Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Khung hoang tai chinh o thi truong cac nuoc moi noi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 31 trang )

CHƯƠNG 10. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC
MỚI NỔI
GIỚI THIỆU
Trước năm 2007, hầu hết các ví dụ nổi bật về khủng hoảng tài chính đến từ các
quốc gia bên ngoài nước Mỹ. Đặc biệt ở những nền kinh tế mới nổi, đã mở cửa thị
trường với hy vọng tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Tuy nhiên, nhiều nước
trong số đó đã phải trải qua cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng như cuộc đại
suy thoái của Mỹ.
Ấn tượng nhất là cuộc khủng hoảng Mexico 1994, khủng hoảng Đông Á 1997,
khủng hoảng Argentina 2001. Điều này đặt ra một câu đố đối với các nhà kinh tế:
làm thế nào một quốc gia đang có xu hướng tăng trưởng tích cực lại suy giảm
mạnh trong hoạt động kinh tế.
Trong chương này, chúng tôi áp dụng lý thuyết thông tin bất cân xứng của khủng
hoảng tài chính đã phát triển ở chương 9 để tìm hiểu nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng ở các nền kinh tế mới nổi. Đầu tiên là xem xét xu hướng vận động của cuộc
khủng hoảng, sau đó áp dụng phân tích hai cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra gần
đây ở các nước mới nổi để khám phá nguyên nhân tại sao những cuộc khủng hoảng
này lại làm cho hoạt động kinh tế bị thu hẹp lại.
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở
CÁC NƯỚC MỚI NỔI


Bước 1: Sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng
Khủng hoảng tài chính ở các nền kinh tế phát triển có thể được kích hoạt bởi nhiều
nhân tố khác nhau, nhưng ở các nước mới nổi, khủng hoảng tài chính phát triển
theo hai con đường cơ bản: (1) sự yếu kém trong quản lý nền tự do hóa/ toàn cầu
hóa tài chính; (2) mất cân bằng tài chính nghiêm trọng.
1. Quản lý yếu kém tự do hóa/toàn cầu hóa tài chính
Hạt giống của khủng hoảng tài chính ở các nước mới nổi được gieo khi các quốc
gia thực hiện tự do hóa hệ thống tài chính bằng cách xóa bỏ những hạn chế, rào cản



đối với tổ chức tài chính và thị trường nội địa – gọi là tự do hóa tài chính. Đồng
thời mở cửa nền kinh tế để thu hút vốn từ nước ngoài – gọi là toàn cầu hóa tài
chính. Các nước này thường đạt được một chính sách tài khóa vững chắc trước
khủng hoảng, ví dụ: thâm hụt ngân sách của Mexico chỉ có 0.7% GDP – một con
số mà các nước phát triển sẽ khao khát. Thậm chí các nước khu vực Đông Á còn
thặng dư ngân sách.
Người ta thường nói rằng, “văn hóa tín dụng” ở các thị trường mới nổi là hết sức
yếu kém với sự lỏng lẻo trong giám sát hệ thống ngân hàng, thiếu hiệu quả trong
việc sàng lọc và giám sát người đi vay. Bùng nổ cho vay do tự do hóa tài chính
được đánh dấu bằng các hoạt động cho vay vô cùng rủi ro, gieo rắc những khoản lỗ
khổng lồ. Quá trình toàn cầu hóa tài chính như thêm dầu vô lửa vì nó cho phép các
ngân hàng trong nước đi vay nước ngoài. Ngân hàng trả lãi suất cao nhằm thu hút
nguồn vốn quốc tế để nhanh chóng gia tăng các khoản cho vay. Các dòng vốn tiếp
tục được kích thích bởi các chính sách của chính phủ như là neo (fix) giá trị của
đồng nội tệ với đồng đôla, tạo cảm giác thoải mái cho nhà đầu tư nước ngoài.
Giống như trường hợp của Hoa Kỳ, sự bùng nổ cho vay sẽ kết thúc sau khi xảy ra
một cuộc khủng hoảng. Tổn thất đáng kể trong một thời gian dài làm suy yếu bảng
cân đối của ngân hàng và khiến các ngân hàng phải cắt giảm cho vay. Ở thị trường
các nước mới nổi, Bảng cân đối ngân hàng suy yếu gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hoạt động kinh tế và hoạt động cho vay hơn là ở các nước phát triển – nơi có
thị trường chứng khoán tinh vi, khu vực tài chính phi ngân hàng lớn mạnh có khả
năng đón lấy cơ hội khi ngân hàng hoảng loạn. Vì vậy, khi ngân hàng ngừng cho
vay, không có 1 “người chơi” nào khác xuất hiện để giải quyết vấn đề lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức (thể hiện bởi các mũi tên chỉ từ yếu tố đầu tiên trong dòng
đầu tiên của hình 1 )


Câu chuyện từ bùng nổ cho vay đến khủng hoảng cho vay khi thực hiện tự do hóa/
toàn cầu hóa tài chính ở các nước mới nổi là điều không thê tránh khỏi. Nhưng nó

