Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.63 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

HÀN THỊ THU HƢỜNG

HÀN THỊ THU HƢỜNG

PHƢƠNG THỨC SO SÁNH
TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

PHƢƠNG THỨC SO SÁNH
TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Mã số

: 60.22.01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Tạ Văn Thông
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Tạ Văn Thông

THÁI NGUYÊN - 2010

THÁI NGUYÊN - 2010
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên1



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên2




LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

3

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6

công bố trong bất kì một công trình khoa học nào khác.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


7

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

8

6. Đóng góp của luận văn

8

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Tác giả luận văn

7. Bố cục của luận văn
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ

1.1. Khái quát về so sánh
HÀN THỊ THU HƢỜNG

10

1.1.1. Khái niệm “so sánh”

10

1.1.2. Cấu trúc so sánh

12


1.1.3. Các kiểu so sánh

17

1.2. Khái quát về ca từ

20

1.2.1. Khái niệm “ca từ”

20

1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ

21

1.2.3. Hình tƣợng ca từ

23

1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ

24

1.3. Trịnh Công Sơn và những ca khúc của ông

27

1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trịnh Công Sơn


27

1.3.2. Khái quát về những ca khúc của Trịnh Công Sơn

32

Tiểu kết

36

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG
THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

2.1. Đặc điểm hình thái - cấu trúc của phƣơng thức so sánh trong

38

ca từ Trịnh Công Sơn
2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên3



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên4

38





2.1.2. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh

49

2.1.3. Đặc điểm của yếu tố so sánh

52

2.1.4. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh

57

1.1. Để nhận thức thế giới khách quan, để hiểu rừ cỏc sự vật hiện tƣợng

59

với các thuộc tính muôn màu muôn vẻ trong đời sống, con ngƣời thƣờng thực

2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của phƣơng thức so sánh trong ca từ
Trịnh Công Sơn

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

hiện việc so sánh, nhằm phát hiện ra những thuộc tính đồng nhất và khác biệt

2.2.1. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh


59

giữa các sự vật hiện tƣợng này, để quy loại và phân biệt chúng với nhau. Có

2.2.2. Đặc điểm của yếu tố so sánh

66

thể nói, so sánh là một thao tác thƣờng xuyên, có ý thức hoặc vô thức, trong

2.2.3. Mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và

71

yếu tố so sánh

đời sống hàng ngày của con ngƣời. Đối với văn học nghệ thuật, so sánh đƣợc
xem là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu về phép so sánh của một

Tiểu kết

75

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT

tác phẩm văn nghệ giúp ta tìm hiểu một cỏch thức quan trọng (trong số các
phép tu từ khác) đƣợc các tác giả dùng để tạo nên ngôn từ nghệ thuật trong

TRONG CA KHÚC TRỊNH CÔNG SƠN


tác phẩm của mình.

3.1. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng em - ngƣời tình

77

3.2. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng tôi - chủ thể trữ tình

83

3.3. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về tình yêu

93

3.4. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về đời ngƣời

100

Tiểu kết

105

KẾT LUẬN

107

CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

Từ xa xƣa, âm nhạc đã là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với

nhân loại, bởi nó đem lại cho con ngƣời những cảm xúc khỏc nhau qua sự
cảm nhận những hình tƣợng nghệ thuật. Việc nghiên cứu âm nhạc nói chung
và ca từ nói riêng là một công việc không đơn giản nhƣng đầy lí thú.
Cũng nhƣ trong các hình thức văn nghệ khác, so sánh trong ca từ rất cần
đƣợc chú ý, về phƣơng thức này góp phần quan trọng trong việc xây dựng hình
tƣợng nghệ thuật và giúp nghệ sĩ đƣa tác phẩm (bài ca) đi vào lòng ngƣời nghe.
1.2. “Ngƣời hát rong qua nhiều thế hệ”, “ngƣời ca thơ”, “ngƣời viết

