Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài toán cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.01 KB, 11 trang )

BÀI TOÁN CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP

I: Khái niệm cổ phần hóa
Theo các nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp quy của Chính phủ và các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thì khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
đều được hiểu thống nhất là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà
nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần và doanh nghiệp được chuyển hình
thức hoạt động từ loại hình doanh nghiệp nhà nước sang loại hình Công ty cổ phần.
Cổ phần hóa là khái niệm hẹp hơn tư nhân hóa. Trong cổ phần hóa, tài sản của
doanh nghiệp nhà nước được bán lại cho nhiều đối tượng khác nhau bao gồm: các
tổ chức kinh tế, xã hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, giữ lại 1 tỉ lệ cổ
phần cho nhà nước trong chính doanh nghiệp cổ phần đó. Như vậy hình thức sở
hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ nhà nước duy nhất sang hỗn hợp, từ đây dẫn
đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương
thức hoạt động công ty. Doanh nhiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa trở thành công
ty cổ phần, điều lệ và thể thức hoạt động theo Luật Công ty.
Qua cổ phần hóa, doanh nghiệp nhà nước đã trở thành doanh nghiệp có nhiều chủ
sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động; huy động thêm nguồn vốn của
xã hội vào sản xuất kinh doanh, hiệu quả; sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của
doanh nghiệp được nâng lên. Thực tiễn khẳng định cổ phần hóa đã trở thành giải
pháp quan trọng, chủ yếu để cơ cấu lại, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Về lợi ích của Nhà nước:


Hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của công ty, như vậy có
thể làm giảm chi phí quản lý đồng thời tạo được khả năng quản lý tốt và có hiệu
quả cao hơn cho nhà nước
Cổ phần hoá tạo ra được khu vực kinh tế tư nhân hoạt động hiệu quả, linh




hoạt.




Tăng hiệu quả của các doanh nghiệp ở cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân
do tính cạnh tranh cao, thúc đẩy cả hai bên đều phải cải tiến năng lực.



Cổ phần hoá thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo dựng được nhiều doanh
nghiệp có vốn đầu tư trong nước, thu hút vốn đầu tư của nhân dân, tạo công ăn việc
làm cho người lao động.



Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán vì khi doanh nghiệp Nhà
nước chuyển thành công ty cổ phần, chúng sẽ phát hành các loại chứng khoán để
huy động vốn.
Về lợi ích của doanh nghiệp:



Thu hút nhanh chóng nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư vào nền
kinh tế bằng việc phát hành chứng khoán.




Nhanh chóng cấu trúc lại các doanh nghiệp về sản xuất, tổ chức… Nâng cao
năng suất, chất lượng và vị thế của doanh nghiệp ở thị trường trong nước và quốc
tế
Từ sự phân tích trên có thể thấy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một chủ
trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Có thực hiện tốt quá trình cổ phần
hoá thì mới nhanh chóng thúc đẩy việc cải cách, đổi mới và phát triển doanh
nghiệp Nhà nước.
II Quy định mới về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ký ban hành nghị định của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2011 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước thành công ty cổ phần.
Một trong những nội dung chính của nghị định là quy định mới về xác định giá trị
vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp cổ phần hóa tại các doanh nghiệp khác; cơ
cấu vốn cổ phần lần đầu cũng như bổ sung chính sách ưu đãi cho người lao động
trong doanh nghiệp cổ phần hóa…
Bỏ quy định sàn khi bán cổ phần
Về xác định giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp cổ phần hóa tại các doanh
nghiệp khác, nghị định quy định: giá trị vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hóa vào
công ty cổ phần đã niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán được
xác định theo giá đóng cửa của cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán tại
thời điểm gần nhất với thời điểm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp.