chỉ xảy ra với một hệ thống quản lý yếu kém. Cụ thể hơn nếu một quốc gia thực
hiện những quy tắc thận trọng, giám sát chặt chẽ để hạn chế những hoạt động quá
rủi ro, thì sự bùng nổ và sụp đổ cho vay sẽ không xảy ra (boom and bust). Tại sao
các nước mới nổi lại tồn tại những yếu kém đặc trưng, điều này được thảo luận ở
chương 8, theo đó lợi ích kinh doanh đã đánh đổ quá trình tự do hóa tài chính. Mục
đích của các chính trị gia và nhà giám sát là bảo vệ lợi ích của những người nộp
thuế (những tập đoàn nộp thuế cao), vì những người nộp thuế này hầu như đều
phải chịu chi phí giải cứu ngân hàng nếu thiệt hại xảy ra.
Một khi thực hiện tự do hóa tài chính, các ngân hàng sẽ muốn ngăn chặn sự giám
sát đối với hoạt động của họ, và khi đó những nhà giám sát sẽ không hành động vì
lợi ích cộng đồng. Lợi ích kinh doanh của ngân hàng thường đóng góp nhiều cho
các cuộc vận động của chính trị gia, do đó ngân hàng có thể thuyết phục các chính
trị gia nới lỏng các quy định ngăn chặn họ tham gia vào các chiến dịch có rủi ro
cao. Sau tất cả, nếu chủ sở hữu ngân hàng đạt được sự tăng trường và mở rộng cho
vay, họ sẽ trở nên giàu có, ngược lại nếu gặp rắc rối, chính phủ sẽ đứng ra bảo
lãnh. Ngoài ra, những lợi ích kinh doanh này có thể đảm bảo rằng các cơ quan
giám sát thậm chí với các quy định cứng rắn thì cũng thiếu nguồn lực để thực hiện.
2. Mất cân bằng tài chính nghiêm trọng
Chi tiêu chính phủ cũng có thể đặt nền kinh tế ở các nước mới nổi vào con đường
dẫn đến khủng hoảng tài chính. Ví dụ như khủng hoảng Argentina 2001 – 2002,
khủng hoảng Nga 1998, Ecuador 1999, Thổ Nhĩ Kỳ 2001.
Willie Sutton – một tên cướp nhà băng nổi tiếng được hỏi: “Tại sao lại cướp ngân
hàng”, ông ta trả lời “vì ở đó có tiền”. Chính phủ ở các nước mới nổi đôi khi có
cùng suy nghĩ như vậy. Khi đối mặt với tình trạng mất cân bằng tài chính và không


có khả năng trang trải nợ, họ thường dổ ngọt hoặc bắt buộc các ngân hàng mua nợ
của chính phủ. Các nhà đầu tư mất niềm tin vào khả năng trả nợ của chính phủ, dẫn
đến bán tháo trái phiếu khiến giá trái phiếu giảm mạnh. Các ngân hàng mà giữ các
khoản nợ này phải đối mặt với một khoản lỗ lớn bên phía tài sản của bảng cân đối

do giá trị tài sản giảm, các tổ chức này có ít tài nguyên để cho vay, dẫn đến cho
vay cũng giảm. Tình hình này có thể nghiêm trọng hơn, nếu sự thiếu hụt nguồn
vốn dẫn đến hoảng loạn ngân hàng, trong đó nhiều ngân hàng phá sản cùng một
lúc. Kết quả của sự mất cân bằng tài chính nghiêm trọng là làm suy yếu hệ thống
ngân hàng dẫn đến vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức (thể hiện bởi mũi
tên từ yếu tố đầu tiên trong dòng thứ 3 của hình 1)
3. Các yếu tố khác
Các yếu tố khác góp phần trong giai đoạn đầu tiên của cuộc khủng hoảng. Ví dụ:
nhân tố precipitating “thiếu thận trọng” (xuất hiện trong cuộc khủng hoảng
Mexico) làm tăng lãi suất đối với huy động nước ngoài, hoặc như chính sách thắt
chặt tiền tệ của Mỹ. Khi lãi suất tăng, các tổ chức có rủi ro cao sẵn sàng trả lãi suất
cao, dẫn đến vấn đề lựa chọn đối nghịch càng nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, lãi suất
cao làm giảm dòng tiền của doanh nghiệp, buộc họ phải tìm kiếm nguồn vốn trên
thị trường quốc tế, nơi mà vấn đề bất cân xứng thông tin xảy ra nhiều hơn. Tăng lãi
suất huy động nước ngoài kích thích lãi suất trong nước tăng có thể làm tăng nguy
cơ lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức (thể hiện bởi mũi tên từ nhân tố thứ 2
trong dòng đầu tiên của hình 1).
Thị trường tài sản ở các nước mới nổi không lớn như ở các nước phát triển, nên nó
đóng vai trò ít nổi bật hơn trong cuộc khủng hoảng tài chính. Giá tài sản trên thị
trường chứng khoán giảm làm giá trị tài sản ròng giảm và làm tăng vấn đề lựa chọn
đối nghịch. Có ít tài sản thế chấp để người cho vay có thể nắm giữ, làm gia tăng
vấn đề rủi ro đạo đức . Giá trị tài sản ròng giảm, chủ sở hữu doanh nghiệp có ít tài


sản để mất nên họ tham gia vào các hoạt động rủi ro hơn là họ đã từng làm trước
khủng hoảng. Giá tài sản giảm trực tiếp hoặc gián tiếp làm trầm trọng thêm vấn đề
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức bằng cách làm suy yếu bảng cân đối của
ngân hàng (thể hiện bởi mũi tên từ nhân tố thứ 3 trong dòng đầu tiên của hình 1)
Giống như các nước phát triển, khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái hoặc
một công ty lớn phá sản, người ta trở nên thiếu chắc chắn về lợi nhuận của các dự

án đầu tư. Ở các nước mới nổi, hệ thống chính trị nổi tiếng không ổn định cũng là
nguồn gốc của sự bất ổn. Khi những bất ổn gia tăng, sẽ trở nên khó khăn trong việc
sàng lọc những rủi ro tính dụng tốt trong số những cái xấu và khó khăn trong việc
giám sát những người đi vay, một lần nữa lại làm cho vấn đề rủi ro đạo đức và lựa
chọn đối nghich nghiêm trọng hơn (thể hiện bởi mũi tên từ nhân tố thứ 4 trong
dòng đầu tiên của hình 1).
Bước 2: Khủng hoảng tiền tệ
Những người tham gia trên thị trường ngoại hối nhận thấy một cơ hội đó là đánh
cuộc vào sự mất giá của tiền tệ có thể thu về một khoản lợi nhuận khổng lồ. Điều
này được trình bày trong chương 18, một đồng tiền được cố định so với đồng đôla
Mỹ, trở thành đối tượng của một cuộc tấn công đầu cơ. Khi tiền tệ tràn ngập thị
trường, cung vượt xa cầu, đồng tiền mất giá trầm trọng, khủng hoảng tiền tệ xảy ra
(bước 2 hình 1). Lãi suất huy động cao, bất ổn gia tăng làm giá tài sản giảm. Sự
mất cân bằng tài chính nghiêm trọng và sự suy yếu của bảng cân đối ngân hàng là
hai yếu tố chủ chốt dẫn đến tấn công đầu cơ và đẩy nền kinh tế lao vào vòng lẩn
quẩn của khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng tài chính, suy thoái.
1. Suy giảm trong bảng cân đối ngân hàng châm ngòi cho khủng hoảng
tiền tệ