TÀI LIỆU THAM KHẢO

tình ca hay nhất thế kỉ”…, đó là những từ ngữ ngƣời ta đã dùng để gọi Trịnh

PHỤ LỤC

Công Sơn - ngƣời nhạc sĩ mà mỗi khi những ca khúc của ông đƣợc cất lên,
chúng ta đều cảm thấy lòng mình nhƣ lắng lại trong nhịp điệu và tiết tấu du
dƣơng, với một nỗi buồn da diết, để chiêm nghiệm, để nhìn lại mình, để trí
tƣởng tƣợng bay xa đến thế giới của những yêu thƣơng tha thiết, những nỗi
dằn vặt về tình yêu và thân phận con ngƣời. Những ca khúc của ông không
chỉ mang lại một “giọng điệu” riêng, mà cũn thể hiện tớnh nhõn văn sâu sắc.
Ở Việt Nam, chƣa có nhạc sĩ nào tạo dựng đƣợc cho mình một dòng nhạc độc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên5



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên6





lập nhƣ Trịnh Công Sơn. Ngƣời ta vẫn thƣờng gọi dòng nhạc của ông với cái

có hệ thống các biện pháp tu từ, trong đó có so sánh, vẫn là vấn đề cũn bỏ

tên bình dị, thân quen, là: “Nhạc Trịnh”.

ngỏ.

Trong những năm tháng đất nƣớc chìm trong khói lửa chiến tranh, nhạc

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn và tiến hành

sĩ này đã ôm đàn “hát cho dân tôi nghe”. Những ca khúc của ông đã vƣợt lên

nghiên cứu đề tài: Phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn.

mƣa bom bão đạn, vƣợt lên cảnh “máu xƣơng trập trùng”, xoá nhoà đi cái

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

gƣơng mặt gớm giếc của cuộc chiến và chinh phục hàng triệu trái tim yêu

2.1. Các phƣơng thức biểu hiện của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm

nhạc thuộc đủ mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, và rồi vang mói cho

văn chƣơng, trong đó có phƣơng thức so sánh, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu

tới ngày nay. Không chỉ phổ biến trong nƣớc, nhiều ca khúc của ông đã vƣợt


trƣớc đây đề cập tới.

biên giới, đến với các quốc gia khác nhƣ Pháp, Mĩ, Canađa, Nhật Bản…,
đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng và đƣợc đông đảo công chúng đón nhận.

Lịch sử nghiên cứu phƣơng thức so sánh ghi nhận tên tuổi của nhà triết
học, nhà hùng biện lỗi lạc của Hi Lạp là Arisstotle (384 - 322 TCN). Trong

Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần

cuốn Thi học, khi trình bày những cách tu từ chủ yếu và phổ dụng, Arisstotle

ca từ và đó cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông.

đã chú ý đến so sánh. Ông xem đây là một trong những biện pháp đƣợc sử

Nhạc sĩ Văn Cao cho rằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết quả của một

dụng rất phổ biến trong văn chƣơng, đặc biệt rất đắc dụng trong thơ ca nhằm

cuộc “hôn phối kì diệu” giữa phần ca từ và phần âm nhạc, hai phần này hoà

tăng hiệu quả biểu cảm và giỏ trị thẩm mĩ.

quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời, làm nên hồn cốt nhạc Trịnh, và

Ở Trung Hoa cổ đại, cùng với ẩn dụ, lí luận về so sánh đƣợc bộc lộ qua

vì thế ông gọi nhạc sĩ họ Trịnh là “ngƣời ca thơ”; Tác giả Hoàng Ngọc Hiến


những lời bình giải về hai thể tỉ và hứng trong thơ ca dân gian Trung Quốc.

đánh giá: “Tất cả ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn làm thành một tình ca hay

Trong các công trình nghiên cứu, các học giả Trung Hoa thƣờng dùng khái

nhất thế kỉ” [45, tr.351]; Nhà nghiên cứu âm nhạc Dƣơng Viết Á cho rằng:

niệm “tỉ” và “hứng” khi nói về phƣơng thức nghệ thuật có liên quan đến cách

“Ngay cả trong những năm tháng “chia tay” giữa thơ và ca, xét riêng về ca từ,

ví von bóng gió.

nhiều nhạc sĩ cần đƣợc gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên đƣợc tuyển chọn

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu phƣơng thức nghệ thuật này trên quan

vào các tập thơ của thế kỉ XX: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh Công Sơn…”

điểm ngữ văn học đƣợc kế thừa và phát triển truyền thống bình giảng tác

[2, tr.226]… Tuy phần ca từ của nhạc Trịnh đƣợc đánh giá cao nhƣ vậy, nhƣng

phẩm văn học Trung Hoa, theo khuynh hƣớng coi đó là thuộc mĩ từ pháp, là

cho đến nay lại ít có những công trình nghiên cứu chuyờn biệt, đầy đủ và sâu

một trong những “phép làm văn”.


sắc.

