Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Maclenin: tìm hiểu một số biểu hiện tuân theo quy luật khách quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.56 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

Contents

A. LỜI NÓI ĐẦU

Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa
dạng. Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật
chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là
đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất
quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất. Trước
năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế trì trệ, một
hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng và đầy đủ
về mối quan hệ giữa vận chất và ý thức. Vấn đề này đã được nhận thực đúng
sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng lợi sau khi đã
chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này là 1 ví dụ cho
chúng ta thấy sự quan trọng của quy luật khách quan. Và hôm nay chúng em xin
làm bài tiểu luận về đề tài: “Tìm hiểu một số biểu hiện, hoạt động không tôn
trọng
quy
luật
khách
quan

hậu
quả
của
nó”.


1


CHƯƠNG I : CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1. Quan điểm của duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
1.1.1. Phạm trù vật chất
Quan niệm của Marx và Ăngghen về vật chất. Có thể nói trước khi có định
nghĩa về vật chất của Lenin thì Marx và Ăngghen chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể
nào về vật chất, mà chỉ dừng ở mức độ khái quát, mang tính chất chung chung, như “
vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức, con người có khả năng nhận thức thế
giới”, “vật chất là khách quan”, “thực tại khách quan”, “tồn tại khách quan” thể hiện
ở trong các tác phẩm:”Lút vích Phơ Bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”,
“ Chống Đuy rinh”, “Biện chứng của tự nhiên”…
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của Mác và Ăng ghen, tổng kết những
thành tựu của khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XĨ đầu thế kỉ XX và từ nhu cầu của cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm. Lenin đã định nghĩa:
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. [Lê-nin toàn tập, T 18, trang 158].
Định nghĩa phạm trù vật chất của Lê-nin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuocj vào
ý thức, bất kể sự tồn tại ấy của con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức
được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác
đọng len giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.

2



1.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức
tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Ph.Ăngghen viết: “Vận động,
hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất,
là một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” (C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.519.)
Các hình thức vận động của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen phân chia
vận động thành năm hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của
nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh…
- Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải
của các chất.
- Vận động sinh vật là vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng
hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa…
- Vận động xã hội là sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa…của đời sống xã hội.
Các hình thức vận động cơ bản trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độ thấp
đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động
khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với
nhau trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của
mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao
giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có. Sự phân chia các
hình thức vận động chỉ mang tính tương đối, mà giữa chúng có sự thống nhất với

nhau. Trong tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận
động khác nhau. Đó là vận động và đứng im; Không gian và thời gian là những hình
thức tồn tại của vật chất.
1.1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa học,
chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng bản thân của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở các điểm cơ bản sau:
* Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là
cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
* Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra
và không bị mất đị.
3


* Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc
vật chất và chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của vật chất.
Nhận thức trên có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ định hướng cho con người
giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho việc tiếp tục nhận thức
tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của quá trình
tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội
* Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ của con người với thế giới
khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh năng động, sáng tạo.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc

người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ
não người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Bộ óc càng hoàn
thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức con người càng
phong phú và sâu sắc. Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình độ phản xạ, bản năng,
tâm lý động vật, trong khi đó bộ óc người có khả năng phản ánh thế giới bằng tư duy
trừu tượng.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản
ánh năng động, sáng tạo: Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan,
thông qua hoạt động của các giác quan, thế giới khách quan tác động đến bộ óc
người, hình thành quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại với nhau giữa chúng.Những đặc điểm được tái
tạo ở dạng vật chất nhận sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất
tác động được gọi là cái phản ánh; còn dạng vật chất tác động được gọi là cái được
phản ánh. Cái phản ánh và cái được phản ánh không tách rời nhau, không đồng nhất
với nhau. Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ
là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó ở một dạng vật chất khác.Phản
ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất và được thể hiện dưới nhiều hình thức,
những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật
chất vô sinh được thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua
lại với nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ
động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
4


Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên
hữu sinh được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được
thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.

Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình
thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức
cao nhất là bộ óc người. Là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý
thông tin để tạo ra các thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh
này được gọi là ý thức. Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh của vật chất.
* Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy
nhiên, ý thức không phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng
phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách quan. Ngoài ra còn
phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên
nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người; là quá trình trong đó
bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với
giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan,
làm cho thế giới khách quan bộc lộ ra những thuộc tính, những kết cấu, những quy
luật vận động của nó biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có
thể quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác quan, tác
động vào bộ óc con người, tạo ra khả năng hình thành những tri thức nói riêng và ý
thức nói chung.Lao động còn là quá trình phát triển bản thân con người, biến vượn
thành người. Trong lao động con người phải suy nghĩ, tính toán đề ra mục đích, tìm
kiếm phương pháp và phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm thành
công và thất bại. Đó chính là phương thức phát triển của ý thức.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan thông qua quá trình lao động
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý
thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.Sự ra đời của ngôn
ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động
làm nảy sinh nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt, nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy
sinh.Ngôn ngữ là công cụ của tư duy trừu tượng, là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất, nhờ ngôn ngữ con người có thể tổng kết tri thức, kinh nghiệm, truyền đạt tư

tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Tóm lại: ý thức ra đời do hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên, đó là kết quả sự
tiến hóa của bộ não và thuộc tínhh phản ánh của nó. Nguồn gốc xã hội của ý thức là
lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên là tiền đề vật chất không thể thiếu được của
ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự ra đời
của ý thức.
5


1.2.2. Bản chất và kết cấu của ý thức
*Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu
óc con người, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn
giản, máy móc. Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng
phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả năng
biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô
hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của
thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức
biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải biến
thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức,
nhu cầu…) của con người. Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”
(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35)
Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của
ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các quy luật
sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các
điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức sáng
tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

*Kết cấu của ý thức
- Khái niệm ý thức ( từ giác độ rộng nhất và sơ khai nhất là toàn bộ đời sống
bình thản của con người).
- Những yếu tố cơ bản cấu thành ý thức, ý thức cá nhân, ý thức xã hội; tri thức
và tiềm thức,…
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
* Vai trò của vật chất đối với ý thức
- Vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự
phản ánh đối với vật chất.
- Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức
là sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất.
- Vật chất là nhân tố quyết định phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức
trong hoạt động thực tiễn.
* Vai trò của ý thức đối với vật chất
- Tác dụng phản ánh thế giới khách quan
- Tác dụng cải tiến sáng tạo thế giới khách quan
6


- Giới hạn và điều kiện tác dụng năng động sáng tạo của ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Tôn trọng khách quan; nhận thức và hành động theo quy luật khách quan.
- Phát huy năng động chủ quan; phát huy vai trò của ý thức khoa học và cách
mạng trong hoạt động thực tiễn.
- Tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và phát huy năng
động chủ quan trong hoạt động thực tiễn.
CHƯƠNG II. MỘT SỐ BIỂU HIỆN, HOẠT ĐỘNG, KHÔNG TÔN TRỌNG
QUY LUẬT KHÁCH QUAN VÀ HẬU QU,Ả CỦA NÓ
2.1. Trong kinh tê - xã hội
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất

nước, nền kinh tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng. Cơ sở vật chất kĩ thuật
yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp…sản xuất nông
nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân, nguyên liệu cho công nghiệp,
hàng hoá cho xuất khẩu, ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ.Ở miền
nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn, nông nghiệp bị hoang hoá ở
nhiều vùng… Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu
và kế hoạch 5 năm 1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá khả năng
kinh tế 1975 phấn đấu đạt 21triệu tấn lương thực 1triệu tấn cá biển,1triệu ha
khai hoang,1triệu 200 ha rừng mới10 triệu tấn than sạch…ngoài ra còn đề xuất
xây dựng thêm các cơ sở mới về công nghiệp như cơ khí và đặc biệt là phải cải
tạo Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền nam. Những chủ trương chính sách sai lầm đó đã
gây tổn hại đến nền kinh tế cuộc sống nhân dân…đến hết 1980,nhiều chỉ tiêu đề
ra chỉ đạt được 50-60%,nền kinh tế tăng trưởng chậm,tổng sản phẩm xã hội bình
quân là 1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ, đồng
thời cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985 . Chúng ta
chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế,cải tạo Xã Hội Chủ
Nghĩa và quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm mới rong lĩnh vực phân phối
lưu thông.Nhìn chung vẫn chưa đạt được mục tiêu đại hội V đề ra.
7


Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn
đến sự trì trệ của nền kinh tế do chiến tranh,bối cảnh quốc tế…song chúng ta
vẫn mắc sai lầm chủ quan trong việc quản lý cán bộ,phát triển lực lượng sản
xuất.
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất,thấy rõ tác
động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép
biện chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị
đào thải.