Khi ngân hàng và các tổ chức tài chính khác gặp khó khăn, chính phủ có một số
lựa chọn hạn chế: bảo vệ đồng tiền bằng cách tăng lãi suất để thu hút dòng vốn
vào, nhưng nếu chính phủ tăng lãi suất ngân hàng phải trả thêm tiền để duy trì ngân
sách. Điều này làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận dẫn đến rũi ro vỡ nợ. Vì vậy, khi
hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn, chính phủ và NHTW đứng trước 1 lựa
chọn khó khăn (between a rock and a hard place): nếu tăng lãi suất nhiều, nó sẽ
phá hủy những ngân hàng vốn đã suy yếu và tiếp tục làm suy yếu thêm nền kinh tế.
Nếu không tăng lãi suất thì không thể duy trì giá trị đồng tiền.
Các nhà đầu cơ trên thị trường ngoại hối nhận ra những khó khăn ở khu vực tài
chính trong nước và việc chính phủ tăng lãi suất để bảo vệ đồng nội tệ là quá tốn

kém nên cuối cùng chính phủ chấp nhận từ bỏ và phá giá đồng nội tệ. Họ đặt cược
một điều chắc chắn rằng đồng nội tệ nhất định giảm giá, các nhà đầu cơ bắt đầu
tham gia vào trò chơi “feeding frenzy – cá lớn nuốt cá bé” và bán đồng nội tệ nhằm
tìm kiếm những khoản lợi nhuận khổng lồ. Những vụ mua bán này làm giảm dần
dự trữ ngoại hối của quốc gia vì chính phủ phải dùng nguồn ngoại tệ dự trữ để mua
nội tệ. Một khi dự trữ ngoại hối của NHTW cạn kiệt, chu kỳ kết thúc. Không còn
nguồn lực để can thiệp vào thị trường ngoại hối và chấp nhận để cho đồng nội tệ
mất giá.
2. Mất cân bằng tài chính châm ngòi cho khủng hoảng tài chính
Chúng ta có thể thấy rằng, mất cân bằng tài chính dẫn đến suy yếu bảng cân đối
ngân hàng và tạo ra cuộc khủng hoảng tiền tệ. Tuy nhiên, mất cân bằng tài chính
cũng có thể trực tiếp gây ra cuộc khủng hoảng. Khi ngân sách chính phủ thâm hụt
một cách mất kiểm soát , nhà đầu tư trong nước và nước ngoài bắt đầu nghi ngờ
về khả năng trả nợ của chính phủ, khi đó họ sẽ bán đồng nội tệ và kéo tiền ra khỏi
quốc gia. Tình hình tài chính mất kiểm soát là kết quả của cuộc tấn công đầu cơ
trên tiền tệ, mà cuối cùng dẫn đến sự phá giá đồng tiền.


Bước 3: Khủng hoảng tài chính
Ngược lại với các nước phát triển, các nước mới nổi có nhiều hợp đồng nợ ngoại tệ
(thường là USD) dẫn đến tình trạng gọi là bất cân xứng tiền tệ (currency
mismatch). Đồng nội tệ đột ngột giảm giá hoặc mất giá sẽ làm gia tăng gánh nặng
nợ bằng nội tệ của các công ty trong nước. Ví dụ như trường hợp mất giá của đồng
peso, sẽ mất nhiều peso hơn để trả cho các khoản nợ bị đôla hóa. Hầu hết công ty
đều định giá hàng hóa và dịch vụ của họ bằng đồng nội tệ, nên khi peso mất giá
làm gia tăng giá trị nợ liên quan đến tài sản và làm giảm giá trị tài sản ròng. Điều
này làm trầm trọng thêm vấn đề rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch đã trình bày
trước đó (giai đoạn 3 hình 1).
Bây giờ, chúng ta đã thấy được cấu trúc thị trường nợ ở các nước mới nổi ảnh
hưởng thế nào đến việc phá giá tiền tệ và sau đó đẩy nền kinh tế rơi vào khủng

hoảng. Một cuộc khủng hoảng tiền tệ, mà kết quả của nó là đồng nội tệ mất giá,
bảng cân đối ngân hàng suy yếu làm gia tăng rủi ro đạo đức và lựa chọn đối
nghịch. Các nhà kinh tế thường gọi cuộc khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng tài
chính là cuộc “khủng hoảng kép”.
Đồng tiền bị phá giá dẫn đến lạm phát cao, dẫn đến áp lực tăng giá nhập khẩu. Một
sự gia tăng đáng kể trong cả lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng làm lãi suất
trong nước tăng lên, kết quả làm tăng các khoản thanh toán lãi suất. Điều này đồng
nghĩa với lưu lượng tiền mặt của công ty giảm, dẫn đến vấn đề bất cân xứng thông
tin vì các công ty phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn nước ngoài để tài trợ cho việc
đầu tư. Phân tích thông tin bất cân xứng để thấy rằng rủi ro đạo đức và lựa chọn
đối nghịch gây ra sự suy giảm trong hoạt động kinh tế và hoạt động đầu tư. Như đã
chỉ ra trong hình 1, điều này có nghĩa là có nhiều con nợ không có khả năng trả nợ,
gây thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Lãi suất tăng mạnh ảnh hưởng tiêu cực đến
lợi nhuận và bảng cân đối ngân hàng, trong khi giá trị các khoản nợ bằng ngoại tệ


lại tăng do đồng tiền mất giá. Như vậy, có thể thấy, bảng cân đối ngân hàng bị siết
chặt cả hai phía: giá trị tài sản giảm trong khi giá trị nợ lại tăng.
Trong hoàn cảnh này, hệ thống ngân hàng thường phải đối mặt với cuộc khủng
hoảng ngân hàng, trong đó nhiều ngân hàng gần như phá sản (như Mỹ trong cuộc
Đại suy thoái). Khủng hoảng ngân hàng và các nhân tố góp phần vào thị trường tín
dụng giải thích cho vấn đề rủi ro đạo đức là lựa chọn đối nghịch, đồng thời cũng
giải thích cho sự sụp đổ của hoạt động kinh tế và hoạt động cho vay do hậu quả
của cuộc khủng hoảng.
Áp dụng những phân tích trên để nghiên cứu hai trong số nhiều cuộc khủng hoảng
tài chính đáng chú ý ở thị trường các nước mới nổi. Đầu tiên là xem xét cuộc
khủng hoảng của Hàn Quốc (1997 – 1998) vì nó minh họa cho trường hợp khủng
hoảng tài chính xuất phát từ: “Hệ thống quản lý yếu kém nền tự do hóa/toàn cầu
hóa tài chính”. Hai là xem xét cuộc khủng hoảng của Argentina (2001 – 2002),
theo đó cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ “Sự mất cân bằng tài chính (fiscal

