Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.55 KB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: QUẢN TRỊ KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2

Đề tài: Mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu
Nhóm: 03.
Lớp: Quản trị kinh doanh TMQT 2(116) _
1.
Chuyên ngành: Thương mại quốc tế.
Giảng viên: Nguyễn Quang Huy


Hà Nội, 2016
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3
1. Bùi Mai Hiên .........................................................................................11131285
2. Nguyễn Thị Lan Hương .......................................................................11131829
3. Mai Thu Phương ...................................................................................11133208
4. Quách Thị Minh Thương .....................................................................11133908
5. Nguyễn Thị Hoàng Yến ........................................................................11134660


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Vận chuyển là một điều kiện không thể thiếu trong Thương mại quốc tế. Đặc biệt
trong thời đại hội nhập ngày nay, khi mà quá trình sản xuất trong nước gắn chặt với
những diễn biến của nền kinh tế thế giới thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Và muốn
cho quá rình thông thương hàng hóa phát triển một cách trôi chảy thì phải cần có các dịch


vụ vận chuyển. Có nhiều lựa chọn vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu như bằng đường
biển, đường hàng không, đường sắt, đường bộ… Trong đó, vận chuyển bằng đường biển
chiếm tới 90% tổng khối lượng hàng hóa xuất nhập của thế giới. Bên cạnh những ưu
điểm mà vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đem lại thì nó luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Các rủi ro này có thể do các yếu tố tự nhiên, yếu tố kỹ thuật hoặc yếu tố xã hội, con
người. Trong lịch sử loài người đã có nhiều biện pháp chống lại nhưng tác động xấu trên,
tuy nhiên thực tế cho thấy biện pháp hữu hiệu nhất là mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất
nhập khẩu. Mặt khác, trong nền kinh tế “phẳng”, ngành bảo hiểm ra đời không những đáp
ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho chủ hàng mà còn góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh
tế quốc tế thông qua con đường thương mại và có ảnh hưởng sâu sắc đến vấn đề kinh tế xã hội cho cả hai nước tham gia Thương mại quốc tế. Vì vậy, mua bảo hiểm cho hàng
hóa xuất nhập khẩu đặc biệt là với vận chuyển bằng đường biển là sự cần thiết khách
quan, đến nay đã trở thành tập quán thương mại quốc tế.


I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM, RỦI RO, TỔN THẤT HÀNG HÓA
1. Khái niệm bảo hiểm hàng hóa
Bảo hiểm chính là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm đối với người
được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro đã
thoả thuận gây ra với điều kiện người được bảo hiểm góp cho người bảo hiểm một khoản
tiền gọi là phí bảo hiểm.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thì người được bảo hiểm có
thể là người mua hoặc người bán tuỳ theo điều kiện thương mại và điều kiện cơ sở giao
hàng quy định trong hợp đồng mua bán mà hai bên đã thoả thuận với nhau. Đối tượng
bảo hiểm ở đây chính là hàng hoá đã được mua bảo hiểm.
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển
Ngành bảo hiểm đã ra đời do có sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà con người
không thể khống chế được. Nếu có những rủi ro xảy ra mà không có các khoản bù đắp
thiệt hại kịp thời của các nhà bảo hiểm, đặc biệt là những rủi ro mang tính thảm hoạ gây
ra tổn thất rất lớn thì chủ tàu và chủ hàng gặp rất nhiều khó khăn về tài chính trong việc

khắc phục hậu quả do các rủi ro đó gây ra. Vì vậy, sự ra đời và việc tham gia bảo hiểm
cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trở thành một nhu cầu rất cần
thiết và nó có những tác dụng sau:
Thứ nhất, giảm bớt rủi ro cho hàng hoá do hạn chế tổn thất nhờ tăng cường bảo
quản kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế
quốc dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi các đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu nhập hàng theo giá FOB, CIF, xuất theo giá CIF, CIP sẽ tạo ra khả
năng cạnh tranh của bảo hiểm trong nước với nước ngoài. Nhờ có hoạt động bảo hiểm
trong nước các chủ hàng không phải mua bảo hiểm ở nước ngoài, nói cách khác là không
phải xuất khẩu vô hình.


Thứ ba, khi các công ty có tổn thất hàng hoá xảy ra sẽ được bồi thường một số
tiền nhất định giúp họ bảo toàn được tài chính trong kinh doanh. Số tiền chi bồi thường
của các công ty hàng năm là rất lớn chiếm khoảng 60%-80% doanh thu phí bảo hiểm.
Thứ tư, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành nguyên
tắc thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng hoá xuất nhập khẩu gặp rủi
ro gây ra tổn thất các bên tham gia sẽ được công ty bảo hiểm giúp đỡ về mặt pháp lý khi
xảy ra tranh chấp với tàu hoặc các đối tượng có liên quan.
3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá được chuyên
chở là rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển càng được khẳng định rõ nét:
Một là, hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay nhiều quốc
gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không trực tiếp áp tải được
hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm cho hàng hoá. Ở đây,
vai trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá do
thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất cắp,

cướp biển, bão, lốc, sóng thần.... vượt quá sự kiểm soát của con người. Hàng hoá xuất
nhập khẩu chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển đặc biệt ở những nước quần đảo
như Anh, Singapore, Nhật, Hồng Kông... do đó phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu.
Ba là, theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất
của hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đường biển, rất
nhiểu rủi ro các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngày cả các công ước quốc tế
cũng quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho người chuyên chở (Hague, Hague
Visby, Hamburg....). Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu.


Bốn là, hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hoá có giá trị cao, những
vật tư rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt hại do các rủi ro
có thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một nhu cầu cần
thiết.
Năm là, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó việc
tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã trở
thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong thương mại
quốc tế.
4. Rủi ro

Định nghĩa
Rủi ro là khả năng có thể gây ra hư hỏng, thiệt hại hoặc hủy hoại đối tượng được

4.1.

bảo hiểm.

Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư
hỏng hàng hoá và phương tiện chuyên chở.
Phân loại

4.2.

