẢM NGHÈO
ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN
2 XÃ LA NGÂU VÀ MĂNG TỐ, HUYỆN TÁNH LINH,
TỈNH BÌNH THUẬN

Chuyên ngành : CÔNG TÁC XÃ HỘI
Mã số
: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI, 2016
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả những số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài
luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội về "Phát triển cộng đồng trong giảm nghèo đối với
người dân tộc thiểu số từ thực tiễn 2 xã La Ngâu và Măng Tố, huyện Tánh Linh,
tỉnh Bình Thuận" là hoàn toàn trung thực và không trùng lắp với bất kỳ đề tài nào
khác trong cùng lĩnh vực nghiên cứu.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn



Đỗ Thị Ngọc Thủy

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH
DTTS
MTQG
PTCĐ
UNDP

Công tác xã hội
Dân tộc thiểu số
Mục tiêu quốc qua
Phát triển cộng đồng
Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam

3


MỞ DẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với những thành tựu to lớn về phát triển kinh
tế-xã hội, nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó vấn đề
nghèo đói luôn được quan tâm hàng đầu. Tăng trưởng kinh tế một mặt đã góp phần
cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, dẫn tới hình thành những cộng đồng dân cư có
thu nhập cao, đời sống được bảo đảm bởi hệ thống cơ sở vật chất và hạ tầng, các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục tương đối khá. Người dân tại các cộng

đồng này có nhiều cơ hội phát triển, được phát huy khả năng và được bảo vệ thông
qua mạng lưới an sinh xã hội an toàn, bền vững. Tuy nhiên, sự phân hóa ngay trong
quá trình phát triển cũng làm xuất hiện những cộng đồng dân cư nghèo, các nhóm
yếu thế tại vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cùng một
bộ phận dân cư ngay trong lòng các đô thị phát triển. Cộng đồng nghèo thường gắn
liền với các đặc điểm: Cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội thiếu hoặc yếu kém; kinh tế
không phát triển; nhu cầu cơ bản của người dân chưa được đáp ứng đầy đủ; thiếu cơ
hội tiếp cận khoa học – kỹ thuật, tâm lý thiếu tự tin hoặc trông chờ, ỷ lại vào Nhà
nước và không được tham gia vào các quá trình ra quyết định.
Chính vì vậy, việc giúp đỡ, phát triển các cộng đồng nghèo là hết sức cần
thiết và việc lựa chọn các phương pháp phù hợp để phát triển cộng đồng có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn to lớn.
Phát triển cộng đồng là một phương pháp của công tác xã hội được xây dựng
trên những nguyên lý, nguyên tắc và giả định của nhiều ngành khoa học xã hội khác
như: Tâm lý xã hội, xã hội học, chính trị học, nhân chủng học…, được áp dụng ở
nhiều nước và đã phát huy vai trò trong việc giải quyết các vấn đề của các nhóm
cộng đồng nghèo, các nhóm yếu thế trong thời gian qua. Đó là phương pháp giải
quyết một số vấn đề khó khăn, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng tới sự phát
triển không ngừng về đời sống vật chất và tinh thần của người dân thông qua việc
nâng cao năng lực, tăng cường sự tham gia, đoàn kết, phối hợp chặt chẽ giữa người

4


dân với nhau, giữa người dân với các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau trong
phạm vi một cộng đồng.
Tánh Linh là một huyện miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao nằm ở phía Tây Nam
của tỉnh Bình Thuận. Hiện nay, dân số huyện Tánh Linh là 104.510 người, trong đó
đồng bào dân tộc thiểu số 3.378 hộ/15.282 khẩu, chiếm tỷ lệ khoảng 14,6% dân số
toàn huyện. La Ngâu và Măng Tố là 02 trong 14 xã, thị trấn của huyện Tánh Linh,

với tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số cao. Nhân dân sản xuất nông nghiệp, làm
nương rẫy là chủ yếu. Tuy nhiên, do tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số cao, trình độ dân trí
thấp, đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới công tác xóa đói
giảm nghèo cho người dân huyện Tánh Linh nói chung và các hộ đồng bào dân tộc
thiểu số nói riêng bằng nhiều hình thức như: đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, dự án
hỗ trợ phát triển sản xuất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các công trình
thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống. Cấp ủy Đảng, chính quyền của huyện luôn
quan tâm chỉ đạo sát sao các ngành liên quan thường xuyên theo dõi, kiểm tra đôn
đốc và giám sát quá trình thực hiện; đồng thời chính sự phấn đấu vươn lên của bà
con ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện đã đem lại cuộc sống ấm
no cho đồng bào. Tuy nhiên, trình độ dân trí của người dân tộc thiểu số còn thấp,
việc thực hiện các chính sách giảm nghèo mang tính bảo trợ xã hội là chủ yếu, chưa
kêu gọi được sự tham gia nhiệt tình của người dân.
Vậy việc ứng dụng phương pháp phát triển cộng đồng trong giảm nghèo
được triển khai thực hiện như thế nào và vai trò của phát triển cộng đồng trong
giảm nghèo đối với người đồng bào dân tộc thiểu số tại xã La Ngâu và Măng Tố,
huyện Tánh Linh đó chính là lý do khiến tôi lựa chọn đề tài “Phát triển cộng đồng
trong giảm nghèo đối với người dân tộc thiểu số từ thực tiễn 2 xã La Ngâu và
Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận” để nghiên cứu và tìm hiểu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Trong thời gian qua đã có rất nhiều nghiên cứu về phát triển cộng đồng đối
với công tác giảm nghèo với nhiều góc độ và cách nhìn nhận khác nhau. Điển hình