imbalance)” nghiêm trọng.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH HÀN QUỐC (1997 – 1998)
Trước năm 1997, HQ là một trong những nền kinh tế thành công trong lịch sử,
từng được gọi là “Asian Miracle” – thuật ngữ dùng để chỉ một quốc gia từng rất
nghèo nàn, sau đó lại có nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1960, bảy năm
sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, thu nhập hàng năm trên đầu người ở HQ
dưới 2.000$ - ngang bằng với Somalia. Suốt giai đoạn sau chiến tranh, HQ theo
đuổi chiến lược định hướng xuất khẩu, điều này đã giúp HQ trở thành một trong
những nền kinh tế lớn nhất thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm gần 8% từ năm
1960 – 1997. Đến năm 1997, thu nhập bình quân trên đầu người ở HQ đã tăng gấp
10 lần.


Nhìn vào biểu đồ có thể thấy trước năm 1997 HQ đã đạt được những nguyên tắc cơ
bản của kinh tế học vĩ mô với tỷ lệ lạm phát dưới 5%, tăng trưởng GDP thực gần
7% và tỷ lệ thất nghiệp thấp, ngân sách chính phủ thặng dư nhẹ - điều mà hầu hết
các nước phát triển đều không thể đạt được.
1. Quản lý yếu kém nền tự do hóa/ toàn cầu hóa tài chính
Đầu những năm 90, HQ tiến hành tự do hóa thị trường tài chính bằng cách gỡ bỏ
những hạn chế đối với các tổ chức tài chính, đồng thời toàn cầu hóa thị trường tài
chính thông qua việc mở cửa thị trường vốn để thu hút nguồn vốn từ nước ngoài.
Điều này dẫn đến một sự bùng nổ cho vay, trong đó tín dụng ngân hàng ở khu vực
phi tài chính tư nhân gia tăng nhanh chóng với tỷ lệ đi vay vốn nước ngoài gần
20%/năm. Vì các chính sách điều tiết yếu kém và thiếu chuyên môn trong việc sàn
lọc, giám sát người đi vay, nên tổn thất của các khoản cho vay bắt đầu tăng lên ăn
mòn giá trị ròng của ngân hàng (vốn).

Biểu đồ tỷ lệ lạm phát ở Hàn Quốc năm 1995 – 1999



Biểu đồ tỷ lệ tăng trưởng GDP thực ở HQ năm 1995 – 1999
2. Sai lầm của quá trình tự do hóa/toàn cầu hóa tài chính: Khủng hoảng
Hàn Quốc và khủng hoảng mô hình tập đoàn kinh tế Chaebols
Lợi ích kinh doanh (powerful business interests) là một trong những nguyên nhân
dẫn đến quản lý yếu kém nền tự do hóa tài chính. Không quốc gia nào có thể minh
chứng cho điều này rõ ràng hơn trường hợp của HQ cuối những năm 90, tức là
trước khi khủng hoảng tài chính xảy ra, khi đó Chaebols thống trị nền kinh tế HQ
với doanh thu gần 50% GDP của cả nước.


Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp ở Hàn Quốc năm 1995 – 1999
Các Chaebol đóng vai trò quan trọng trong chính trị HQ và được cho rằng quá lớn
để có thể sụp đổ “too big to fail”. Được sự bảo hộ của chính phủ, các Chaebol biết
rằng họ sẽ nhận được sự hỗ trợ hoặc tín dụng trực tiếp từ chính phủ khi họ gặp rắc
rối, và có thể giữ lại toàn bộ lợi nhuận nếu họ sau đó trả hết các khoản hỗ trợ tín
dụng đó. Điều này khiến cho các Chaebol đi vay một cách điên rồ và trở thành
những tập đoàn kinh tế có đòn bẩy cao.
Những năm 90, các Chaebol không còn kiếm ra tiền. Từ năm 1993 – 1996, tỷ suất
sinh lợi trên tài sản ROA (một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi
trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp) của 30 Chaebol hàng đầu không quá 3%
(trong khi ROA của tập đoàn Mỹ lúc bấy giờ là 15 – 20%). Năm 1996, ngay trước
cuộc khủng hoảng, ROA giảm xuống mức 0.2%. Hơn nữa chỉ có 5 Chaebol là có
lợi nhuận, các chaebol còn lại ROA không bao giờ vượt quá 1%, thậm chí ROA
còn âm trong nhiều năm liền. Trước tình trạng lợi nhuận quá thấp trong khi đòn
bẩy tài chính quá cao, bất kỳ ngân hàng nào cũng sẽ muốn thu hồi (pull-back) các
khoản vay đối với các tập đoàn này nếu không có mạng lưới đảm bảo của chính


phủ. Ngân hàng biết rằng chính phủ sẽ chi trả cho các khoản vay nếu Chaebol
không có khả năng trả nợ, do đó các nhân hàng tiếp tục cho vay. Tuy nhiên nguồn