Trường hợp cổ phiếu của công ty cổ phần đã niêm yết trên thị trường upcom mà
không có giao dịch trong vòng 30 ngày trước thời điểm tổ chức xác định giá trị
doanh nghiệp thì được xác định theo quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 1,
điều 33 Nghị định số 59/2011 của Chính phủ và khoản 5, điều 1 nghị định này.
Đối với giá trị vốn góp vào công ty cổ phần chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch
trên thị trường chứng khoán thì căn cứ kết quả xác định của cơ quan tư vấn, ban
chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp xem xét trình cơ quan có thẩm quyền quyết định

giá trị doanh nghiệp quyết định.
Nghị định mới cũng sửa đổi quy định về cơ cấu vốn cổ phần lần đầu, trong đó chỉ
quy định chung về cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác, thay
cho quy định cụ thể cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác
không thấp hơn 25% vốn điều lệ (trừ trường hợp quy định), số cổ phần bán cho các
nhà đầu tư khác không thấp hơn 50% số cổ phần nêu trên.
Bên cạnh đó, vẫn giữ nguyên quy định: riêng đối với các doanh nghiệp quy mô lớn
có vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực,
ngành nghề đặc thù như bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính viễn thông, hàng không,
khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác và các công ty mẹ thuộc các
tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước thì tỷ lệ cổ phần đấu giá bán cho các nhà
đầu tư do Thủ tướng hoặc cơ quan được Thủ tướng ủy quyền xem xét, quyết định
cụ thể.
Về tổ chức đấu giá công khai, Nghị định 59/2011 quy định, cơ quan có thẩm quyền
quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa quyết định việc lựa chọn sở giao dịch
chứng khoán hoặc thuê tổ chức tài chính trung gian để thực hiện đấu giá.
Ngoài quy định này, nghị định mới bổ sung: đối với các tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước và một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt như
bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác
mỏ quý hiếm khá, khi thực hiện cổ phần hóa mà phương án cổ phần hóa thuộc
thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì bộ trưởng các bộ, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương lựa chọn sở giao dịch chứng khoán hoặc thuê tổ chức tài
chính trung gian để thực hiện đấu giá.
Thêm ưu đãi
Ngoài ra, nghị định cũng bổ sung chính sách ưu đãi cho người lao động trong
doanh nghiệp cổ phần hóa.
Theo đó, những doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa đã tiến hành các thủ tục cần
thiết theo phương án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng
chưa thực hiện được IPO trong thời gian 90 ngày kể từ ngày có quyết định phê

duyệt phương án cổ phần hóa thì doanh nghiệp được bán trước cổ phần cho người
lao động, tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp với giá bán cổ phiếu bằng 60%


giá khởi điểm trong phương án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
Chênh lệch giữa giá bán cho người lao động, cho tổ chức công đoàn (nếu có) so
với mệnh giá cổ phần được trừ vào giá trị phần vốn nhà nước khi quyết toán tại
thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
III Quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước


Việc chuyển Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần phải
được thực hiện theo các bước sau và đúng với Nghị định 59/2011/NĐ-CP và Nghị
định 189/2013/NĐ-CP




Bước 1. Xây dựng Phương án cổ phần hóa
a. Thành lập Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp và Tổ giúp việc.
- Căn cứ vào kế hoạch cổ phần hóa trong Đề án để thành lập Ban Chỉ đạo cổ phần
hóa doanh nghiệp và kế hoạch, lộ trình triển khai công tác cổ phần hóa.
- Thành lập Tổ giúp việc cổ phần hóa trong thời gian 5 ngày làm việc, kể từ ngày
có quyết định thành lập Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp.
b. Chuẩn bị các hồ sơ, tài liệu.
- Các Hồ sơ pháp lý về thành lập doanh nghiệp.
- Các Hồ sơ pháp lý về tài sản, nguồn vốn, công nợ của doanh nghiệp.
- Báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế của công ty đến thời điểm xác định giá
trị doanh nghiệp.