5


là nghiên cứu của 2 tác giả John McKnight và Jody Kretzmann tại Viện Nghiên cứu
chính sách tại Đại học Northwestern. Trong cuốn sách đồng tác giả của họ phát

hành vào năm 1993, “Xây dựng cộng đồng từ trong ra ngoài”, họ đã phác thảo một
cách tiếp cận thay thế cho phương pháp tiếp cận dựa trên nhu cầu sử dụng bởi các
cộng đồng nghèo. Quá trình này trao quyền cho cộng đồng để tập hợp sức mạnh của
người dân vào các kết hợp mới, cấu trúc mới của cơ hội, nguồn thu nhập mới, kiểm
soát, và thấy được khả năng mới trong quá trình sản xuất [4,123].
Các chương trình phát huy nội lực của cộng đồng đã được tìm hiểu và bắt
đầu vận dụng từ năm 1993 ở Savannah, Grudia, rồi sau đó lan rộng đến Chicago,
Canada, Brazil, Ecuador, Mexico, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc, Ethiopia,
Botswana... Với sự trợ giúp của Quỹ Ford, công việc gây dựng tài sản ở một số nơi
đã giúp giảm nghèo khổ và bất công, với hàng loạt các chiến lược cải thiện điều
kiện gây dựng tài sản và trực tiếp tham gia gây dựng tài sản cho nhiều người và
nhiều cộng đồng có thu nhập thấp.
Một số trường hợp dưới đây minh hoạ được khả năng của những con người
và những tổ chức đã làm nên những khác biệt lớn trong việc tạo dựng, phân phối và
sử dụng những tài sản then chốt của cộng đồng, trong mục tiêu giảm bớt nghèo khổ
và bất công.


Trường hợp 1: Ở Braxin, là câu chuyện của vùng rừng mưa và chính

quyền bang Acre xây dựng năng lực bảo vệ và phát huy tài nguyên thiên nhiên vì sự
phát triển bền vững.


Trường hợp 2: Ở Nam Phi, là câu chuyện thiết lập liên minh giữa 10 tổ

chức cộng đồng và 20 doanh nghiệp tư nhân để hình thành nên tập đoàn liên doanh
giáo dục cùng (JET) để phục vụ những nhóm người thiệt thòi, cải thiện bức tranh về
việc làm và thay đổi căn bản hệ thống giáo dục-đào tạo của quốc gia.



Trường hợp 3: Ở Hoa Kỳ, là câu chuyện thành công về khuyến khích

được những người Mỹ có thu nhập thấp dành dụm tiền, sau đó sử dụng số tài sản tài
chính lớn dần lên ấy đề đầu tư vào cuộc sống, ở nhiều cộng đồng nông thôn và
thành thị, trong đó có Tulsa, bang Oklahoma.

6




Trường hợp 4: Ở Montana, là câu chuyện người dân tại khu bảo tồn

Blackfeet thu gom nguồn vốn cộng đồng thông qua tăng cường quan hệ giữa người
Bản địa và người không phải là bản địa qua một lễ hội văn hoá - Vũ hội mùa trăng
và Bán đấu giá nghệ thuật Anh-điêng. Kể từ năm 1993, sáng kiến này đã giúp tăng
tài sản của Quỹ cộng đồng Montana từ 4,5 triệu USD lên 35 triệu USD.


Trường hợp 5: Ở Ai cập, là câu chuyện cư dân ở những vùng đô thị với

công việc thu gom và tái chế phế liệu cho những cơ hội kinh tế mới, và cải thiện
môi trường, giải quyết việc làm, tạo thu nhập.


Trường hợp 6: Ở Ấn Độ, là câu chuyện phụ nữ đang được tăng cường

bảo vệ sức khoẻ sinh sản của mình, một trong những tài sản quan trọng nhất của họ,
để ngăn chặn bạo lực đối với phụ nữ.



Trường hợp 7: Ở Hàn Quốc, mô hình Saemaul Undong, phong trào "làng

mới" (Saemaul Undong) nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng nhất tạo động lực cho
phát triển là “phát triển tinh thần của nông dân”, lấy kích thích vật chất nhỏ và
chính sách để kích thích mạnh tinh thần và qua đó phát huy nội lực tiềm tàng to lớn
của nông dân. Tạo ra công ăn việc làm cho người lao động nông thôn, vừa kích cầu
tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp vừa xây dựng được cơ sở hạ tầng ở nông thôn
trong thời gian ngắn, giá thành hạ, tạo ra thế và lực mới cho phát triển nông nghiệp.
Thông qua các câu chuyện minh họa trên cho thấy phát triển cộng đồng có
thể được ứng dụng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau đem lại những thành công và
lợi ích khác nhau cho mỗi cộng đồng. Đó là một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực của các
thành viên cùng tham gia, cùng hợp tác để tạo ra sự thay đổi.
2.2.

Một số nghiên cứu trong nước

Một số nghiên cứu của tác giả Hoàng Anh Dũng (2013) Phát triển cộng
đồng dựa vào nguồn lực và tài sản cộng đồng, đã làm nổi bật phát triển cộng
đồng được xem như là một trong những lựa chọn các phương pháp tiếp cận dựa vào
nhu cầu để phát triển. Chìa khóa của phát triển cộng đồng dựa vào sự kết nối cộng
đồng (cá nhân, tổ chức, hội, …) chứ không phải được thúc đẩy bởi những ảnh
hưởng bên ngoài. Bên cạnh đó tác giả cũng chỉ rõ quy trình được tiến hành qua 6

7


bước. Tác giả Võ Hoàng Yến (2007), “Xây dựng nội lực của cộng đồng”, cũng đề
cập đến ảnh hưởng và vai trò của việc xây dựng nội lực của cộng đồng. Tác giả