Trong hoạt động hàng hải có nhiều loại rủi ro khác nhau làm thiệt hại đến hàng
hoá và phương tiện vận chuyển. Người ta có thể phân loại rủi ro dựa trên các căn cứ khác
nhau:
4.2.1.

Căn cứ vào nguyên nhân gây ra tổn thất, rủi ro được chia làm 3 loại:
-

-

Rủi ro do thiên tai gây ra như biển động, bão lốc, sóng thần, thời tiết quá xấu.

Rủi ro do tai nạn bất ngờ ngoài biển như: bao gồm rủi ro do mắc cạn, chìm đắm, mất tích,
đâm va với tàu khác…

-

Rủi ro do con người gây ra: các rủi ro như ăn trộm, ăn cắp, chiến tranh, đình công, bắt
giữ, tịch thu…

4.2.2. Căn cứ vào nghiệp vụ bảo hiểm, rủi ro được chia làm 3 loại:


Loại 1: Những rủi ro thông thường được bảo hiểm, bao gồm:

-

Rủi ro mắc cạn: Tàu bị chạm đáy vào chướng ngại vật nào đó mà không thể tiếp tục hành
trình được nữa.

-

Rủi ro chìm đắm: Do nguyên nhân nào đó mà tàu bị chìm xuống biển hoặc bị đắm do
sóng thần, bão tố, không thể tiếp tục hành trình được nữa, hàng hoá trên tàu bị hư hại.

-

Rủi ro đâm va: tàu bị đâm, va phải chướng ngại vật trên biển (đá ngầm, công trình xây
dựng, tàu thuyền khác) dẫn đến hư hỏng, hành trình bị gián đoạn.
-

-

Rủi ro cháy nổ.

Rủi ro do thiên tai: là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển động, bão, lốc,
sét, thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được.
Cách phân loại này giúp cho các chủ hàng cũng như các công ty bảo hiểm dễ dàng
nhận biết các loại rủi ro để đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Loại 2: Những rủi ro không được bảo hiểm (Rủi ro loại trừ):

-

Rủi ro xảy ra do hành vi cố ý của thuyền trưởng, thuỷ thủ và những người có liên quan


-

những hao hụt tự nhiên.
Rò rỉ thông thường hoặc hao hụt trọng lượng, giảm thể tích thông thường hoặc biến chất

-

của đối tượng được bảo hiểm.
Mất mát, hư hại hay chi phí do tàu bè không đủ khả năng đi biển, phương tiên vận
chuyển hay container, toa hàng không thích hợp cho việc chuyên chở an toàn đối với đối

-

tượng bảo hiểm.
Mất mát, hư hại gây ra bởi chậm trễ, ngay cẩ khi chậm trễ xảy ra do một rủi ro khác được

-

bảo hiểm.
Mất mát, hư hại hoặc chi phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu vốn về

-

tài chính từ người chủ, người quản lý, người thuê tàu,…
Mất mát, hư hại hoặc chi phí phát sịnh do sử dụng các loại vũ khí chiến tranh dùng tới
phản ứng hạt nhân, năng lượng nguyên tử hoặc chất phóng xạ
- Chiến tranh, đình công…
Loại 3: Những rủi ro đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo loạn, cướp biển thường
không được bảo hiểm, nhưng nếu chủ hàng có yêu cầu, sẽ được nhận bảo hiểm kèm theo



rủi ro thông thường được bảo hiểm với điều kiện trả thêm phụ phí đặc biệt chứ không
nhận bảo hiểm riêng cho các rủi ro đặc biệt.
Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc phân
biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác
định được rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những tổn
thất nào có nguyên nhân trực tiếp là những rủi ro được bảo hiểm gây ra thì mới được bảo
hiểm bồi thường.
5. Tổn thất

Định nghĩa

5.1.

Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là
những thiệt hại hư hỏng của hàng hoá được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
Phân loại

5.2.

5.2.1. Căn cứ vào quy mô và mức độ của tổn thất: người ta chia ra tổn thất bộ phận và tổn thất

toàn bộ.
Tổn thất bộ phận: Là một phần của đối tượng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo
hiểm bị mát mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận được chia ra các trường hợp sau:

-

-


Giảm về số lượng: Hàng hoá bị thiếu bao thiếu kiện.

-

Giảm về trọng lượng: Hàng hoá còn nguyên bao nhưng bị mốc rách.

Giảm về giá trị: Số lượng, trọng lượng của hàng hoá có thể còn nguyên nhưng giá trị thì
không còn được như lúc đầu, ví dụ như trường hợp lương thực thực phẩm bị ngấm nước
dẫn đến mốc, ẩm…
Tổn thất toàn bộ: Là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bị hư
hỏng, mất mát, thiệt hại. Có hai loại tổn thất toàn bộ là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất
toàn bộ ước tính.

-

Tổn thất toàn bộ thực tế: là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm bị
hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới được bảo


hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không lấy lại được nữa. Chỉ có tổn thất toàn bộ thực tế
trong 4 trường hợp sau đây:


Hàng hoá bị huỷ hoại hoàn toàn.



Hàng hoá bị tước đoạt không lấy lại được.




Hàng hoá không còn là vật thể bảo hiểm.



Hàng hoá ở trên tàu được tuyên bố là mất tích.

Ví dụ: Một tàu chở Cà phê xuất khẩu từ Cảng Hải Phòng sang Nhật Bản. Trên
hành trình tàu gặp bão lớn. Cà phê bị ướt và vón cục. Nếu tiếp tục chở sang Nhật Bản thì
cà phê sẽ bị hỏng toàn bộ ( không còn giá trị thương mại). Trong trường hợp này, khi
hàng đến Nhật Bản thì tổn thất toàn bộ là điều không tránh khỏi.
-

Tổn thất toàn bộ ước tính: là trường hợp đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại, mất mát chưa tới
mức độ toàn bộ thực tế, nhưng không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế, hoặc nếu bỏ
thêm chi phí cứu chữa thì chi phí cứu chữa có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm.
Khi gặp trường hợp này tốt nhất chủ hàng sẽ thông báo từ bỏ lô hàng và bảo hiểm phải
bồi thường tổn thất cho các bên và quyền sở hữu lô hàng này thuộc về bảo hiểm.
Ví dụ: Một tàu chở sắt thép xây dựng bị đắm do trên hành trình gặp bão. Nếu tiến
hành trục vớt thì chi phí trục vớt có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị lô hàng ban đầu.