- Lập dự toán chi phí cổ phần hóa theo chế độ quy định.
- Lập phương án sử dụng đất của doanh nghiệp đang quản lý phù hợp với quy định
về sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong từng
thời kỳ.
- Lập danh sách và phương án sử dụng lao động đang quản lý.
- Lựa chọn phương pháp, hình thức xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn thời
điểm xác định giá trị doanh nghiệp phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và các
văn bản hướng dẫn có liên quan đến cổ phần hóa.
c. Tổ chức kiểm kê, xử lý những vấn đề về tài chính và tổ chức xác định giá trị
doanh nghiệp.
- Kiểm kê, phân loại tài sản và quyết toán tài chính, quyết toán thuế, phối hợp với
các cơ quan có liên quan xử lý những vấn đề về tài chính đến thời điểm xác định
giá trị doanh nghiệp.
- Gửi phương án sử dụng đất cùng toàn bộ hồ sơ có liên quan đến Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên địa bàn để xin ý kiến về các lô đất
doanh nghiệp sẽ tiếp tục sử dụng sau cổ phần hóa và giá đất làm căn cứ để xác
định giá trị doanh nghiệp.


- Tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp.
- Quyết định và công bố giá trị doanh nghiệp.
d. Hoàn tất Phương án cổ phần hóa trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Căn cứ quyết định công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa và tình hình thực tế
của doanh nghiệp, Ban Chỉ đạo xem xét quyết định thuê tổ chức tư vấn hoặc giao
cho Tổ giúp việc và doanh nghiệp xây dựng Phương án cổ phần hóa doanh nghiệp.
Bước 2. Tổ chức thực hiện phương án cổ phần hóa
a) Ban Chỉ đạo cổ phần hóa chỉ đạo doanh nghiệp phối hợp với các tổ chức tư vấn
trung gian tổ chức bán cổ phần theo phương án cổ phần hóa đã được duyệt.
b) Trên cơ sở kết quả đấu giá công khai hoặc kết quả bán cổ phần cho nhà đầu tư
chiến lược, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa chỉ đạo doanh nghiệp bán cổ phần ưu đãi cho

người lao động và tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp (nếu có) theo phương án đã
duyệt.
c) Căn cứ vào kết quả tổng hợp bán cổ phần cho các đối tượng theo quy định trong
phương án cổ phần hóa, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa chỉ đạo doanh nghiệp chuyển
tiền thu từ cổ phần hóa về Quỹ theo quy định. Trường hợp không bán hết cổ phần
cho các đối tượng theo đúng phương án cổ phần hóa được duyệt, Ban Chỉ đạo cổ
phần hóa báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định phê duyệt phương án cổ phần
hóa ra quyết định điều chỉnh quy mô, cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp cổ phần
hóa.
d) Ban Chỉ đạo cổ phần hóa báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định cử người
làm đại diện phần vốn tại các doanh nghiệp cổ phần hóa có vốn nhà nước tiếp tục
tham gia trong công ty cổ phần và chịu trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ
của đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bước 3. Hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần
a. Tổ chức Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất và đăng ký doanh nghiệp.
- Ban Chỉ đạo cổ phần hóa chỉ đạo Tổ giúp việc, người đại diện phần vốn nhà nước
(nếu có) và doanh nghiệp tổ chức Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất để thông qua
Điều lệ tổ chức và hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh, bầu Hội đồng quản
trị, Ban Kiểm soát và bộ máy điều hành công ty cổ phần.
- Căn cứ vào kết quả Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất, Hội đồng quản trị công ty
cổ phần thực hiện đăng ký doanh nghiệp theo quy định.
b. Tổ chức quyết toán, bàn giao giữa doanh nghiệp và công ty cổ phần.
- Trong thời gian 30 ngày làm việc kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp lần đầu, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa chỉ đạo Tổ giúp việc và doanh
nghiệp lập báo cáo tài chính tại thời điểm công ty cổ phần được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh lần đầu, thực hiện quyết toán thuế, kiểm toán báo cáo tài
chính, quyết toán chi phí cổ phần hóa, báo cáo cơ quan quyết định cổ phần hóa.