Thúy Hằng (2014) cũng có bài viết “Xây dựng nông thôn mới bằng nội lực và tinh
thần cộng đồng” tại xã Đông Phong - Cao Phong - Hòa Bình. Tính đến tháng 8, xã
đã đạt được 12 tiêu chí xây dựng nông thôn mới dựa trên việc huy động nội lực
trong cộng đồng, đứng thứ 2 trong phong trào xây dựng nông thôn mới của huyện.
Cũng đã có nhiều chương trình tập huấn phương pháp tiếp cận dựa vào nội
lực để phát triển cộng đồng được thực hiện tại các địa phương như: Dự án Phe của
Đại học An Giang tập huấn phương pháp tiếp cận dựa vào nội lực để phát triển
cộng đồng cho sinh viên thiệt thòi trường Đại học An Giang; Trung tâm GreenViet
tập huấn phương pháp phát triển cộng đồng dựa vào nội lực và do người dân làm
chủ cho các thành viên của họ; Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Quản lý Tài
nguyên (CORENARM) được sự tài trợ của Trung tâm Trao đổi giáo dục với Việt
Nam (CEEVN) đã tổ chức thành công khóa tập huấn về Phương pháp phát triển
cộng đồng dựa vào nội lực (ABCD) cho các học viên là IFP Alumni Việt Nam.
Bên cạnh đó, đã có một số đề tài về phương pháp ABCD cụ thể đề tài phát
triển cộng đồng dựa vào nội lực cộng đồng tại khu phố Phước Thành, thành phố Đà
Lạt tỉnh Lâm Đồng của nhóm tác giả Lê Văn Nam. Đã chỉ ra được tầm quan trọng
của việc ứng dụng phương pháp này vào thực tiễn. Nhóm sinh viên Trần Lê Anh
Minh, Phan Tuấn Anh, Tìm hiểu nguyên tắc, công cụ của phương pháp tiếp cận
ABCD. Đề tài đã chỉ ra và phân tích rất kỹ các nguyên tắc, công cụ của phương
pháp tiếp cận ABCD và cách thức thực hiện các phương pháp này.
Tại 2 xã La Ngâu, Măng Tố - huyện Tánh Linh – tỉnh Bình Thuận, đã triển
khai thực hiện một số mô hình, dự án phát triển cộng đồng trong giảm nghèo như:
Chương trình 134, 135; Hỗ trợ vay vốn cho người nghèo; Xây dựng nhà tình
thương…nhưng chính quyền và địa phương chưa nhìn nhận được vai trò của phát
triển cộng đồng trong công tác giảm nghèo. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này,
người viết muốn đề cập đến thực trạng của phát triển cộng đồng tại xã La Ngâu,
Măng Tố và vai trò của phát triển cộng đồng trong giảm nghèo.

8



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng phát triển cộng đồng trong công tác

giảm nghèo đối với người dân tộc thiểu số từ thực tiễn 2 xã La Ngâu và Măng Tố,
huyện Tánh Linh, đề xuất một số ý kiến nhằm vận dụng và phát huy tối đa vai trò
của phát triển cộng đồng trong công tác giảm nghèo cũng như việc áp dụng phát
triển cộng đồng trong giảm nghèo mang tính công tác xã hội hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về phát triển cộng đồng trong công tác

giảm nghèo.

Tìm hiểu thực trạng phát triển cộng đồng trong công tác giảm nghèo
đối với người dân tộc thiểu số từ thực tiễn 2 xã La Ngâu và Măng Tố, huyện Tánh
Linh, tỉnh Bình Thuận.

Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển cộng đồng trong
công tác giảm nghèo từ thực tiễn 2 xã La Ngâu và Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh
Bình Thuận.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động phát triển cộng đồng trong công tác giảm nghèo.
4.2. Khách thể nghiên cứu


Cán bộ lãnh đạo tại xã La Ngâu, Măng Tố.




Người dân thuộc hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại xã La Ngâu, Măng Tố.

4.3. Phạm vi nghiên cứu
• Về không gian: Với tính chất là một đề tài nghiên cứu, dựa trên các mục
tiêu đưa ra chúng tôi chọn cộng đồng xã La Ngâu và Măng Tồ, huyện huyện Tánh
Linh, tỉnh Bình Thuận làm nơi áp dụng tìm hiểu.
• Về thời gian: đề tài được nghiên cứu trong giai đoạn 2011 – 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

9


5.1. Phương pháp luận
Với đề tài này chúng tôi sử dụng một số thuyết để phục vụ cho việc nghiên
cứu. Các thuyết đó là: Lý thuyết hệ thống sinh thái; Lý thuyết vai trò; Lý thuyết nhu
cầu của Abraham Maslow; Thuyết tiếp cận dựa trên thế mạnh trong trợ giúp giải
quyết vấn đề. Việc sử dụng các thuyết trên vào trong nghiên cứu nhằm giúp chúng
ta có cơ sở, hiểu sâu hơn về tâm, sinh lý, quá trình phát triển của con người cũng
như những yếu tố có thể ảnh hưởng, tác động tích cực, tiêu cực tới quá trình giảm
nghèo tại địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: Thông qua thu thập thông tin, tổng hợp tài
liệu, phân loại, xử lý số liệu, xử lý văn bản, phân tích các tài liệu có nội dung liên
quan đến đề tài nghiên cứu thông qua sách báo, tài liệu, tạp chí, internet, các thông
tin sẵn có về cộng đồng được thu thập từ các số liệu của Ủy ban nhân dân huyện,
báo cáo tổng kết hàng năm của ban lãnh đạo xã,…; các báo cáo, các văn bản pháp
luật để tìm hiểu các số liệu cụ thể phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: nghiên cứu thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu
với các cá nhân tại xã La Ngâu và Măng Tố bao gồm những người có kinh nghiệm,
lớn tuổi, những người nằm trong ban lãnh đạo, có tiếng nói, có ảnh hưởng tích cực
đến sự phát triển của xã. Chủ đề của các cuộc phỏng vấn sâu tập trung vào tìm hiểu
nhận thức của ban lãnh đạo địa phương, người dân về áp dụng phương pháp PTCĐ
trong công tác giảm nghèo.
- Phương pháp vãn gia: tới thăm trực tiếp các hộ nghèo tại xã La Ngâu, Măng
Tố để nắm bắt, thu thập những thông tin cần thiết.
- Phương pháp quan sát: Đối tượng và nội dung quan sát của đề tài là các mô
hình, dự án PTCĐ đã được triển khai thực hiện trong cộng đồng xã La Ngâu và
Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Chúng tôi sử dụng phương pháp này
trong suốt quá trình thực hiện đề tài để có cái nhìn khách quan và cụ thể nhất về vấn
đề cần nghiên cứu
6.