tài chính của các NHTM trong nước cũng không đủ thỏa mãn lòng tham của các
chaebol. Các chaebol cho rằng cách giúp họ thoát khỏi khó khăn đó là tiếp tục tăng
trưởng, và họ cần một lượng lớn ngân sách để thực hiện điều đó. Thậm chí khi HQ
khoe khoang rằng tỷ lệ tiết kiệm trên 30% thì cũng không đủ tài trợ cho kế hoạch
mở rộng của các chaebol. Vì vậy chaebols đã tìm đến thị trường vốn quốc tế.
Các chaebol khuyến khích chính phủ HQ đẩy nhanh quá trình mở cửa thị trường
tài chính để thu hút vốn nước ngoài. Năm 1993, chính phủ cho phép các ngân hàng
nội địa thực hiện cho vay bằng ngoại tệ, đồng thời cho phép các tổ chức tài chính
vay không giới hạn các khoản vay nước ngoài ngắn hạn nhưng lại hạn chế các
khoản vay dài hạn như là một phương tiện để quản lý dòng vốn chảy vào quốc gia.
Nhưng điều này thực ra không có ý nghĩa kinh tế. Dòng vốn ngắn hạn khiến nền
nền kinh tế ở các nước mới nổi trở nên mong manh về tài chính vì nó sẽ dể dàng
chảy khỏi quốc gia khi xuất hiện bất kỳ dấu hiệu nào của khủng hoảng. Tuy nhiên
điều này lại hoàn toàn có ý nghĩa về mặt chính trị. Các chaebol cần tiền, và sẽ dể
dàng hơn để vay vốn ngắn hạn với lãi suất thấp vì các khoản vay dài hạn sẽ đem lại
nhiều rủi ro cho các chủ nợ nước ngoài. Kết quả là các ngân hàng HQ đã mở thêm
28 chi nhánh ở nước ngoài để dể dàng tiếp cận nguồn vốn.
Mặc dù các tổ chức tài chính HQ đã tiếp cận được nguồn vốn quốc tế, nhưng các
chaebol vẫn còn 1 vấn đề. Đó là họ không được phép sở hữu ngân hàng thương
mại, do đó họ không thể nhận được tất cả các khoản vay ngân hàng cần thiết. Tuy
nhiên, có một loại hình tổ chức tài chính đặc biệt có khả năng cung cấp được các
khoản vay họ cần, đó là loại hình ngân hàng bán buôn (merchant bank). Ngân hàng
bán buôn là tổ chức tài chính thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán
(underwriting securities), cho thuê (leasing) và cho vay ngắn hạn. Thông qua việc


phát hành trái phiếu, thương phiếu và vay từ thị trường liên ngân hàng trong nước
hoặc thị trường nước ngoài để tài trợ cho các khoản vay của mình. Vào thời điểm
cuộc khủng hoảng xảy ra, các ngân hàng bán buôn được phép đi vay nước ngoài và
hầu như không bị kiểm soát. Các chaebol nhận thấy cơ hội của mình và thuyết

phục các quan chức chính phủ cho phép chuyển đổi nhiều công ty tài chính (một số
thuộc sở hữu của chaebol) thành ngân hàng bán buôn. Các ngân hàng bán buôn đã
chuyển một lượng lớn tiền cho chủ sở hữu của mình là các chaebol để đầu tư vào
các lĩnh vực không sinh lợi (unproductive) như sản xuất ô tô, thép và hóa chất. Khi
các khoản vay trở nên tệ hại, sân khấu cho cuộc khủng hoảng tài chính đã được
thiết lập.
3. Suy giảm thị trường chứng khoán và sự thất bại của các doanh nghiệp:
bất ổn gia tăng
Nền kinh tế HQ sau đó trải qua một cú sốc tiêu cực liên quan đến giá xuất khẩu
gây tổn hại đến lợi nhuận biên vốn đã rất thấp và quy mô của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ gắn liền với Chaebol. Ngày 23/01/1997, một cú sốc thứ 2 xuất hiện làm
gia tăng bất ổn cho hệ thống tài chính: tập đoàn Hanbo – chaebol lớn thứ 14 tuyên
bố phá sản. Thật vậy sự phá sản của Hanbo chỉ là khởi đầu, hơn 5 trong số 30
chaebol lớn nhất đã tuyên bố phá sản trong năm. Tình trạng xấu đi của bảng cân
đối kế toán khu vực tài chính và phi tài chính cùng với sự gia tăng các yếu tố bất
định do các vụ phá sản gây ra đã khiến cho thị trường chứng khoán giảm mạnh hơn
50% so với đỉnh của nó.
4. Vấn đề lựa chọn đối nghịch - rủi ro đạo đức và sự suy giảm tổng cầu
Sự gia tăng bất ổn, suy giảm giá trị tài sản ròng làm trầm trọng thêm vấn đề bất cân
xứng thông tin gây khó khăn trong việc sàn lọc khách hàng tốt trong số những
khách hàng xấu. Sự suy giảm trong giá trị tài sản ròng làm giảm giá trị của tài sản
thế chấp và làm gia tăng động lực để thực hiện đầu tư mạo hiểm vì sẽ bị mất ít vốn


nếu đầu tư không thành công. Sự gia tăng bất ổn và suy giảm thị trường chứng
khoán trước khủng hoảng, cùng với sự suy thoái trong bảng cân đối kế toán của
các ngân hàng, vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức làm cho hoạt động
cho vay giảm sút và nền kinh tế thu hẹp lại.
Sự suy yếu của nền kinh tế cùng với sự suy thoái bảng cân đối kế toán của ngân
hàng đủ chín mùi để dẫn nền kinh tế HQ bước vào giai đoạn tiếp theo: khủng

hoảng tiền tệ - HQ chính thức rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng.

Biểu đồ chỉ số thị trường chứng khoán Hàn Quốc năm 1995 – 1999
5. Khủng hoảng tiền tệ
Bảng cân đối kế toán yếu kém của khu vực tài chính và dòng vốn của nền kinh tế
bị dừng đột ngột, dẫn đến một cuộc tấn công đầu cơ trên tiền tệ HQ là điều không
thể tránh khỏi. Trước sự sụp đổ của đồng path Thái và 42 công ty tài chính ở Thái
Lan tuyên bố đóng cửa tháng 8/1997, khủng hoảng tài chính bắt đầu lây lan trên thị
trường, liệu rằng những vấn đề tương tự có tồn tại ở các quốc gia Đông Á khác.
Ngay sau đó, các nhà đầu cơ nhận ra rằng hệ thống ngân hàng HQ đang gặp rắc
rối, NHTW HQ không thể bảo vệ đồng tiền của họ bằng cách tăng lãi suất vì điều