- Căn cứ kết quả xác định lại giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm đăng ký

doanh nghiệp của cơ quan có thẩm quyền, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa chỉ đạo Tổ
giúp việc và doanh nghiệp tổ chức bàn giao giữa doanh nghiệp và công ty cổ phần.
- Tổ chức ra mắt công ty cổ phần và thực hiện bố cáo trên phương tiện thông tin
đại chúng theo quy định.
Trong quá trình thực hiện, cơ quan quyết định cổ phần hóa, Ban Chỉ đạo cổ phần
hóa, Tổ giúp việc và doanh nghiệp có thể tiến hành đồng thời nhiều bước để đẩy
nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp./.
IV Một số vấn đề sau cổ phần hóa
Đất đai và quyền sở hữu tài sản
. Trên thị trường chứng khoán hiện nay đôi lúc xảy ra trường hợp có những doanh
nghiệp tiềm lực kinh tế cỡ trung bình, nhưng khi cổ phần hóa thì chỉ số cổ phiếu
tăng nhiều lần so với giá trị thực. Những doanh nghiệp này thường thuê đất, trả
tiền thuế đất hàng năm nhưng khi niêm yết giá trị tài sản của mình lên sàn giao
dịch chứng khoán lại liệt kê cả giá trị quyền sử dụng đất. Nếu có sự lẫn lộn giữa
giá trị quyền sử dụng đất và giá trị tài sản của doanh nghiệp gắn liền với đất sẽ dẫn
đến bất lợi là xuất hiện tranh chấp, chuyển nhượng, mua gom, khống chế cổ phần,
thâu tóm và kiểm soát công ty sau CPH vì giá trị đất.
Ngược lại, lại có tình trạng không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh
nghiệp khi CPH bằng cách duy trì các hợp đồng thuê đất lâu dài sẵn có. Khi đã
CPH, giá trị sử dụng đất có thể trở thành giá trị siêu lợi nhuận trong kinh doanh
vốn của doanh nghiệp. Không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh
nghiệp khi CPH tức là Nhà nước đã từ bỏ quyền được nhận phần “địa tô chênh
lệch” phát sinh từ quyền sử dụng đất. Tất yếu, phần ”địa tô” ấy sẽ rơi vào túi
những nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp sau CPH.
Khả năng tiếp cận tín dụng.
Khi DNNN được CPH và chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần
thì không được coi là thành phần kinh tế nhà nước. Điều đó, dẫn đến hậu quả bất
đắc dĩ là các ngân hàng thương mại (NHTM) nhìn doanh nghiệp CPH với sự e dè,
ngờ vực khi các doanh nghiệp này tiến hành vay vốn. Trong lĩnh vực đấu thầu,
xuất – nhập khẩu.. doanh nghiệp CPH không còn những lợi thế như trước.

Ngoài ra, khi còn là DNNN, doanh nghiệp sẽ được bổ sung vốn qua kênh đầu tư cơ
bản hoặc bổ sung vốn lưu động, xóa nợ hoặc được bảo lãnh nợ, ít bị nguy cơ tuyên