Ý nghĩa nghiên cứu

10


6.1. Ý nghĩa lý luận
Bổ sung cho hệ thống những kiến thức chuyên ngành về phát triển cộng
đồng trong công tác giảm nghèo nhằm góp phần tích cực vào công tác giảm nghèo
bền vững tại địa phương.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả, giải pháp trong luận văn có thể là những tài liệu, nguồn
thông tin cho những người nghiên cứu tiếp theo về tình hình tổ chức thực hiện
chính sách giảm nghèo tại huyện Tánh Linh nói riêng và các địa phương còn lại của
tỉnh Bình Thuận nói chung.
Góp phần nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động, ban

hành chính sách, nâng cao hiệu quả trong quá trình làm việc với cộng đồng tại địa
phương và có thể nhân rộng mô hình ở các địa phương khác trên địa bàn huyện, tỉnh.
Từ đề tài này, chính quyền địa phương các cấp sẽ nhìn nhận được việc lựa
chọn áp dụng một mô hình, dự án hỗ trợ cho người dân nghèo nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động các chương trình giảm nghèo.
Đề xuất một số giải pháp thiết thực đối với tỉnh Bình Thuận, Ban chỉ đạo
giảm nghèo của tỉnh trong việc tổ chức thực hiện chính sách, chương trình Mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016- 2020 của tỉnh Bình Thuận.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận văn gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phát triển cộng đồng trong giảm nghèo
đối với người dân tộc thiểu số
Chương 2. Thực trạng phát triển cộng đồng trong công tác giảm nghèo đối
với người dân tộc thiểu số tại 2 xã La Ngâu và Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh
Bình Thuận.
Chương 3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả phát triển cộng đồng trong
công tác giảm nghèo đối với người dân tộc thiểu số từ thực tiễn 2 xã La Ngâu và
Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh Bỉnh Thuận.

11


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG TRONG
GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Người dân tộc thiểu số: khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Khái niệm
- Khái niệm dân tộc: Dân tộc là tên chỉ cộng đồng người hình thành và phát
triển trong lịch sử, sau khi xã hội đã có sự phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước.

Trong xã hội nguyên thủy đã có thị tộc, Bộ lạc. Những thành viên trong thị tộc gắn bó
với nhau bằng quan hệ huyết thống. Bộ lạc bao gồm những người cùng họ và những
người khác họ, cùng sinh sống trên một địa bàn. Sản xuất phát triển thì bản thân con
người cũng phát triển theo, cùng với những đặc trưng như ngôn ngữ, văn hóa vật chất
(thể hiện trong phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt) và văn hóa tinh thần (thể
hiện thành ý thức và các hình thái ý thức). Hình thức của cộng đồng người cũng có sự
tiến hoá: từ phân tán đến tập trung, từ thấp đến cao, kết quả là hình thành nên
những tộc người và những dân tộc khác nhau như chúng ta thấy hiện nay.
Có thể quan niệm dân tộc là cộng đồng những người cùng chung một lịch sử
(lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc), nói chung một ngôn ngữ, sống chung
trên một lãnh thổ, có chung một nền văn hóa hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này là
tổng hợp các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, tiêu biểu cho
trình độ văn minh đã đạt được. Văn hóa của các dân tộc có những nét chung giống
nhau (thí dụ như đều trải qua nền văn minh nông nghiệp tiến lên nền văn minh công
nghiệp), nhưng cũng có những nét đặc thù gọi là tính cách dân tộchay bản sắc dân
tộc (các phong tục, tập quán sinh hoạt và ứng xử, các nếp tâm lý và tư duy, các ưu
thế phát triển về mặt này hay mặt khác) tạo ra tính đa dạng, vô cùng phong phú của
văn hóa nhân loại.
Về mặt xã hội, khái niệm dân tộc không phải bao giờ cũng trùng hợp với
khái niệm quốc gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị - xã hội được quản lý
bằng bộ máy nhà nước. Có quốc gia chỉ gồm một dân tộc (hiếm có, như trường hợp
Triều Tiên trước khi bị chia cắt), song phần lớn là những quốc gia nhiều dân tộc
(nhiều dân tộc nhỏ quy tụ xung quanh một dân tộc chủ yếu, thường là đông hơn và

12


phát triển hơn trong lịch sử). Cũng có tình hình là những người cùng một dân tộc
nhưng sống phân tán ở những quốc gia khác nhau. Trong lịch sử, các dân tộc hình
thành và phát triển rất không đồng đều cả về thời gian, quy mô, sức sống lẫn trình

độ phát triển. Đã có tình hình nhiều dân tộc tự phát liên kết với nhau, hoà nhập vào
nhau hoặc đồng hoá, thôn tính lẫn nhau. Xu thế lịch sử của dân tộc là cần có nhà
nước để bảo vệ lãnh thổ của mình. Ý thức về chủ quyền lãnh thổ phát triển thành ý
thức quốc gia dân tộc hay chủ nghĩa yêu nước. Bản thân nhà nước, đến lượt nó, lại
có tác động trở lại củng cố sự đoàn kết dân tộc, sự thống nhất nhiều dân tộc trong
biên giới của mình. Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền của nhà Tần ở Trung
Quốc chẳng hạn, khi ban hành những pháp luật thống nhất trong cả nước, bắt mọi
người cùng viết một kiểu chữ, cùng đi một cỡ xe (thư đồng văn, xa đồng quỹ) đã
đẩy nhanh sự cố kết của dân tộc Hán ngay từ trước Công nguyên [34].
- Khái niệm dân tộc thiểu số: Theo quy định tại Nghị định số 05/2011/NĐCP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc: “Dân tộc thiểu số là
những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
- Khái niệm Người dân tộc thiểu số: Theo quy định tại Nghị định số
05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc thì dân tộc
thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt: là những dân tộc có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn theo 3 tiêu chí:
+ Tỷ lệ hộ nghèo trong đơn vị thôn, bản chiếm trên 50% so với tỷ lệ hộ
nghèo cả nước.
+ Các chỉ số phát triển về giáo dục đào tạo, sức khỏe cộng đồng và chất
lượng dân số đạt dưới 30% so với mức trung bình chung của cả nước.
+ Cơ sở hạ tầng thiết yếu chất lượng thấp, mới đáp ứng mức tối thiểu phục
vụ đời sống dân cư.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý- xã hội và nhu cầu của người dân tộc thiểu số