5.2.2. Căn cứ vào quyền lợi bảo hiểm: Tổn thất được chia làm 2 loại: Tổn thất riêng và tổn thất

chung.
-

Tổn thất riêng: là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số quyền lợi của các
chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy, tổn thất riêng chỉ liên quan đến từng
quyền lợi riêng biệt. Trong tổn thất riêng, ngoài thiệt hại vật chất còn phát sinh các chi
phí liên quan đến tổn thất riêng nhằm hạn chế những hư hại khi tổn thất xảy ra. Những

chi phí đó gọi là tổn thất chi phí riêng.
Tổn thất chi phí riêng là những chi phí bảo quản hàng hóa để giảm bớt hư hại hoặc
để khỏi hư hại thêm bao gồm chi phí xếp dỡ hàng, gửi hàng, phân loại hàng hoá, thay thế


bao bì đối với những lô hàng bị tổn thất. Nếu tổn thất riêng thuộc phạm vi bảo hiểm,
người bảo hiểm có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho những tổn thất riêng này,
đồng thời cũng phải chi trả những chi phí có liên quan đến tổn thất riêng..
-

Tổn thất chung: là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và
hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm chung
đối với chúng. Nói một cách khác, tổn thất chung là loại tổn thất liên quan đến tất cả các
quyền lợi trên một con tàu và vì vậy nó phải được phân bổ một cách chính xác cho tất cả
các quyền lợi trên con tàu đó. Để phân bổ được phải xác định chính xác giá trị tổn thất
chung.
Các thiệt hại, chi phí hoặc hành động được coi là tổn thất chung khi có các đặc trưng
sau:



Hành động tổn thất chung phải là hành động tự nguyện, hữu ý của những người trên tàu






theo lệnh của thuyền trưởng hoặc thay mặt thuyền trưởng.
Hy sinh hoặc chi phí phỉa hượp lý và an toàn chung cho các quyền lợi trong hành trình.

Nguy cơ đe dọa toàn bộ hành trình phải nghiêm trọng và thực tế.
Mất mát, thiệt hại hoặc chi phí phải là hậu quả trực tiếp của hành động tổn thất chung
Tổn thất chung phải xảy ra trên biển.
Giá trị tổn thất chung bao gồm 2 bộ phận: giá trị hy sinh tổn thất chung và chi phí
tổn thất chung.



Hy sinh tổn thất chung: là sự hy sinh một phần tài sản để cứu những tài sản còn lại. Hy
sinh tổn thất chung phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện sau:
 Tài sản hy sinh tổn thất chung phải mang tính cố ý (cố ý gây ra tổn thất nhưng

vẫn được bảo hiểm).
 Hậu quả phải vì sự an toàn chung của các quyền lợi trên tàu.
 Hy sinh tổn thất chung phải trong trạng thái cấp bách.


Chi phí tổn thất chung: là những chi phí phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu và
hàng hoá thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình. Chi phí tổn thất chung
bao gồm: chi phí cứu nạn, chi phí làm nổi tàu khi bị mắc cạn, chi phí thuê kéo, lai, dắt tàu
khi bị nạn.


So sánh sự khác nhau giữa tổn thất riêng và tổn thất chung
Tổn thất riêng

Tổn thất chung

Xảy ra một cách ngẫu nhiên


Xảy ra do sự cố tình, hữu ý của chủ tàu

Ảnh hưởng quyền lợi cá biệt

Ảnh hưởng chung

Có thể xảy ra trên biển hoặc bất kì địa

Chỉ xảy ra trên biển

điểm nào khác
Có được bảo hiểm hay không phụ thuộc

Công ty Bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường

vào điều kiện hợp đồng bảo hiểm

về mức đóng góp tổn thất chung của chủ hàng

II. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
1. Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là một
văn bản trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm các
tổn thất của hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, còn người tham gia bảo
hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
2. Các loại hợp đồng:
Trong hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
người ta chia ra làm hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp
đồng bảo hiểm bao:
2.1.


Hợp đồng bảo hiểm chuyến
Là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng chuyên trở từ địa điểm này đến địa
điểm khác ghi trong hợp đồng. Công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hóa trong
phạm vi một chuyến. Hợp đồng bảo hiểm chuyến được thể hiện bằng Đơn bảo
hiểm hay Giấy chứng nhận bảo hiểm do Công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm và Giấy
chứng nhận bảo hiểm đều có giá trị pháp lí như nhau nhưng về hình thức và cách sử dụng
có khác nhau.


Đơn bảo hiểm chính là một hợp đồng bảo hiểm chuyến đầy đủ, là chứng do tổ
chức bảo hiểm cấp, bao gồm những điều khoản chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm, nhằm
hượp thức hóa hợp đồng này. Nội dung gồm hai mặt: mặt trước thường ghi các chi tiết về
hàng, tàu, hành trình. Mặt sau thường ghi các điều lệ hay qui tắc của Công ty bảo hiểm.
Nội dung hợp đồng bảo hiểm chuyến chủ yếu bao gồm:
-