này sẽ nhấn chìm những ngân hàng vốn đã quá suy yếu. Các nhà đầu cơ bắt đầu
tháo chạy khỏi đồng won, dẫn đến 1 cuộc tấn công đầu cơ.
6. Khủng hoảng tiền tệ gây ra khủng hoảng tài chính
Cuộc tấn công đầu cơ khiến đồng won mất giá nghiêm trọng, gần 50%. Vì cả công
ty tài chính và phi tài chính đều có quá nhiều khoản nợ ngoại tệ, việc đồng won
mất giá khiến giá trị các khoản nợ nước ngoài tính bằng nội tệ gần như tăng gấp
đôi, gây xói mòn giá trị tài sản ròng.
Bảng cân đối bị tàn phá khi ngân hàng trả hết các khoản vay ngoại tệ với nhiều
đồng won hơn, trong khi vẫn không thu hồi được các khoản vay bằng đồng USD
mà ngân hàng đã cho các công ty trong nước vay. Mặc khác, các tổ chức tài chính
được khuyến khích vay nợ nước ngoài ngắn hạn, khiến cho ngân hàng phải đối mặt
với vấn đề thanh khoản vì phải trả các khoản nợ này một cách nhanh chóng. Chính
phủ phải can thiệp để đảm bảo cho tất cả các khoản tiền gửi của ngân hàng và ngăn
chặn một sự hoảng loạn ngân hàng, nhưng sự mất mát vốn có nghĩa là ngân hàng
phải cắt giảm các khoản cho vay.

Biểu đồ tỷ giá hối đoái ($ per won) năm 1995 – 1999



biểu đồ lãi suất ở Hàn Quốc năm 1995 – 1999
Cắt giảm cho vay càng làm cho nền kinh tế trở nên thu hẹp hơn, GDP thực 1998
giảm còn 6%, tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh. Trong tình huống này chúng ta kỳ vọng
tỷ lệ lạm phát sẽ giảm, thay vào đó tỷ lệ lạm phát lại tăng lên. Các cuộc khủng
hoảng tiền tệ đứng đằng sau sự nghịch lý này. Cụ thể, sự sụp đổ của đồng tiền HQ
sau cuộc tấn công tiền tệ đã làm gia tăng giá nhập khẩu, trực tiếp làm lạm phát tăng
lên và làm suy giảm uy tín của ngân hàng. Do đó, lạm phát tăng mạnh từ 5 – 10%.
Lãi suất thị trường tăng vọt lên mức 20% để bù đắp cho lạm phát cao và vì ngân
hàng HQ theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt theo khuyến cáo của Quỹ tiền tệ
quốc tế. Lãi suất cao dẫn đến sụt giảm trong lưu chuyển tiền tệ, các doanh nghiệp
để có được nguồn vốn bên ngoài buộc phải tăng cường lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức trên thị trường tín dụng. Thông tin bất cân xứng trên thị trường tín
dụng, cộng với lãi suất cao đã ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định thắt chặt đầu tư –
một lý do khác khiến cho tổng cầu sụt giảm gần 10%.
7. Nền kinh tế bắt đầu phục hồi


Đầu năm 1998, cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế chúng ta thảo luận ở phần 6 đã
phát huy tác dụng, nền kinh tế bắt đầu hồi phục. Ngoài ra chính phủ HQ cũng đã
phản ứng rất tích cực với cuộc khủng hoảng bằng cách thực hiện một loạt các cải
cách giúp khôi phục niềm tin vào hệ thống tài chính. Thị trường tài chính hồi phục,
kích thích nền kinh tế, GDP thực bắt đầu tăng lên.
Khủng hoảng HQ gây ra một chi phí nhân lực quá cao, số lượng người nghèo tăng
từ 6 lên trên 10 triệu người, tỷ lệ tự tử và ly hôn tăng gần 50%, tỷ lệ nghiện ma túy
tăng 35%, tỷ lệ tội phạm tăng 15%.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở ARGENTINA 2001-2002
Khủng hoảng tài chính ở Argentina được bắt đầu bời sự mất cân bằng về tài chính
trầm trọng mà chúng ta sẽ xem xét ngay sau đây

1. Sự mất cân bằng về tài chính trầm trọng
Trái ngược với Mexico và các nước Đông Á. Argentina có 1 hệ thống ngân hàng
được giám sát rất chặt, và việc bùng nổ cho vay đã không xảy ra trước cuộc khủng
hoảng. Các ngân hàng đã ở trong tình trạng cực kì tốt trước cuộc khủng hoảng,
mặc dù một cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng đã bắt đầu vào năm 1998. Tuy nhiên,
thật không may rằng Argentina đã luôn gặp khó khăn trọng việc kiểm soát ngân
sách của mình. Ở Argentina, các tỉnh (tương tự như các tiểu bang ở Mỹ) kiểm soát
1 tỷ lệ lớn phần trăm chi tiêu công, nhưng việc kiếm ra lợi nhuận thì lại là trách
nhiệm chủ yếu của chính phủ liên bang. Với hệ thống này, các tỉnh có động lực
trong việc tiêu xài vượt quá khả năng của mình và sau đó lại nhờ đến chính phủ
liên bang định kỳ để chịu trách nhiệm cho khoản nợ của họ. Vì vậy, Argentina luôn
bị thâm hụt ngân sách.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu vào năm 1998 đã làm tình hình trở nên tệ hơn bởi vì nó
làm giảm thu nhập chịu thuế (tax revenues) và dẫn đến 1 khoảng cách ngày càng


lớn giữa chi tiêu chính phủ và thuế. Sự mất cân đối về tài chính diễn ra sau đó
nghiêm trọng đến mức chính phủ gặp khó khăn trong việc thuyết phục cả người
dân trong nước và nước ngoài mua đủ số lượng trái phiếu, nên Argentina đã cưỡng
chế các ngân hàng trong việc tiêu thụ 1 số lượng lớn nợ chính phủ. Cho đến năm
2001, các nhà đầu tư đã bắt đầu mất niềm tin vào khả năng chi trả số nợ này của
chính phủ Argentina. Giá của khoảng nợ giảm mạnh, để lại nhiều lỗ hỏng trong
bảng cân đối của các ngân hàng. Hệ thống ngân hàng đã từng được xem là 1 trong
những hệ thống mạnh và được kiểm soát nghiêm ngặt nhất trong số các thị trường
mới nổi bây giờ đang bắt đầu mất đi tiền gửi.
2. Lựa chọn đối nghịch và vấn đề rủi ro đạo đức trở nên tệ hơn
Sự thoái hóa của các bảng cân đối ngân hàng và sự mất đi các khoản tiền gửi đã
khiến các ngân hàng phải giảm đi số lượng tiền cho vay. Vì vậy, lựa chọn đối
nghịch và các vấn đề rủi ro đạo đức trở nên tệ hơn. Giống như trường hợp của Hàn
Quốc, việc cắt giảm tiền cho vay bắt nguồn từ sự gia tăng trong vấn đề thông tin