2.2. Trong lĩnh vực tự nhiên
Hiện nay, nguồn lợi thủy sản ngày một mất dần về số lượng và thành phần loài
do có rất nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân chính làm ảnh hưởng
đến sự giảm sút về sản lượng thuỷ sản là việc sử dụng xung điện để khai thác thuỷ
sản tại các sông, hồ, đồng ruộng,…
Từ đầu mùa lũ, một số người dân các huyện Tân Thạnh, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng
của tỉnh Long An đã dùng xung điện bắt cá trong ruộng và kênh rạch nội đồng. Đến
thời điểm nước lũ rút, nhiều người dùng ghe và cào điện xuống tận lòng sông để đánh
cá.
Và hậu quả của nó là:




Làm chết hầu hết các loài thuỷ sản, thuỷ sinh trong vùng nước.
Huỷ hoại nơi sinh sống, kiếm mồi, sinh sản của các loài thuỷ sản.
Việc sử dụng bình ắc quy và bộ kích điện để đánh bắt cá đã xuất hiện từ lâu và
đang trở thành công cụ mưu sinh của nhiều gia đình trong vùng lũ. Người dân có
thể tự mua bình ắc quy và dây điện về tự chế tạo hoặc mua bộ kích điện bán sẵn
với giá chưa tới 2 triệu đồng/bộ. Việc đánh bắt thủy sản bằng xung điện rất đơn
giản, chỉ cần kích điện là tất cả các loại cá lớn, nhỏ trong bán kính 2 - 3m đều bị

chết hoặc nổi lên mặt nước. Sau đó, người dân dùng lưới, vợt để vớt cá, tôm.
• Không chỉ dùng bình ắc quy nhỏ, nhiều người còn sử dụng cào điện công suất
lớn, trang bị cả ghe, lưới để quét sạch các loại thủy sản trên diện rộng. Trung

8


bình mỗi ngày người sử dụng xung điện bằng bình ắc quy cầm tay có thể bắt

được gần chục kilogam thủy sản các loại, còn với các ghe cào điện thì số thủy
sản thu được tăng lên từ 3 -5 lần. Chính do cách khai thác tận diệt này mà nguồn
lợi thủy sản trên các kênh, rạch vùng Đồng Tháp Mười bị suy giảm đáng kể và
đứng trước nguy cơ cạn kiệt.
• Các dụng cụ xung điện không chỉ tận diệt nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên mà
còn là “lưỡi hái tử thần” đe dọa tính mạng người đi đánh bắt cá. Trường hợp anh
Võ Thành Đô, , ở ấp 2, xã Tân Trạch, huyện Cần Đước là một ví dụ. Anh Đô dù
đã có công việc ổn định nhưng lại có sở thích bắt cá đồng về ăn cùng bạn bè. Một
ngày cuối tháng 9, trong lúc dùng bộ kích điện mua sẵn để bắt cá ở ao nước gần
nhà, anh Đô bị điện giật gây tử vong, để lại người vợ trẻ và đứa con trai mới 3
tuổi.
Ông Nguyễn Văn Trung, Phó Chủ tịch xã Tân Trạch, huyện Cần Đước cho
biết: Dù đã được cảnh báo về sự nguy hiểm của việc sử dụng xung điện đánh bắt
thủy sản, thậm chí bị tịch thu bình ắc quy, cần kích điện nhưng một số người dân
vẫn cố tình vi phạm. Trong thời gian tới, chính quyền xã sẽ phối hợp với các ban
ngành, đến từng nhà tuyên truyền để người dân bỏ nghề đánh bắt cá bằng xung điện;
đồng thời có biện pháp hỗ trợ người dân chuyển đổi nghề nghiệp để giảm thiểu nguy
cơ cạn kiệt nguồn thủy sản và đảm bảo tính mạng cho người dân.

9


C. KẾT LUẬN

Trong thời kì đổi mới của nước ta, khi chuyển từ kinh tế tập trung, quan liêu
sâng nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội, chủ
nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan. Phải vận dụng tốt, đúng đắn các quy luật
thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân trong từng bước ổn định và nâng cao, chế độ XHCN ngàu càng

được củng cố và đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang có
những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

10



×