13


1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý- xã hội

- Có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau trong cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm cũng như công cuộc đổi mới ngày nay.
- Thủy chung, son sắt với nhau, với Nhà nước.
- Có nền văn hóa cực kỳ đặc sắc và hấp dẫn.
- Đa số sống ở vùng miền núi (ngoại trừ người Chăm, Khơ me, Hoa).
- Có trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn lạc hậu.
- Một số đồng bào các dân tộc thiểu số có tính tự ty, mặc cảm. Một số khác
lại sống trông chờ, ỷ lại vào thiên nhiên và hỗ trợ của Nhà nước.
1.1.1.2. Nhu cầu
- Nhu cầu sinh học: Người DTTS có nhu cầu được hưởng các hỗ trợ tối thiểu
về dinh dưỡng, y tế.
- Nhu cầu an toàn: Được hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu
nhập, hỗ trợ về giáo dục và đào tạo, hỗ trợ về nhà ở.
- Nhu cầu xã hội: Họ có nhu cầu được học tập nâng cao trình độ, trao đổi
kinh nghiệm.
- Nhu cầu được tôn trọng, tiếp tục giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc.
- Nhu cầu về tự thể hiện bản thân - muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng,
thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt.
1.2. Lý luận về phát triển cộng đồng trong công tác giảm nghèo
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm nghèo và các vấn đề có liên quan
* Theo quan điểm của Thế giới
“Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế – xã hội , phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục
ấy được xã hội thừa nhận” [Hội nghị về chống đói do ủy ban kinh tế–xã hội khu vực
Châu Á –Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại BangKok, Thái Lan 9/1993].
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt


14


dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong
cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhagen (Đan
Mạch), 1995 đưa ra định nghĩa nghèo đói cụ thể hơn: “Người nghèo là tất cả những
ai mà thu nhập thấp hơn 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi
như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại” [10].
Ngoài ra Liên hiệp quốc cũng phân nghèo thành hai loại:
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống hằng ngày như ăn, mặc, nhà ở, nước uống,
vệ sinh, y tế, giáo dục và sự tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
- Nghèo tương đối: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn
thu nhập bình quân trong cộng đồng, hay không có khả năng đạt tới mức sống tối
thiểu tại một thời điểm nào đó.
* Nghèo đói theo quan điểm của Việt Nam
- Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc,
con thường thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà ở không đủ che mưa che nắng.
- Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư vẫn còn thiếu ăn, nhưng không
đứt bữa, mặc không đủ ấm, nhà ở chủ yếu là tranh tre, không có hoặc không đủ các
điều kiện để phát triển sản xuất, tăng thu nhập và đáp ứng các nhu cầu về học tập,
chữa bệnh cũng như các nhu cầu xã hội khác.
Quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia hay
từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí
chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chỉ tiêu để thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, mặc, ở, gia đình, y tế, văn hóa, đi lại và
giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi,
điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội cũng như phong tục tập

quán của từng vùng từng quốc gia.
Các quan niệm trên phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo:

15


+ Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho
con người.
+ Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
+ Thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng.
1.2.1.2. Khái niệm giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
- Giảm nghèo được hiểu là giảm tỷ lệ hộ nghèo hay giảm số hộ nghèo trên
một địa bàn, hay giảm mức độ nghèo của một cộng đồng, hoặc giảm khoảng cách
nghèo của cộng đồng dân cư. Bản chất giảm nghèo là cải thiện hay nâng cao mức
độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản và đích là hộ nghèo thoát nghèo, có nghĩa là thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản ở mức độ cao.
- Giảm nghèo bền vững là sự bảo đảm hay duy trì kết quả giảm nghèo một
cách lâu dài, bền vững hay nói cách khác giảm nghèo bền vững là tình trạng đạt
được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản/mức thu nhập cao hơn mức chuẩn và duy
trì được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản/mức thu nhập trên mức chuẩn đó ngay
cả khi gặp phải các cú sốc hay rủi ro; giảm nghèo bền vững có thể được hiểu với
nghĩa đơn giản là thoát nghèo bền vững, hay không bị tái nghèo.
1.2.1.3. Phát triển cộng đồng
Theo quan điểm của chính phủ Anh, khái niệm phát triển cộng đồng được
sử dụng lần đầu tiên năm 1940: “PTCĐ là một chiến lược phát triển nhằm vận động
sức dân trong các cộng đồng nông thôn cũng như đô thị nhằm phối hợp cùng những
nỗ lực của nhà nước để cải thiện hạ tầng cơ sở và tăng khả năng tự lực của cộng
đồng” [24, tr.35].
Theo Murray G.Ross (1955): “PTCĐ là một diễn tiến qua đó cộng đồng
nhận rõ nhu cầu hoặc mục tiêu phát triển của cộng đồng; biết sắp xếp ưu tiên các

nhu cầu vì mục tiêu này; phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng; biết tìm đến
tài nguyên bên trong và ngoài cộng đồng để đáp ứng chúng thông qua đó sẽ phát
huy những thái độ và kỹ năng hợp tác trong cộng đồng” [24, tr.45].
Liên hiệp quốc (1956) cũng đưa ra định nghĩa: “PTCĐ là một tiến trình qua
đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều

16


kiện kinh tế xã hội, văn hóa của các cộng đồng và giúp cộng đồng này hội nhập và
đồng thời đóng góp vào đời sống quốc gia” [16, tr.21].
Theo Nguyễn Thị Oanh (1995): “PTCĐ là một tiến trình làm chuyển biến
cộng đồng nghèo, thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông qua việc giáo dục gây
nhận thức về tình hình, vấn đề hiện tại của họ, phát huy các khả năng và tài nguyên
sẵn có, tổ chức các hoạt động tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức và tiến tới tự
lực, phát triển” [22, tr.28].
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu về phát triển cộng đồng như sau:
phát triển cộng đồng là một chuỗi những hoạt động tác động tích cực lên một cộng đồng
dân cư, khiến cho cộng đồng đó nhận thức về vấn đề của mình, phát huy khả năng và
tiến đến tự lực, tự vận động theo chiều hướng đi lên về chất lượng cuộc sống.
Khái niệm này được xem xét ở các góc độ sau:
Thứ nhất, về mục tiêu của phát triển cộng đồng nhằm hướng đến:
- Đáp ứng được nhu cầu cơ bản và cung cấp cho người dân những cơ hội để
phát triển toàn diện các tiềm năng và nâng cao chất lượng cuộc sống. PTCĐ đặc
biệt quan tâm đến các nhóm đối tượng yếu thế trong cộng đồng để cải thiện các điều
kiện sống của họ và thỏa mãn nhưng nhu cầu cơ bản như việc làm, nhà ở, giáo dục,
y tế,…
- Người dân được tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng một cách tích
cực vào việc ra quyết định liên quan đến chính đời sống của họ, giúp họ nhận thức
được giá trị và tin vào khả năng của mình. Thông qua đó trình độ họ được tăng lên