Ngày cấp đơn bảo hiểm, nơi kí kết hợp đồng bảo hiểm

-

Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm

-

Tên hàng được bảo hiểm, số lượng và trọng lượng của hàng

-

Qui cách đóng gói, loại bao bì và kí mã hiệu của hàng


-

Tên tàu hoặc phương tiện vận chuyển hàng

-

Cách xếp hàng trên tàu

-

Cảng khởi hành, cảng chuyển tải và cảng cuối, ngày tàu khởi hành

-

Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm

-

Địa chỉ của giám định viên bảo hiểm

-

Phương thức và địa điểm trả tiền bồi thường, do người được bảo hiểm chọn.
Trong trường hợp nơi đến là một điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa ra sau khi đến
cảng cuối, phải chuyển tiếp hàng bằng phương tiện vận tải khác đến điểm đã định thì mới
hết trách nhiệm của công ty bảo hiểm thì phải tặng thêm phụ phí bảo hiểm vì rủi ro có thể
xảy ra trên đoạn đường phụ trong toàn bộ hàng trình.
Giấy chứng nhận bảo hiểm là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp cho người được
bảo hiểm để xác nhận một lô hàng nào đó đã được bảo hiểm theo điều kiện của một hợp

đồng bảo hiểm dài hạn
Nội dung của giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ bao gồm những điều khoản nói lên
đối tượng được bảo hiểm, các chi tiết cần thiết cho việc tính toán bảo hiểm và điều kiện
bảo hiểm đã thỏa thuận.


Hợp đồng bảo hiểm bao:

2.2.

Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm cho một khối lượng hàng được vận
chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là một
năm) hoặc nhận bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định (không kể đến thời
gian). Trong hợp đồng bảo hiểm bao, hai bên chỉ thỏa thuận những vấn đề chung nhất
như tên hàng được bảo hiểm, loại tầu chở hàng, cách tính giá trị bảo hiểm, số tiền bảo
hiểm tối đa cho mỗi chuyến hàng và điều kiện bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm và những
điểm liên quan khác đã được thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, trong hợp đồng bảo
hiểm bao luôn có ba điều kiện cơ bản sau:
-

Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hóa sẽ được bảo hiểm: Tàu phải có
cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên thế giới cấp mới được chấp
nhận một cách tuyệt đối. Tàu phải có khả năng đi biển bình thường và tuổi tàu dưới 15
năm.

-

Điều kiện về giá trị bảo hiểm: người được bảo hiểm phải kê khai giá trị theo từng chuyến
về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua bán, số thư tín dụng (L/C), số vận
đơn (B/L)…


-

Điều kiện về quan hệ trên tinh thần thiện chí: Nghĩa là đã mua bảo hiểm bao của người
bảo hiểm nào thì trong thời gian đó người được bảo hiểm không được phép mua bảo
hiểm hàng hóa của người bảo hiểm khác.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được bảo
hiểm. Người bảo hiểm đảm bảo thu được một khoản phí bảo hiểm trong thời hạn bảo
hiểm. Người được bảo hiểm vẫn được người bảo hiểm chấp thuận bảo hiểm ngay cả khi
hàng đã xếp lên tàu vận chuyển rồi mà chưa kịp thông báo bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm
bao dùng để bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu thường xuyên khối lượng lớn vận
chuyển làm nhiều chuyến. Điều khoản huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm quy định cho phép một
bên có thể huỷ bỏ hợp đồng hoặc bất kỳ một phần nào của hợp đồng với điều kiện phải
thông báo trước (thường là 30 ngày).


Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận chuyển hàng
hóa, người tham gia bảo hiểm phải gửi giấy báo vận chuyển cho người bảo hiểm. Nếu có
thay đổi đặc biệt về số lượng, giá trị hàng…phải tiến hành kí kết hợp đồng bảo hiểm
khác.
Sau khi cấp đơn bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm thấy cần bổ sung, sửa đổi
một số điều và công ty bảo hiểm đồng ý thì công ty bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo hiểm bổ
sung. Giấy này có giá trị như một đơn bảo hiểm, là một bộ phận được kèm theo và không
thể tách rời của đơn bảo hiểm ban đầu.
Ngoài ra, đơn bảo hiểm có thể chuyển nhượng từ người đứng tên trong đơn cho
một người khác được hưởng quyền lợi của đơn bảo hiểm. Người được bảo hiểm chỉ cần
kí hậu vào đơn rồi trao lại đơn và các giấy tờ liên quan khác cho người được nhượng.
Ví dụ: Khi bán hàng theo giá CIF, người bán hàng sau khi mua bảo hiểm cho hàng
sẽ kí hậu vào đơn bảo hiểm rồi chuyển nhượng cho người mua.
3. Nghĩa vụ mua hợp đồng


Nhà xuất khẩu mua bảo hiểm trong các điều kiện CIF, CIP và nhóm D
Nhà nhập khẩu mua bảo hiểm trong các điều kiện nhóm E, F, C (trừ CIF, CIP)
Mua bảo hiểm khi hợp đồng được kí theo CIP, CIF
Người bán mua bảo hiểm và mua đúng theo điều khoản trên hợp đồng. Người bán
sẽ phải làm giấy đề nghị bảo hiểm, nếu được chấp nhận thì sẽ phải đóng phí, khi được
cấp chứng từ bảo hiểm, người bán sẽ kí hậu chứng từ và chuyển nhượng cho người mua
rồi đưa vào bộ chứng từ và thanh toán tiền hàng.
Người mua cần đàm phán để quy định điều khoản bảo hiểm trên hợp đồng thì mới
đảm bảo lợi ích cho mình. Người mua đàm phán về các điều khoản: giá trị bảo hiểm, điều
kiện bảo hiểm…
Mua bảo hiểm theo các điều kiện khác
Người bán hay người mua sẽ tùy vào nơi chuyển giao tổn thất
Nhà kinh doanh xuất nhập khẩu cần phân tích rủi ro, nghiên cứu các điều kiện bảo
hiểm, lựa chọn điều kiện bảo hiểm, giấy đề nghị bảo hiểm, chấp nhận bảo hiểm, đóng
phí, nhận chứng từ bảo hiểm
4. Nội dung của hợp đồng


Hợp đồng bảo hiểm được in sẵn thành mẫu thường bao gồm 2 mặt: mặt trước gồm
các thông tin về người bảo hiểm, người được bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm; mặt sau in
sẵn các quy định cơ bản về bảo hiểm. Mẫu của các nước khác nhau có thể khác nhau
song hiện nay hầu hết các nước, các công ty đều sử dụng mẫu đơn bảo hiểm của Hiệp hội
bảo hiểm London từ tháng 4 năm 1982 theo quy định của ICC-1982. Nội dung của hợp
-

đồng bảo hiểm bao gồm:
Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản ở ngân hàng của người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
Tên hàng hoá được bảo hiểm, số lượng, trọng lượng, loại bao bì, cách đóng gói...
Loại tàu chuyên chở: tên tàu, tuổi tàu, cờ tàu, trọng tải, dung tích...