bất cân xứng đã dẫn đến sự thu hẹp lại của nền kinh tế, vợi lạm phát và sản lượng
giảm đi, thất nghiệp tăng, có thể thấy trong biểu đồ 8,9,10.
Sự yếu đi của nền kinh tế và suy thoái của các bảng cân đối ngân hàng đã mở
đường cho giai đoạn tiếp theo của cuộc khủng hoảng- một cuộc hoảng loạn ngân
hàng.
3. Hoảng loạn ngân hàng bắt đầu
Vào tháng 10-2001, các cuộc đàm phán giữa chính quyền trung ương và các tỉnh
nhằm cải thiện tình hình tài chính thất bại, và thu nhập chịu thuế tiếp tục giảm
cùng với nền kinh tế sa sút. Khả năng không trả được nợ trái phiếu chính phủ là
không thể tránh khỏi. Vì vậy, 1 cuộc hoảng loạn ngân hàng hoàn toàn đã bắt đầu
vào tháng 11, với dòng tiền gửi tháo chạy khỏi ngân hàng khoảng 1 tỷ USD/ngày.


Đầu tháng 12, chính phủ bị thúc ép phải đóng cửa các ngân hàng tạm thời và đặt ra
1 giới hạn gọi là Corralito (hàng rào nhỏ), dưới chính sách này người gửi tiền chỉ
có thể rút ra 250$ tiền mặt/tuần. Chính sách Corralito đặc biệt gây khó khăn cho
người nghèo, những người vô cùng phụ thuộc vào tiền mặt để thực hiện các
khoảng giao dịch hằng ngày. Cơ cấu xã hội của Argentina bắt đầu bị tan rã.
Khoảng 30 người đã chết trong các cuộc bạo động.

Sơ đồ lạm phát ở Argentina 1998-2004 (trong sách)
4. Cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra sau đó
Cuộc hoảng loạn ngân hàng đã đưa ra tín hiệu rằng chính phủ không còn khả năng
giữ mức lãi suất cao nhằm chống đỡ giá trị của đồng peso và duy trì chế độ tiền tệ,
một cuộc sắp xếp nhằm cố định giá trị 1 đồng peso của Argentina bằng 1 USD
bằng việc chấp thuận mua và bán các đồng peso ở tỷ giá trao đổi đó (sẽ được thảo
luận vào chương 19). Việc gia tăng mức lãi suất để duy trì chế độ tiền tệ đã không
còn là 1 giải pháp nữa, bởi vì điều đó có nghĩa là sẽ phá hủy các ngân hàng đã suy
yếu sẵn. Tại thời điểm này, công chúng đã nhận thấy rằng đồng peso sẽ bị mất giá
trong tương lai gần nên 1 cuộc tấn công đầu cơ bắt đầu, trong đó người ta bán đồng



peso để đổi lấy USD. Bên cạnh đó, tình hình tài chính thảm thương của chính phủ
khiến họ không đủ khả năng để trả nợ, tạo ra 1 nguyên ngân nữa khiến cho các nhà
đầu tư rút tiền ra khỏi đất nước dẫn đến việc gia tăng lượng bán đồng peso.

Tăng trưởng GDP thực ở Argentina năm 1998 – 2004

Tỷ lệ thất nghiệp ở Argentina năm 1998 – 2004


Vào 23/12/2001 Chính phủ đã công bố 1 điều tất nhiên: đình chỉ việc trả các khoản
nợ bên ngoài trong vòng ít nhất 60 ngày sau đó vào 2/1/2002 chính phủ đã từ bỏ
chế độ tiền tệ.
5. Khủng hoảng tiền tệ châm ngòi cho khủng hoảng tài chính chính thức
Đồng peso hiện tại đã rơi vào tình trạng rơi tự do, giảm từ 1 USD xuống ít hơn 0.3
USD vào tháng 6/2002 và sau đó ổn định trong khoảng 0.33 USD, có thể thấy
trong hình 11. Bởi vì Argentina có tỉ lệ % các khoản nợ bằng tiền USD lớn hơn
các nước bị khủng hoảng khác, ảnh hưởng của việc đồng peso bị phá giá là đặc biệt
nghiêm trọng. Với việc đồng peso giảm đến 1/3 giá trị trước cuộc khủng hoảng, tất
cả các khoản nợ bằng USD tăng gấp 3 tính bằng đồng peso. Vì các khu vực có thể
giao dịch của Argentina rất nhỏ, hầu hết các doanh nghiệp định giá sản xuất bằng
peso. Nếu họ phải trả các khoản nợ bằng USD của mình, hầu hết các doanh nghiệp
sẽ bị phá sản. Với môi trường này, thị trường tài chính không thể hoạt động bởi vì
giá trị ròng sẽ không sẵn sàng để làm dịu bớt sự lựa chọn đối nghịch và các vấn đề
rủi ro đạo đức.
Với sự mất mát trong các khoản nợ chính phủ và tiền cho vay giảm đi, bảng cân
đối các ngân hàng Argentina ở trong tình trạng bấp bênh. Hơn nữa, việc hoạt động
các ngân hàng đã dẫn đến số lượng lớn tiền gửi bị rút ra. Vì thiếu các nguồn tài
nguyên để đưa ra các khoản cho vay mới, các ngân hàng không còn đủ khả năng để

giải quyết sự lựa chon đối nghịch và các vấn đề rủi ro đạo đức. Trái phiếu chính
phủ cố định và tình hình của thị trường tài chính của Argentina cũng đồng nghĩa
với việc người nước ngoài không sẵn sàng cho vay và đang rút tiền của họ ra khỏi
Argentina.
Với hệ thống tài chính trong nguy cơ khủng hoảng, các dòng chảy tài chính đã bị
ngừng lại. Việc dừng cho vay vì điều này đã dẫn đến 1 sự thu hẹp rộng hơn của
nền kinh tế. Chính sách Corralito cũng đóng vai trò lớn trong việc làm yếu đi nền


kinh tế bằng việc khiến cho việc sở hữu tiền mặt trở nên khó khăn hơn. Nó đã gây
ra sự sụt giảm mạnh trong nền kinh tế ngầm vốn rất lớn ở Argentina và hoạt động
chủ yếu bằng tiền mặt.