và cải thiện cuộc sống.
- Huy động được các tiềm năng và khuyến khích sự tham gia của các cơ quan,
tổ chức, người dân, tài nguyên cộng đồng để cải thiện đời sống mọi mặt của họ.
- Tạo cơ hội phát triển cho các nhóm trong xã hội trên cơ sở củng cố công
bằng, bình đẳng và nhân quyền; tăng cường mối quan hệ đoàn kết trong cộng đồng
với mục đích chung.
- Cải thiện cơ sở vật chất của cộng đồng góp phần điều chỉnh chính sách xã hội
phù hợp với tình hình thực tế của cộng đồng qua đó đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

17


Thứ hai, nội dung của phát triển cộng đồng bao gồm:
- Quản lý tài nguyên cộng đồng: quản lý môi trường cộng đồng, xử lý các
thảm họa do thiên tai, phát triển các cơ sở kinh doanh sản xuất.
- Giáo dục cộng đồng: giúp trang bị các kiến thức, sự hiểu biết và kỹ năng
làm việc, lao động cho người dân.
- Tổ chức cộng đồng: củng cố các tổ chức có sẵn như các đoàn thể, tổ chức
chính trị, xã hội tại cộng đồng; thành lập các nhóm nhỏ, nhóm mới hoặc câu lạc bộ;
tổ chức các ngành nghề như các tổ sản xuất, câu lạc bộ nghề nghiệp trong cộng
đồng; mở rộng liên kết với các nhóm khác, tiến đến lập hiệp hội, hợp tác xã,…
Ba lĩnh vực trong nội dung phát triển cộng đồng được dùng như điểm xuất
phát của một dự án. Các dự án phát triển cộng đồng được tiến hành tùy theo lĩnh
vực chuyên môn của các tổ chức phát triển và nhu cầu của cộng đồng.
1.2.1.4. Phát triển cộng đồng trong giảm nghèo
Từ các khái niệm về giảm nghèo và phát triển cộng đồng đã phân tích ở trên,
chúng ta có hiểu phát triển cộng đồng trong giảm nghèo là tổng thể các biện pháp
chính sách của nhà nước và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện
nghèo đói, thông qua một chuỗi những hoạt động tác động tích cực lên một cộng
đồng dân cư, khiến cho cộng đồng đó nhận thức về vấn đề của mình, phát huy khả

năng và tiến đến tự lực, tự vận động theo chiều hướng đi lên về chất lượng cuộc
sống,, nhằm tạo điều kiện cho họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu
nhập, không đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy
định theo từng địa phương, khu vực, quốc gia
1.2.1.5. Phát triển cộng đồng trong giảm nghèo đối với người dân tộc thiểu số
là tổng thể các biện pháp chính sách của nhà nước và xã hội hay là của chính những
đối tượng thuộc những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua một chuỗi những hoạt
động tác động tích cực lên một cộng đồng của họ, khiến cho cộng đồng đó nhận thức
về vấn đề của mình, phát huy khả năng và tiến đến tự lực, tự vận động theo chiều
hướng đi lên về chất lượng cuộc sống,, nhằm tạo điều kiện cho họ có thể tăng thu

18


nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập, không đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu trên
cơ sở chuẩn nghèo được quy định theo từng địa phương, khu vực, quốc gia.
1.2.2. Các lý thuyết tiếp cận trong phát triển cộng đồng
1.2.2.1. Lý thuyết về quyền con người
Có rất nhiều định nghĩa về quyền con người. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề
từ một góc độ nhất định, không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính
của quyền con người.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người: Quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu, có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép và tự do cơ bản của con người [17, tr.37].
Một định nghĩa khác: Quyền con người là những sự được phép mà tất cả các
thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo,
địa vị xã hội,...đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người [17,
tr.37].

Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người được nêu ra, tuy nhiên ở
góc độ chung quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [18, tr.38].
Như vậy, quyền con người là những quyền vốn có của con người, không
phân biệt quốc tịch, nơi cư trú, giới tính, nguồn gốc quốc gia hay dân tộc, màu da,
tôn giáo, ngôn ngữ hay bất kỳ một thân phận nào khác. Mọi người được hưởng các
quyền của mình một cách bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử.
Dù xem xét ở góc độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và phải khẳng định một điều
rằng quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng, bảo vệ trong mọi
xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.

19


Quyền con người có các tính chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể
chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau [18,
tr.41].
Quyền con người bao gồm: quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do đi
lại, tự do tôn giáo, tự do lập hội,...các quyền về sức khỏe, quyền giáo dục, quyền về
nhà ở và quyền về bảo trợ xã hội.
Vận dụng lý thuyết về quyền con người trong phát triển cộng đồng:
Tiếp cận dựa trên thuyết về quyền con người nhằm hướng đến việc cải thiện
hoàn cảnh của cộng đồng, tập trung vào nhu cầu và tiềm năng vốn có của họ. Nói
cách khác, tiếp cận dựa trên quyền quan tâm đến những vấn đề được xem là quan
trọng nhất đối với sự phát triển của con người nói chung và người dân trong cộng
đồng nói riêng như thực phẩm, nước, y tế, nhà ở,...
Với cách tiếp cận này, tác viên PTCĐ là người thực hiện vai trò biện hộ cho
người dân trong cộng đồng, ngay cả khi họ đã nhận thức được hoặc chưa nhận thức