Cách xếp hàng lên tàu
Nơi đi, nơi đến, nơi chuyển tải
Ngày gửi hàng
Thời gian khởi hành và thời gian cả hành trình
Điều kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
Nơi giám định tổn thất, nơi thanh toán bồi thường
Ký tên, đóng dấu.
Những nội dung trên được ghi tóm tắt trên đơn bảo hiểm cấp cho mỗi chuyến hàng
tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm còn ghi các điều khoản về quyền và
trách nhiệm của mỗi bên. trong đó có một số nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, giá trị bảo hiểm .
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của lô hàng.Giá trị thực tế của lô hàng có thể là
giá hàng hoá (giá FOB) cũng có thể bao gồm: giá hàng hoá, cước phí vận chuyển, phí bảo
hiểm và các chi phí liên quan khác.
Công thức xác định: V = C + I + F
Trong đó:
V- là giá trị bảo hiểm của hàng hoá
C- là giá hàng tại cảng đi (giá FOB)
I- là phí bảo hiểm
F- là cước phí vận tải
Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi của mình, người được bảo hiểm có thể bảo hiểm
thêm cả khoản lãi dự tính do việc xuất nhập khẩu mang lại. Khi xuất nhập khẩu theo giá
CIF hoặc CIP thì theo tập quán giá trị bảo hiểm sẽ tính thêm 10% lãi dự tính. Như vậy
khi xuất nhập khẩu theo giá CIF thì:
V = 110% * CIF
hoặc xuất theo giá CIP thì:
V = 110% * CIP
CIF =
(C + F) / (1 – R)
Trong đó: R - tỷ lệ phí bảo hiểm.



Thứ hai, số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là toàn bộ hay một phần giá trị bảo hiểm do người được bảo
hiểm yêu cầu và được bảo hiểm.
Về nguyên tắc, số tiền bảo hiểm chỉ có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm.
Nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn đó sẽ không được bảo
hiểm. Ngược lại, nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm tức là người được bảo
hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số
tiền bảo hiểm đã được ghi trong hợp đồng. Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng,
tức là cùng một rủi ro, một giá trị bảo hiểm nhưng lại được bảo hiểm ở nhiều công ty bảo
hiểm khác nhau thì trách nhiệm của tất cả các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong
phạm vi số tiền bảo hiểm. Trong xuất nhập khẩu nếu số tiền bảo hiểm chỉ bằng giá trị hoá
đơn hay giá FOB hoặc giá CFR thì người được bảo hiểm chưa bảo hiểm đầy đủ giá trị
hay nói cách khác là bảo hiểm dưới giá trị.
Thứ ba, phí bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà người được bảo hiểm phải trả cho người bảo
hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro đã thoả thuận gây lên. Phí bảo hiểm
thường được tính toán trên cơ sở xác suất của những rủi ro gây ra tổn thất hoặc trên cơ sở
thống kê tổn thất của nhiều năm trên một loại hàng hoá được bảo hiểm nhằm đảm bảo
trang trải tiền bồi thường và có lãi. Như vậy phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở tỷ lệ
phí bảo hiểm và phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm. Để lập công thức
tính phí bảo hiểm cần có các chỉ tiêu sau:
R : là tỷ lệ phí bảo hiểm
I : là phí bảo hiểm
A : là số tiền bảo hiểm
V : là giá trị bảo hiểm
Thì : I = R * A (nếu A < V)
Hoặc I = R * V (nếu A = V)
Đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam hiện nay thì phí bảo hiểm được tính

theo công thức sau: I = R * CIF
Do CIF = C + I + F = C + ( R * CIF ) + F
CIF = (C+F)/ (1-R)
Nên :
Đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam theo giá CIF và mua bảo hiểm trong nước thì:


A=

(C+F) ∗ ( 1 + a )
1−R
Trong đó: a là phần trăm lãi dự tính và thường bằng 10% của số tiền bảo hiểm

hoặc giá trị bảo hiểm.
Ngoài ra, để lập bảng chào phí người bảo hiểm còn phải tính đến các yếu tố khác
-

như:
Loại hàng hoá: hàng hoá dễ bị tổn thất như dễ đổ vỡ, dễ bị mất cắp... thì tỷ lệ phí bảo
hiểm cao hơn
- Loại bao bì, phương thức đóng gói hàng hoá
- Phương tiện vận chuyển: xem xét một số chi tiết liên quan đến tàu vận chuyển như
-

tên tàu, quốc tịch, loại tàu, tuổi tàu...
Hành trình vận chuyển và các thiết bị cảng tại các cảng tàu cập bến
Điều kiện bảo hiểm càng rộng thì rủi ro càng nhiều do đó phí bảo hiểm tăng lên.
Tỷ lệ phí bảo hiểm thường xuyên được xem xét, điều chỉnh lại một cách định kỳ

trên cơ sở những hậu quả tổn thất cuả người được bảo hiểm trong kỳ trước cũng như tình

hình thực tế. Điều này được gọi là định phí theo kết quả, vì vậy để giữ được tỷ lệ phí thấp
việc đề phòng và hạn chế rủi ro gây ra tổn thất là rất quan trọng.
Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực ngay sau khi phí bảo hiểm được trả, người bảo
hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu người được bảo hiểm không thực hiện
đúng nghĩa vụ trả phí bảo hiểm hoặc có quyền từ chối bồi thường khi rủi ro xảy ra.

5. Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa bằng đường biển

Có 2 nhóm điều kiện bảo hiểm là nhóm bảo hiểm thông thường (nhóm A,B,C) và
5.1.

nhóm bảo hiểm đặc biệt
Điều kiện bảo hiểm thông thường

ICC 1982

ICC-C

ICC-B

ICC-A


Rủi ro được Loại trừ những rủi ro qui định trong

Loại trừ những rủi Loại trừ nhưng rủi

bảo hiểm

các điều khoản 4, 5, 6 và 7 dưới đây,


ro qui định trong ro đã qui định

bảo hiểm này bảo hiểm

các điều khoản 4, trong các điều 4,

1.1. Mất mát hoặc hư hỏng xảy ra cho
đối tượng được bảo hiêm có thể qui

5, 6 và 7 ở trên, 5, 6 và 7 dưới đây,
bảo hiểm này bảo bảo hiểm này bảo

hiểm.
hiểm mọi rủi ro về
Từ
1.1.1-1.2.2:
mất mát hoặc hư
tương tự như loại
1.1.1. Cháy hay nổ
hỏng xẩy ra với
C
1.1.2. Tàu hay thuyền bị mắc cạn, 1.2.3. Nước biển, đối tượng được
bảo hiểm.
đắm hoặc lật
nước sông hay
hợp lý cho

1.1.3. Phương tiện vận chuyển đường


nước hồ tràn vào

bộ bị lật đổ hoặc trật bánh

tàu, thuyền, hầm

1.1.4. Tàu, thuyền hay phương tiện
vận chuyển đâm va hoặc va chạm với
bất kỳ vật thể nào bên ngoài, không

hàng, phương tiện
vận chuyển công
ten nơ hoặc nơi

kể nước.

chứa hàng.
1.3. Tổn thất toàn

1.1.5. Dỡ hàng tại một cảng nơi tàu

bộ bất kỳ kiện

gặp nạn

hàng nào rơi khỏi

1.2. Ðối tượng bảo hiểm bị mất mát
hoắc hư hỏng do những nguyên nhân:


tàu hoặc rơi trong
khi đang xếp hàng
lên, hay đang dỡ

1. 2.1. Hy sinh tổn thất chung

khỏi

1. 2..2. Ném hàng khỏi tàu.

thuyền

tàu

hoặc

Điều khoản Bảo hiểm này bảo hiểm các chi phí tổn thất chung và cứu hộ đã chi ra nhằm
tổn

thất tránh hoặc có liên quan tới việc tránh khỏi tổn thất do bất kỳ nguyên nhân nào,


chung

loại trừ những nguyên nhân đã qui định ở các điều khoản 4, 5, 6 và 7 hay ở
những điều khác trong hợp đồng bảo hiểm này. Các chi phí này được tính toán
hoặc xác định theo hợp đồng chuyên chở và/ hoặc theo luật pháp và tập quán
hiện hành.

Điều khoản Hợp đồng bảo hiểm này được mở rộng để bồi thường cho người được bảo

“hai tàu đâm hiểm phần trách nhiệm theo điều khoản “hai tàu đâm va nhau hai bên cùng có
va nhau hai lỗi” trong hợp đồng chuyên chở co liên quan tới một tổn thất thuộc phạm vi bồi
bên cùng có thường của bảo hiểm này. Trường hợp Chủ tàu khiếu nại theo điều khoản nới
lỗi

trên thì Người được bảo hiểm phải thông báo cho Người bảo hiểm là người có
quyền bảo vệ Người được bảo hiểm đối với khiếu nại đó và tự chịu mọi phí
tổn.

Ðiều khoản loại trừ chung
Trong bất kỳ trường hợp nào bảo hiểm này sẽ không bảo hiểm cho:
• Mất mát, hư hỏng hay chi phí được qui cho hành vi xấu cố ý của Người được bảo hiểm.
• Ðối tượng được bảo hiểm bị rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng hoặc giảm thể
-



tích thông thường hoặc hao mòn thông thường.
Mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra do việc đóng gói hoặc chuẩn bị cho đối tượng được
bảo hiểm chưa đầy đủ hoặc không thích hợp (theo chủ ý của điều 4.3 này việc “đóng gói”
phải được coi như bao gồm cả việc xếp hàng vào “container” hoặc “kiện gỗ” nhưng chỉ
khi nào việc xếp hàng đó được thực hiện trước khi hợp đồng này có hiệu lực hoặc tiến



hành bởi Người được bảo hiểm hoặc những người làm công cho họ).
Mất mát hư hỏng hay chi phí gây ra bởi khuyết tật vốn có hoặc tính chất riêng của đối

tượng được bảo hiểm.
• Mất mát hư hỏng hay chi phí trực tiếp gây ra bởi chậm trễ ngay cả khi chậm trễ do một

rủi ro được bảo hiểm gây ra (trừ những chi phí được chi trả theo điều 2 kể trên)
• Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về


tài chính của người Chủ tàu, người quản lý, người thuê hoặc người điều hành tàu.
Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ một loại vũ khí chiến trang
gì có sử dụng năng lượng nguyên tử, hạt nhân và/ hoặc phản ứng hạt nhân, phóng xạ hoặc
tương tự.


-

Ðiều khoản loại trừ tàu không đủ khả năng đi biển và không thích hợp cho việc
chuyên chở.
Trong bất kỳ trường hợp nào bảo hiểm này cũng sẽ không bảo hiểm cho những




mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
Tàu hoặc thuyền không đủ khả năng đi biển.
Tàu, thuyền, phương tiện vận chuyển container hoặc kiện gỗ không thích hợp cho việc
chuyên chở an toàn đối tượng được bảo hiểm. Nếu Người đuợc bảo hiểm hoặc những
người làm công cho họ được biết về trạng thái không đủ khả năng đi biển hoặc không
thích hợp đó vào thời gian đối tượng được bảo hiểm được xếp vào các phương tiện trên.
Người bảo hiểm bỏ qua mọi trường hợp vi phạm những cam kết ngụ ý tàu đủ khả
năng đi biển và thích hợp cho việc chuyên chở đối tượng được bảo hiểm tới nơi đến, trừ
khi Người được bảo hiểm hoặc người làm công cho họ được biết rieng về trạng thái