Tỷ giá hối đoái đồng USD/Peso năm 1998 – 2004
Giống như Hàn Quốc, sự sụp đổ của đồng tiền Argentina diễn ra sau cuộc tấn công
đầu cơ thành công đã dẫn đến sự gia tăng giá nhập khẩu, điều đã trực tiếp dẫn đến
lạm phát và làm giảm đi độ tin cậy của ngân hàng trung ương Argentina trong việc
giữ lạm phát ở mức kiểm soát được. Thật như vậy, việc Argentina đã từng có mức
lạm phát rất cao trong quá khứ đồng nghĩa với việc sẽ có 1 mức lạm phát được dự
báo còn cao hơn nữa so với Hàn Quốc, ở Argentina điều này có nghĩa rằng không
chỉ sản lượng giảm mà lạm phát cũng sẽ gia tăng nhiều hơn hẳn những gì đã diễn
ra trong cuộc khủng hoảng tài chính ở Hàn Quốc.
Lạm phát ở Argentina gia tăng tới 40% ở mức hàng năm ( có thể thấy ở bảng 8).
Bởi vì sự gia tăng trong mức lạm phát thực đi kèm với 1 sự gia tăng trong mức lạm
phát dự kiến, mức lãi suất gia tăng còn cao hơn nữa ( có thể thấy ở bảng 12). Việc
trả lãi cao hơn dẫn đến sự giảm đi trong dòng tiền mặt của hộ gia đình và doanh
nghiệp, họ phải tìm các nguồn tài trợ từ bên ngoài để cấp tiền cho đầu tư của họ …


bởi vì sự mất ổn định trong thị trường tài chính với các vấn đề thông tin bất cân

xứng đặc biệt nghiêm trọng, và điều này có nghĩa rằng các dự án đầu tư sẽ không
tìm được vốn tài trợ.
Hộ gia đình và doanh nghiệp giảm đi số tiền chi tiêu của họ nhiều hơn nữa.Như
các nhà phân tích tổng cầu và tổng cung dự báo, nền kinh tế của Argentina bị suy
sụp. Trong quý đầu/2002 bảng 9 cho thấy rằng sản lượng đã giảm ở mức độ hàng
năm trên 15% và bảng 10 đã thể hiện rằng thất nghiệp gia tăng lên đến gần 20%.
Sự gia tăng trong nghèo đói đặc biệt trầm trọng: % dân số nghèo của Argentina lên
đến gần 50% trong 2002. Argentina đang phải trải qua cuộc khủng hoảng trầm
trọng nhất trong lịch sử- Cuộc khủng hoảng trầm trọng như, và có thể còn tệ hơn
đại khủng hoảng của Mỹ
6. Bắt đầu phục hồi
Giống như Hàn Quốc, cơ chế tự điều chỉnh được thiết lập, được hỗ trợ bởi sự gia
tăng trong giá hàng hóa ở các nước còn lại của thế giới đã dẫn đến sự gia tăng cho
hàng hóa xuất khẩu của Argentina . Đến cuối năm 2003, bảng 9 cho thấy rằng tốc
độ phát triển kinh tế vào khoảng 10% hàng năm và bảng 10 cho thấy rằng thất
nghiệp đã giảm xuống dưới 15%. Lạm phát cũng giảm xuống dưới 5% như có thế
thấy trong bảng 8.
Mặc dù chúng ta đã rút ra được sự phân biệt rõ rang giữa khủng hoảng tài chính ở
các nến kinh tế đang phát triển so với các nền kinh tế đã phát triển, ở những nước
đã phát triển đã diễn ra những cuộc khủng hoảng tài chính và có nhiều điểm chung
với các nước kinh tế thị trường đang phát triển.
NGĂN CHẶN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở NỀN KINH TẾ MỚI NỔI.


Những kiến thức về khủng hoảng tài chính ở nền kinh tế mới nổi được trình bày
trong chương này gợi ý nhiều chính sách của chính phủ có thể giúp khủng hoảng
tài chính ở những nước có nền kinh tế mới nổi ít khả năng xảy xa.
1. Bổ sung những quy định về an toàn và giám sát của ngân hàng.
Như chúng ta đã thấy, khu vực ngân hàng nằm trong nguồn gốc gây nên cuộc
khủng hoảng tài chính ở những nước có nền kinh tế mới nổi. Nhằm ngăn chặn cơn

khủng hoảng, vì vậy, chính phủ phải hoàn thiện những quy định về sự an toàn và
giám sát của ngân hàng để giới hạn rủi ro mà những ngân hàng nhận lấy. Đầu tiên,
những người điều phối phải đảm bảo rằng ngân hàng giữ một khoảng dự trữ vượt
trội để giảm nhẹ những tổn thất từ những cú sốc kinh tế, và cho những người sở
hữu ngân hàng một sự động cơ để theo đuổi những khoảng đầu từ an toàn hơn. Vì
họ có nhiều hơn mất mát.
Theo một bài báo tài chính, khi một nền kinh tế tiên tiến như là một nền kinh
tế mới nổi: Cuộc khủng hoàng tài chính của Iceland năm 2008.
Khủng hoảng tài chính và sự thu hẹp về kinh tế trên đất nước Iceland được bắt
đầu vào năm 2008 theo một kịch bản của cuôc khủng hoảng tài chính ở nền kinh
tế mới nổi, một sự cắt giảm đáng kể những chương trình (events) đối với một
quốc gia nhỏ và giàu có, Iceland là một trong những quốc gia có mức sống cao
nhất thế giới.
Như là một phần của tiến trình tự do hóa tài chính, vào năm 2003 chính phủ
Iceland bán ngân hàng sở hữu nhà nước cho những nhà đầu tư địa phương mà có
tầm ảnh hưởng lớn trong ngành ngân hàng Iceland. Các nhà đầu tư này thành lập
các chi nhánh ở nước ngoài nhằm thu hút tiền gửi ngoại tệ từ hàng ngàn hộ gia
đình người Anh và Hà Lan và vay mượn rất nhiều từ thị trường vốn bán buôn
(wholesale) ngắn hạn, nơi mà có tín dụng bằng ngoại tệ dư giả và rẻ. Họ chuyển


×