bố phá sản. Các DNNN còn được ưu tiên nhận những dự án đầu tư, ưu tiên cấp hạn
ngạch trong xuất – nhập khẩu, ưu tiên được liên doanh với các đối tác nước ngoài.
Tất cả những ưu thế đó sẽ bị mất đi sau CPH, khiến nhiều DNNN cố tình trì hoãn
CPH, mặc dù đang thua lỗ hoặc bên bờ vực phá sản.
Lao động dôi dư và vấn đề bán cổ phần.
Sau CPH, các DNNN còn phải đối mặt với một vấn đề lớn là kế thừa một lực
lượng lao động dôi dư đáng kể từ doanh nghiệp cũ chuyển sang có trình độ thấp.
Lao động dôi dư là lực cản không nhỏ với sự phát triển của doanh nghiệp sau CPH,
làm tăng thêm những khoản chi như đào tạo lại cho người có trình độ thấp mà nếu
không có nó, doanh nghiệp có thể đầu tư mở rộng sản xuất hoặc tăng lương cho
những người có chuyên môn cao để từ đó khuyến khích họ tích cực lao động và
cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Về vấn đề bán cổ phần cho người lao động, được Chính phủ quy định cụ thể trong
các Nghị định số 28/NĐ-CP, Nghị định số 44/NĐ-CP, Nghị định số 64/2002/NĐCP… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn không tránh khỏi những vướng
mắc. Một bộ phận người lao động thường bán lại quyền mua cổ phần ưu đãi cho
các đối tượng đầu tư khác ở trong hoặc ngoài doanh nghiệp để hưởng chênh lệch
khiến cho mục tiêu gắn bó người lao động với doanh nghiệp không đạt được kết
quả như mong đợi. Bên cạnh đó, việc xác định giá ưu đãi bằng 60% mức đấu giá
bình quân trên sàn giao dịch để bán cổ phiếu cho người lao động là chưa thật sự
hợp lý. Thực tế, khi thị trường chứng khoán sụt giảm đã tác động nghiêm trọng đến
thu nhập của người lao động, nhất là đối với người lao động phải đi vay ngân hàng
để mua cổ phiếu.
Công nghệ:
Kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp do Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc UNDP và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Bộ
Kế hoạch – Đầu tư phối hợp tiến hành tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cho

thấy, hầu hết các doanh nghiệp sau CPH đang sử dụng dây chuyền công nghệ, máy
móc thiết bị đồng bộ thuộc thế hệ những năm 80 của thế kỷ 20; có tới 69% doanh
nghiệp phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, 53% doanh nghiệp phụ thuộc vào thiết
bị công nghệ nhập khẩu. Chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công
nghệ tiên tiến. Mức độ đầu tư cho khoa học công nghệ rất khiêm tốn, chỉ vào
khoảng 3% doanh thu/năm. Cũng theo kết quả khảo sát này thì hầu hết các doanh
nghiệp sau CPH tiến hành đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình
huống, chủ yếu là công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài.


Quản trị công ty:
Sau CPH, nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải tiến hành tái cấu trúc mạnh mẽ
để xác định được hướng đi của mình và hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, một
thực tế là quá trình CPH trong những năm qua phần lớn vẫn là quá trình khép kín.
Nhà nước vẫn nắm giữ phần lớn cổ phần, bộ máy quản lý vẫn như cũ, vẫn những
con người ấy, cơ chế ấy, “Bình mới nhưng rượu cũ”. Theo số liệu điều tra, sau khi
CPH 81,5% giám đốc doanh nghiệp được giữ nguyên chức vụ; 78% chức danh Phó
Giám đốc và kế toán trưởng không có sự thay đổi. Rất ít doanh nghiệp sau CPH sử
dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Tình trạng này sẽ làm giảm sức sáng tạo,
tinh thần kinh doanh trong doanh nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh
doanh.
Nợ của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp sau khi CPH vẫn còn ôm những món nợ do khi chuyển đổi
không xác định rõ trách nhiệm người phải trả. Đó cũng là nỗi lo của các cơ quan
quản lý, các chủ nợ – chủ yếu là các ngân hàng – và chính các doanh nghiệp. Vấn
đề khó xử mà các cơ quan này nêu ra là những quy định việc kế thừa trách nhiệm
về tài chính giữa DNNN trước đây và công ty cổ phần sau này không rõ ràng. Vấn
đề này dù đã được hướng dẫn trong Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007,
nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Vài suy nghĩ nhằm tháo gỡ khó khăn cho DNNN sau cổ phần hóa