-




không đủ khả năng đi biển hay không thích hợp đó.
Ðiều khoản loại trừ chiến tranh
Trong bất kỳ trường hợp nào bảo hiểm này sẽ khong bảo hiểm cho những mất mát
hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi
Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự phát sinh từ
những biến cố đó, hoặc bất kỳ hành động thù địch nào gây ra hoặc chống lại bên tham

chiến
• Bắt giữ, tịch thu, kiềm chế hay cầm giữ (loại trừ cướp biển) và hậu quả của những hành
động đó hoặc bất kỳ mưu toan nào nhằm thực hiện những hành vi đó.
• Mìn, thủy lôi, bom hoặc những vũ khí chiến tranh hoang phế khác.
- Ðiều khoản loại trừ đình công
Trong bất cứ trường hợp nào bảo hiểm này cũng không bảo hiểm cho những mất


mát hư hại hoặc chi phí
Gây ra bởi những người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia

gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự
• Hậu quả của đình công, cấm xưởng, gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự
• Gây ra bởi bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người nào hành động vì động cơ chính trị.
5.2.
Điều kiện bảo hiểm đặc biệt
Điều kiện bảo hiểm chiến tranh
Theo điều kiện này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư hỏng của
-


hàng hoá do:
Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy ra từ

-

những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào;
Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ;


-

Mìn, thuỷ lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác;
Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển 4/6. Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp
hơn các rủi ro thông thường. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hoá được xếp lên tàu
biển và kết thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15 ngày kể từ
nửa đêm ngày tàu đến cảng dỡ cuối cùng, tuỳ theo điều kiện nào xảy ra trước. Nếu có
chuyển tải, bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm
ngày tàu đến tàu đến cảng chuyển tải. Đối với rủi ro mìn và ngư lôi trách nhiệm của
người bảo hiểm được mở rộng ra cả khi hàng hoá còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu
hoặc từ tàu vào bờ nhưng không vượt quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ khi
có thoả thuận đặc biệt khác.
Điều kiện bảo hiểm đình công:
Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của hàng

-

hoá được bảo hiểm do:
Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối loạn lao


-

động, bạo động hoặc nổi dậy;
Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị;
Tổn thất chung và chi phí cứu nạn. Ngời bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do hành
động trực tiếp của những người đình công mà không chịu trách nhiệm về những thiệt hại
do hậu quả của đình công gây ra.

5.3.
Các điều khoản chung cho điều kiện bảo hiểm A-B-C
5.3.1. Ðiều khoản vận chuyển
- Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng rời khỏi cho hay nơi chứa hàng tại địa

điểm có tên ghi trong đơn bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong quá
trình vận chuyển bình thường và kết thúc hiệu lực tại một trong những thời điểm sau đây,
-

tùy theo trường hợp nào xảy ra trước hoặc.
Khi giao hàng vào kho người nhận hàng hay kho, hoặc nơi cửa hàng cuối cùng khác tại

-

nơi đến có tên trong đơn bảo hiểm
Khi giao hàng vào bất kỳ một kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi tới hay tại
nơi đến có tên ghi trong đơn bảo hiểm mà Người được bảo hiểm chọn dùng hoặc để chứa
hàng ngoài quá trình vận chuyển bình thường hoặc để chia hay phân phối hàng hoặc


-


Khi hết hạn 60 ngày sau khi hoàn thành việc dỡ hàng hóa bảo hiểm khỏi tàu biển tại cảng

-

dỡ hàng cuối cùng
Nếu sau khi hàng dỡ khỏi tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng, nhưng trước khi kết thúc
thời hạn bảo hiểm, hàng hóa được gửi tới một nơi khác nơi đến ghi trong đơn bảo hiểm,
bảo hiểm này trong khi giữ nguyên hiệu lực theo qui định kết thúc nói trên sẽ không mở

-

rộng giới hạn quá lúc bắt đầu vận chuyển tới một nơi đến khác đó.
Bảo hiểm này sẽ giữ nguyên hiệu lực (phụ thuộc qui định kết thúc nói trên và qui định
trong điều 2 dưới đây) trong khi bị chậm trễ ngoài khả năng kiểm soát của Người được
bảo hiểm, tàu chạy chệch hướng bất kỳ, dỡ hàng bắt buộc, xếp lại hàng hoặc chuyển tải
và khi có bất kỳ thay đổi nào về hành trình phát sinh từ việc thực hiện một quyền tự do
mà hợp đồng chuyên chở đã dành cho Chủ tàu hoặc Người thuê tàu.

5.3.2. Ðiều khoản kết thúc hợp đồng vận chuyển

Nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của Người được bảo hiểm mà
hợp đồng vận chuyển kết thúc tại một cảng hay một nơi khác nơi đến có tên ghi trong
hợp đồng vận chuyển hoặc việc vận chuyển được kết thúc theo một cách khác trước khi
giao hàng như qui định của điều 8 trên đây, bảo hiểm này cũng sẽ kết thúc, trừ khi Người
được bảo hiểm thông báo ngay cho Người bảo hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm khi bảo
hiểm vẫn còn hiệu lực, với điều kiện phải nộp thêm phí bảo hiểm nếu Người bảo hiểm
yêu cầu, hoặc
Cho tới khi hàng được bán và giao tại cảng hay địa điểm đó, hoặc trừ khi có thỏa
thuận riêng khác, cho tới khi hết hạn 60 ngày sau khi hàng được bảo hiểm đến cảng hay

điạ điểm đó, tùy theo trường hợp nào xảy ra trước, hoặc
Nếu hàng hóa được gửi đi trong thời hạn 60 ngày nói trên (hoặc bất kỳ thời hạn
mở rộng nào đã thỏa thuận) tới nơi đến có tên ghi trong đơn bỏa hiểm hay tới bất kỳ nơi
đến nào khác cho tới khi kết thúc bảo hiểm theo những qui định của điều 8 kể trên.
5.3.3. Ðiều khoản thay đổi hành trình

Sau khi bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực nếu Người được bảo hiểm thay đổi nơi
đến thì bảo hiểm này vẫn giữ nguyên hiệu lực với điều kiện Người được bảo hiểm phải
thông báo ngay cho Người bảo hiểm biết với chi phí bảo hiểm và những điều kiện được
thỏa thuận.