được những quyền của mình. Đồng thời, tác viên PTCĐ cần trao quyền cho người
dân để họ thực hiện các quyền đó.
Cách tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền
của con người đã được pháp luật quốc tế bảo vệ. Với cách tiếp cận theo quyền, tác
viên PTCĐ khi làm việc với cộng đồng cần dựa trên hệ thống quyền của họ để xây
dựng các phương pháp và hoạt động trợ giúp. Như vậy, nguyên tắc về quyền con
người là một trong những nguyên tắc đóng vai trò nền tảng trong PTCĐ.
1.2.2.2. Lý thuyết hệ thống sinh thái
Hệ thống là một tập hợp các phần tử khác nhau, giữa chúng có mối liên hệ và
tác động qua lại theo một quy luật nhất định tạo thành một chỉnh thể, có khả năng
thực hiện những chức năng cụ thể. Mỗi hệ thống bất kỳ nào đều có các thành tố:
hành vi, cấu trúc, văn hóa và diễn biến của hệ thống [20, tr.57].
Sinh thái được hiểu là những liên hệ, tác động, ảnh hưởng giữa các thành tố
cùng tồn tại trong một môi trường sống. Những mối liên hệ này có tính hai chiều và
phụ thuộc vào nhau.

20


Để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, chúng ta phải tìm hiểu cả hệ
thống môi trường xung quanh họ, vì vậy bất cứ việc can thiệp hoặc giúp đỡ một cá
nhân của một tổ chức nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống đó.
Lý thuyết hệ thống sinh thái cho rằng, một hệ thống, vừa bao gồm các tiểu hệ
thống nhỏ trong nó đồng thời nó cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống
rộng lớn hơn. Hệ thống càng phức tạp thì tổng hợp các tiểu hệ thống và các thành tố
càng đa dạng. Giữa các thành tố có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Sự thay
đổi, biến động của mỗi thành tố trong một hệ thống đều ảnh hưởng, tác động đến
các thành tố khác và ngược lại. Bởi những liên hệ đó mà tập hợp các tiểu hệ thống
và thành tố tạo thành một sự toàn vẹn, thống nhất.
Trong công tác xã hội, lý thuyết hệ thống sinh thái chỉ ra sự tác động mà các

tổ chức, các chính sách, các cộng đồng, nhóm, gia đình ảnh hưởng lên các cá nhân
sống trong một cộng đồng cụ thể. Lý thuyết hệ thống sinh thái cho phép phân tích
thấu đáo sự tương tác giữa người dân với nhau, giữa người dân với cán bộ địa
phương và giữa các đối tượng sinh sống trong một hệ thống sinh thái – môi trường
xã hội cụ thể. Mỗi cá nhân người dân đều có một môi trường sống và một hoàn
cảnh sống, chịu tác động của các yếu tố trong môi trường sống và cũng tác động,
ảnh hưởng ngược lại môi trường xung quanh.
Khi làm việc với người dân, nhân viên CTXH cần xem xét cộng đồng là một
hệ thống, hệ thống này nằm trong hệ thống lớn hơn là hệ thống xã hội. Các hệ thống
này đều có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi xác định vấn đề của cộng đồng
thì cần đặt trong mối quan hệ tương tác giữa các hệ thống này để phân tích và tìm
hiểu đặc biệt là tìm hiểu về các tiềm năng, tài sản trong cộng đồng. Vì vậy, nhiệm
vụ của nhân viên CTXH là tìm ra các hệ thống bên trong và bên ngoài cộng đồng để
có thể có cái nhìn đầy đủ về tiềm năng cộng đồng. Ngoài ra áp dụng thuyết hệ thống
sinh thái sẽ giúp nhân viên CTXH:
- Sử dụng và phát huy tối đa khả năng của cộng đồng trong sự tương tác với
các hệ thống khác để giải quyết vấn đề.

21


- Xây dựng mối quan hệ giữa các đối tượng trong cộng đồng với các hệ
thống trợ giúp trong xã hội.
- Giúp tăng cường khả năng tương tác giữa cộng đồng và các hệ thống.
- Giúp phát triển và thay đổi hệ thống chính sách xã hội một cách phù hợp.
- Cung cấp trợ giúp thực tế khi cần thiết.
Trên cơ sở lý thuyết hệ thống sinh thái, chúng tôi nhận thấy việc tim kiếm
các tài sản/tiềm năng trong cộng đồng là một việc làm cần thiết. Trong cộng đồng
có rất nhiều tài sản/tiềm năng và nó chịu sự chi phối vởi các hệ thống khác nhau.
Cộng đồng xã La Ngâu, Măng Tố có rất nhiều hệ thống trong đó bao gồm các tiểu

hệ thống: cán bộ địa phương, người dân, những người có uy tín, các hội đoàn thể,
chính sách hỗ trợ, cơ sở vật chất, tài chính… Mặt khác, hệ thống xã La Ngâu, Măng
Tố cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống lớn hơn đó là huyện Tánh
Linh chịu sự chi phối của hệ thống này.
Bên cạnh đó, để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, ta phải nghiên cứu
cả hệ thống môi trường xung quanh họ. Vì vậy, bất cứ việc can thiệp hoặc giúp đỡ
một cá nhân hay một cộng đồng nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ
thống đó. Lý thuyết hệ thống sinh thái có ảnh hưởng rất nhiều đến các phương thức
thực hiện trong công tác xã hội như tư vấn, xử lý ca, tư vấn nhóm, tổ chức và phát
triển cộng đồng.
1.2.2.3. Lý thuyết vai trò
Vai trò là khái niệm nhấn mạnh những kỳ vọng xã hội gắn với những vị thế
hay vị trí nhất định trong xã hội và nó phân tích những kỳ vọng trong xã hội ấy. Mỗi
một vai trò lại gắn với một nhóm đối tác khác nhau và nhóm đối tác đó có một kỳ
vọng riêng của họ.
Vai trò không chỉ đơn giản liên quan đến những hành vi được xã hội quan sát
mà trong thực tế còn bao gồm xã hội quan niệm những hành vi đó phải được thực
hiện ra sao. Những hành vi được thực hiện đúng với mong muốn của xã hội được gọi
là những chuẩn mực và giá trị xã hội đó.
Trong xã hội, mỗi người không phải chỉ đảm nhận một vai trò mà thường
đảm nhận nhiều vai trò khác nhau. Các vai trò không được tổ chức và vận dụng