Về đất đai và quyền sở hữu tài sản: Tài sản của DNNN cần được tính toán đầy đủ
vào trong giá trị doanh nghiệp trước khi CPH. Muốn vậy, phải nhanh chóng xử lí
tài sản theo phương pháp đấu giá. Cách làm này giúp tránh việc các lãnh đạo
DNNN tự lập danh mục tài sản không cần dùng, định giá rẻ và sau đó chính mình
mua lại những tài sản đó, bán ra ngoài kiếm chênh lệch. Phải tính đúng, hạch toán
đủ, không nên loại bất cứ bộ phận tài sản nào ra khỏi giá trị doanh nghiệp CPH, kể
cả những nhà xưởng đã được chuyển thành nhà ở. Cần tiến hành nhanh chóng thủ
tục chuyển quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp CPH. Các cơ quan có thẩm quyền
cần coi đây là một ưu tiên. Càng để kéo dài tình trạng này thì càng ảnh hưởng xấu
đến CPH.
Về huy động các nguồn tài chính tín: CPH các DNNN phải hướng tới sự thu hút và
tập trung các nguồn vốn xã hội. Để huy động nguồn vốn cần phát hành thêm cổ
phiếu, mở rộng bán cổ phần cho các chủ sở hữu trong và ngoài doanh nghiệp, kể cả
các nhà đầu tư nước ngoài. Trước hết, cần ưu tiên bán cổ phần cho người lao động
trong doanh nghiệp để gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người lao dộng với


doanh nghiệp, đồng thời cho phép khai thác được nguồn vốn nội bộ một cách hiệu
quả.
Chính sách với lao động dôi dư: Nhà nước cần có chính sách kích cầu lao động
như hỗ trợ vốn ban đầu cho những người kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, phát triển các chương trình tạo công ăn việc làm cho người lao động,
xuất khẩu lao động, qua đó giảm sức ép về lao động dư thừa ở doanh nghiệp sau
CPH sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính
sách giảm cung về lao động. Hình thành và phát triển thị trường nhân lực quản lý
và lãnh đạo các doanh nghiệp sau CPH.
Để tạo điều kiện cho người lao động có khả năng mua được cổ phần theo giá ưu
đãi, thay vì giảm 40% trên bình quân đấu giá, thì nên cho người lao động được
mua với mức 40% giá đấu thầu thành công thấp nhất. Chính phủ nên tiếp tục duy
trì và áp dụng phương thức cho người lao động nghèo được mua cổ phần ưu đãi trả

chậm có thời hạn, không tính lãi với điều kiện ràng buộc là trong 3 năm không
được bán cổ phần được mua theo giá ưu đãi này.
Về nâng cao trình độ công nghệ. Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia” là hết
sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Trọng tâm của chương trình là nhằm nâng tỷ
lệ doanh nghiệp có bộ phận nghiên cứu và triển khai (R&D) lên mức 5%. Muốn
vậy, chương trình cần tập trung vào các nội dung ưu đãi như: ưu đãi về thuế suất,
thuế thu nhập doanh nghiệp cho các hoạt động ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa
học công nghệ, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ việc
thực hiện các hợp đồng nghiên cứu và triển khai, hợp đồng dịch vụ kĩ thuật trực
tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết
công nghệ. Doanh nghiệp cũng được trích 50% thu nhập tăng thêm sau thuế (trong
3 năm) để đầu tư trở lại cho khoa học công nghệ và trích thưởng cho cá nhân, tập
thể có thành tích nghiên cứu và áp dụng công nghệ. Ngoài ra, những doanh nghiệp
tích cực đổi mới công nghệ còn được ưu đãi về tiền sử dụng đất.
Về quản trị doanh nghiệp. Xác định rõ và thực hiện đúng quyền hạn và trách
nhiệm giữa Hội đồng quản trị và Ban giám đốc; Tăng cường đào tạo, nâng cao sự
hiểu biết và trình độ quản trị công ty cổ phần của các nhà quản lý; Phát huy vai trò
của Đại hội cổ đông trong tổ chức, điều hành công ty cổ phần; Có cơ chế chính
sách phù hợp đối với cán bộ quản lý cũ khi họ không còn nắm giữ những chức vụ
cũng như các trường hợp tiếp tục đảm nhiệm các chức vụ mới.
Giải quyết những vấn đề tồn tại từ chính khâu xây dựng và thông qua điều lệ, tạo
thuận lợi cho tổ chức và điều hành công ty cổ phần; Lựa chọn cơ cấu hội đồng