5.3.4. Ðiều khoản quyền lợi bảo hiểm
- Ðể có thể đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm này Người được bảo hiểm cần phải có quyền
-

lợi bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm vào thời gian xảy ra tổn thất
Tuân theo điều trên đây Người được bảo hiểm sẽ có quyền đòi bồi thường cho những tổn
thất được bảo hiểm xảy ra trong thời gian bảo hiểm này có hiệu lực cho dù tổn thất đã
xảy ra trước khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết, trừ khi Người được bảo hiểm đã biết về
tổn thất đó và Người bảo hiểm chưa biết.

5.3.5.

Ðiều khoản chi phí gửi hàng
Nếu do hậu quả của một rủi ro được bảo hiểm mà hành trình được bảo hiểm lại kết
thúc tại một cảng hoặc một nơi không phải nơi đến có tên ghi trong đơn bảo hiểm thì
Người bảo hiểm sẽ hoàn trả cho Người được bảo hiểm mọi khoản chi phí phát sinh thêm
một cách hợp lý và thỏa đáng để dỡ hàng, lưu kho và gửi hàng tới nơi đến thuộc phạm vi
bảo hiểm của hợp đồng này.

Ðiều này không áp dụng cho tổn thất chung hoặc chi phí cứu hộ và phải tuân theo
những điểm loại trừ trong các điều 4, 5, 6 và 7 kể trên và không bao gồm những chi phí
phát sinh từ hành vi sai lầm, bất cẩn và từ tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về
tài chính của Người được bảo hiểm hay những người làm công cho họ.

5.3.6. Ðiều khoản tổn thất toàn bộ ước tính

Bảo hiểm này không bối thường cho các khiếu nại về tổn thất toàn bộ ước tính trừ
khi đối tượng được bảo hiểm bị từ bỏ một cách hợp lý nếu xét thấy không thể tránh khỏi
tổn thất toàn bộ thực tế hoặc do chi phí phục hồi, tu bổ lại và gửi hàng tới nơi đến thuộc
phạm vi bảo hiểm sẽ vượt quá giá trị hàng tại nơi đến.
5.3.7. Ðiều khoản giá trị tăng thêm
- Nếu Người được bảo hiểm ký kết bất kỳ hợp đồng bảo hiểm giá trị tăng thêm nào cho

hàng hóa đã được bảo hiểm này bảo hiểm thì giá trị thỏa thuận của hàng hóa được xem
như đã được bảo hiểm này bảo hiểm thuộc bảo hiểm này cộng với số tiền bảo hiểm của
các hợp đồng bảo hiểm giá trị tăng thêm cùng vảo hiểm tổn thất đó và trách nhiệm thuộc
phạm vi bảo hiểm này sẽ được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo
hiểm này và tổng số tiền bảo hiểm đã nói tới.


Trường hợp có khiếu nại, Người được bảo hiểm phải cung cấp cho Người bảo
-

hiểm bằng chứng về những số tiền bảo hiểm thuộc tất cả các Hợp đồng bảo hiểm khác.
Trường hợp bảo hiểm này bảo hiểm giá trị tăng thêm thì sẽ áp dụng điều khoản sau:
Giá trị thỏa thuận của hàng hóa sẽ được xem như ngang bằng với tổng số tiền bảo
hiểm của hợp đồng bảo hiểm gốc và của tất cả các hợp đồng bảo hiểm giá trị tăng thêm
mà Người được bảo hiểm thực hiện cùng bảo hiểm cho tổn thất đó và trách nhiệm thuộc
phạm vi bảo hiểm này sẽ được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo

hiểm này và tổng số tiền bảo hiểm đã nói tới.
Trường hợp có khiếu nại, Người đựơc bảo hiểm phải cung cấp cho Người bảo
hiểm bằng chứng về những số tiền bỏa hiểm thuộc tất cả các bảo hiểm khác.

5.3.8. Ðiều khoản không áp dụng

Bảo hiểm này sẽ không áp dụng đối với quyền lợi của người chuyên chở hay
người nhận ký gửi hàng hóa nào khác.
5.3.9. Ðiều khoản nghĩa vụ của Người được bảo hiểm

Nghĩa vụ của Người được bảo hiểm, những người làm công và đại lý của họ đối
-

với các tổn thất thuộc phạm vi của bảo hiểm này là:
Phải thực hiện mọi biện pháp có thể coi là hợp lý nhằm mục đích ngăn ngừa hoặc giảm

-

nhẹ tổn thất đó và
Phải bảo lưu và thực hiện các quyền khiếu nại đối với người chuyên chở, người nhận ký
gửi hàng hóa hay người thứ ba khác và Người bảo hiểm ngoài trách nhiệm đối với những
tổn thất thuộc phạm vi bồi thường của bảo hiểm này sẽ hoàn trả cho Người được bảo
hiểm bất kỳ chi phí nào đã chi ra một cách hợp lý và thỏa đáng để thực hiện nghĩa vụ
này.

5.3.10.

Ðiều khoản từ bỏ
Mọi biện pháp do Người được bảo hiểm hoặc Người bảo hiểm thực hiện nhằm
mục đích cứu vớt, bảo vệ hoặc khôi phục lại đối tượng được bảo hiểm sẽ không được coi

như sự từ bỏ hoặc sự chấp nhận từ bỏ hoặc về mặt khác làm tổn hại đến các quyền lợi của
mỗi bên.

5.3.11.

Ðiều khoản khẩn trương hợp lý
Ðiều kiện của bảo hiểm này là Người được bảo hiểm phải hành động một cách
khẩn trương hợp lý trong mọi tình huống thuộc khả năng kiểm soát của họ.


×