22


logic, hài hòa sẽ dẫn đến xung đột vai trò, căng thẳng vai trò, biến đổi vai trò.
Những đòi hỏi quan trọng nhất đối với vai trò không chỉ là thực hiện các vai trò mà
còn thể hiện vai trò đó có liên quan đến sự mong đợi, kỳ vọng, chuẩn mực, quy ước
của xã hội hay không.
Có hai khuynh hướng lý thuyết chính liên quan đến vai trò. Khuynh hướng

thứ nhất cho rằng quá trình xã hội hóa chính là quá trình xã hội áp đặt các khuôn
mẫu vai trò cho các thành viên trong đó. Khuynh hướng thứ hai giải thích việc học
“đóng vai” ngoài đời giống như học theo một thứ kịch bản gợi ý, một thứ kịch bản
mở. Loại kịch bản này buộc các “diễn viên” phải linh hoạt với hoàn cảnh thực tế
hoặc tạo ra những chi tiết thích hợp để biết rằng mình cần phải làm gì, làm thế nào,
làm cho ai [20, tr.86].
Vận dụng lý thuyết vai trò trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy mỗi một bộ
phận trong cộng đồng bao gồm: cán bộ địa phương, già làng, trưởng thôn, người
dân... tất cả họ đều có những vai trò nhất định. Mỗi một vai trò thể hiện qua những
công việc, nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của mình, mỗi người đóng một vai trò
riêng nhưng cùng góp sức vào sự phát triển chung của cả cộng đồng nhằm đem lại
sự phát triển/
1.2.2.4. Lý thuyết nhu cầu
Thuyết nhu cầu của Abraham Maslow là một trong những học thuyết được
ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống, xã hội.
Maslow sắp xếp nhu cầu của con người theo một trật tự phân cấp từ thấp đến
cao theo hình kim tự tháp và được chia thành hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản (nhu
cầu cấp thấp) và nhu cầu cấp cao. Những nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ được thỏa mãn
khi nhu cầu cấp thấp hơn được đáp ứng.
Tháp nhu cầu của Maslow

23


(Nguồn: Trương Phúc Hưng (2005), Các trường phái lý thuyết trong tâm lý học
xã hội, NXB ĐHQGHN, Hà Nội)
Tầng thứ nhất, nhu cầu sinh học, đó là các nhu cầu thuộc "thể lý" - thức ăn,
nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai, nhu cầu an toàn - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể,
việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.

Tầng thứ ba, nhu cầu xã hội hay còn gọi nhu cầu được giao lưu tình cảm và được
trực thuộc - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm,
bạn bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư, nhu cầu được tôn trọng - cần có cảm giác được tôn trọng, kính
mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm, nhu cầu về tự thể hiện bản thân - muốn sáng tạo, được thể
hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là
thành đạt.
Vận dụng thuyết khi làm việc trong PTCĐ: Trước tiên ứng dụng thuyết này
tác viên cộng đồng cần hiểu rằng cộng đồng thường có nhiều vấn đề. Để giải quyết
các vấn đề đó triệt để thì cần chuyển sang các nhu cầu cụ thể. Tiếp cận theo nhu cầu
trong làm việc trực tiếp với người dân sẽ giúp nhân viên CTXH hiểu rằng đối với
mỗi cộng đồng khác nhau, trong từng hoàn cảnh tùy từng thời điểm sẽ nảy sinh

24


những nhu cầu khác biệt. Vì thế, vận dụng lý thuyết nhu cầu giúp nhân viên CTXH,
tác viên cộng đồng hiểu và đáp ứng nhu cầu cho người dân cũng cần đi theo từng
cấp bậc cụ thể.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu chúng tôi tìm
hiểu nhu cầu của cộng đồng xã La Ngâu và Măng Tố, huyện Tánh Linh theo năm bậc
thang về nhu cầu. Từ đó xem xét các nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào
chưa được đảm bảo, đảm bảo ở mức độ nào, có ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào trước,
nhu cầu nào sau hay theo trình tự các bậc nhu cầu của nhà tâm lý học A.Maslow.
Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết nhu cầu, chúng tôi còn tìm hiểu xem liệu các
nhu cầu của người dân được cộng đồng và cán bộ địa phương đáp ứng thực hiện như
thế nào, các nhu cầu được người dân xây dựng và trên cơ sở đó lập ra dự án phát triển
cộng đồng.
Tóm lại, lý thuyết hệ thống, lý thuyết vai trò, lý thuyết nhu cầu là nền tảng lý

luận cho phép nghiên cứu, phân tích, lý giải mối quan hệ tương hỗ giữa các thành
phần, bộ phận, chức năng liên quan đến hoạt động phát triển cộng đồng; các chức
năng của mỗi thành phần, bộ phận ấy tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự hài hòa
của cấu trúc tổng thể; và mỗi thành phần, bộ phận đều có những vai trò cụ thể khi
tham gia vào các mối quan hệ trong cùng hệ thống hoặc với hệ thống khác xung
quanh. Ngoài ra, việc thể hiện nhu cầu và đáp ứng các nhu cầu của người dân cần
được quan tâm bởi hơn ai hết người dân ở xã La Ngâu và Măng Tố là những xã
nghèo của huyện Tánh Linh rất cần sự quan tâm và rất cần sự tác động của tác viên
cộng đồng để họ nhìn ra các thế mạnh, tiềm năng vốn có của chính mình từ đó xây
dựng niềm tin, lòng tự hào để phát triển cộng đồng một cách bền vững, hiệu quả.
1.2.3. Các hoạt động trong phát triển cộng đồng
1.2.3.1. Triển khai các hoạt động
Nâng cao chất lượng đời sống cho các cộng đồng ở nông thôn là mục tiêu đầu
tiên của các chương trình phát triển. Trong khi có nhiều sự nỗ lực, như là phổ biến
cho nông dân các giống ưu thế lai, kỹ thuật áp dụng phân bón, thuốc trừ sâu bệnh
hoặc xây dựng các hệ thống thủy lợi đã đem lại hiệu quả ở một số nơi, giúp ích cho
người dân nhưng thật không may mắn, những tiến bộ kỹ thuật này không đến được

25


×