quản trị có tính đại diện cao, uy tín. Đảm bảo thể chế dân chủ minh bạch, công
khai trong tổ chức điều hành; Kiểm soát được chuyển nhượng cổ phần của cổ đông
sáng lập; Định rõ chức năng nhiệm vụ của bộ phận tài chính. Trước mắt, cần chủ
động vận dụng những luật và quy định hiện có về kế toán tài chính để tạo lập chính
sách tài chính công khai, minh bạch đúng quy định pháp lý, nhanh chóng tham gia
thị trường chứng khoán nếu đủ điều kiện.

Giải quyết nợ của doanh nghiệp trước cổ phần hóa. Cơ cấu lại nợ trong nội bộ
doanh nghiệp. Nếu khoản nợ là do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp thì
phải kiên quyết xử lý bồi thường vật chất, nếu không quy được trách nhiệm cá
nhân thì doanh nghiệp tự quyết định xử lý các khoản nợ phải thu này vào kết quả
hoạt động kinh doanh. Đối với những khoản nợ do nguyên nhân khách quan, kể cả
nguyên nhân do cơ chế, chính sách nếu là khoản nợ ngân sách Nhà nước thì coi
như vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được thể hiện chuyển đổi sở hữu theo chế độ
hiện hành. Nếu là nợ vay ngân hàng thì dùng tiền thu được do chuyển đổi sở hữu
để trả nợ ngân hàng. Nếu là khoản nợ bảo hiểm xã hội do doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán thì dùng tiền thu được do chuyển đổi sở hữu sau khi trả nợ vay để
chi trả. Nếu là khoản nợ nước ngoài mà doanh nghiệp vay vốn có bảo lãnh thì tổ
chức bảo lãnh chủ động đàm phán với chủ nợ nước ngoài để xin giảm nợ và có kế
hoạch cùng với doanh nghiệp tìm nguồn vốn trả nợ nước ngoài. Nếu là khoản nợ
với đối tác là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì có kế hoạch chuyển
thành giá trị cổ phần để chủ nợ tham gia cổ phần và thành cổ đông của doanh
nghiệp.
Thị trường hoá các khoản nợ. Pháp lệnh thương phiếu ra đời là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc mua bán nợ. Tuy nhiên, thời gian qua ở nước ta các khoản nợ chính
thức được mua bán chưa nhiều, nguyên nhân của tình hình này là do các văn bản
hướng dẫn chưa cụ thể, đầy đủ và đồng bộ; các khoản nợ đọng có nhu cầu cần bán
phần lớn là các khoản nợ “xấu” nên bán không có người mua; nghiệp vụ mua bán
nợ lại rất mới mẻ, do vậy, việc hình thành, phát triển “công ty mua bán nợ” là giải
pháp quan trọng góp phần thị trường hoá và xử lý có hiệu quả các khoản nợ. Đồng
thời, các công ty mua bán nợ ra đời và phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển
của các thị trường thương phiếu và các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu./.
Tài liệu Tham Khảo
- Nghị định 28/CP ngày 7/5/96; Nghị định 25/1997/NĐ-CP ngày 26/03/1997; Nghị
định 64/2002/NĐ-CP; Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003; Nghị
định 187/2004/NĐ-CP; Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007.
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, “Kinh tế Việt Nam

2005,2006,2007”


- Kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp do UNDP và Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Bộ Kế hoạch – Đầu tư phối hợp tiến hành
tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
- Kết quả khảo sát của Viện Khoa học Tài chính, Bộ Tài chính.
Nguồn bài viết : Sưu tầm.



×