Cho đến nay, ở Việt Nam đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu về
2.3. Đã có rất nhiều bài viết cũng nhƣ các công trình nghiên cứu về

các phƣơng thức tu từ, trong đó có so sánh, tiêu biểu là: Đinh Trọng Lạc với

cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn, nhƣng trong một vài

Giáo trình Việt ngữ (Nxb GD, 1964), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng

cụng trỡnh có chú ý đến nghiên cứu ca từ của ông, thỡ việc tìm hiểu một cách

Việt (Nxb GD, 1996), Phong cách học tiếng Việt (Nxb GD, 1998); Cù Đình
Tú với cuốn Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (Nxb ĐH&THCN,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên7



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên8




1983); Hữu Đạt với cuốn Phong cách học tiếng Việt hiện đại (Nxb

Những cuốn sách này chủ yếu gồm những bài viết của bạn bè, ngƣời


ĐHQGHN, 2001); Nguyễn Thế Lịch với Từ so sánh đến ẩn dụ (T/c Ngụn

thân, đồng nghiệp, công chúng yêu nhạc và ngƣỡng mộ tài năng của Trịnh

ngữ, số 3, 1991); Hoàng Kim Ngọc với cuốn So sỏnh và ẩn dụ trong ca dao

Công Sơn, một số của các nhà báo, và số ít là các nhà nghiên cứu, phê bình

trữ tỡnh (Nxb KHXH, 2009)…

văn học. Những bài viết ấy đều có dung lƣợng nhỏ, chủ yếu là kể về những kỉ

Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy trong những công trình nghiên cứu kể

niệm, giai thoại, bày tỏ cảm xúc, ấn tƣợng và tình yêu đối với nhạc sĩ, cảm

trên, các tác giả đã chỳ trọng đến việc hình thành khái niệm, phân loại và tìm

nhận đối với từng bài hát, những đồng cảm về thân phận con ngƣời trong

ra giá trị của các phƣơng thức tu từ nói chung và so sánh nói riêng. Đây là cơ

chiến tranh qua những ca khúc phản chiến, những nỗi đau trong tình yêu, và

sở lí thuyết vô cùng quí báu để luận văn có thể tham khảo trƣớc khi đi sâu

những phát hiện về triết lí sống trong nhạc Trịnh…Chƣa có nhiều những bài

nghiên cứu về phƣơng thức so sánh trong ca từ củaTrịnh Công Sơn.


viết mang tính chất nghiên cứu ca từ dƣới góc độ ngôn ngữ, càng ít gặp những

2.2. Sau khi Trịnh Công Sơn mất (1/4/2001), tính đến nay đã có khoảng

bài viết nghiên cứu riêng về phƣơng thức so sánh.

trên 10 cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của ông. Cuốn sách

Cuốn sách mang tính chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về ca từ Trịnh

ra đời đầu tiên viết về ngƣời nhạc sĩ vừa quá cố là Trịnh Công Sơn - Một

Công Sơn là cuốn Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của

người thơ ca, một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Đoàn

Bùi Vĩnh Phúc. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành riêng một chƣơng để viết

Tử Huyến sƣu tầm và biên soạn (Nxb Âm nhạc, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ

về nghệ thuật ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn. Đó là cách viết ca khúc nhƣ những

Đông Tây, 2001). Sau đó cuốn sỏch này đƣợc bổ sung, biên soạn và tái bản

bài thơ, cách dùng những hình ảnh tỉnh lƣợc, những câu bỏ lửng, những nét đối

với tựa đề Một cõi Trịnh Công Sơn (Nxb Thuận Hoá, 2004). Tiếp theo, lần

xứng và những biện pháp tu từ. Trong phần viết về những biện pháp tu từ, tác


lƣợt đƣợc phát hành là các sách tập trung các bài viết của nhiều tác giả: Trịnh

giả có đề cập đến biện pháp so sánh nhƣng ông chỉ dừng lại ở việc mô tả biện

Công Sơn - cát bụi lộng lẫy (Nxb Văn hoá, tạp chí Sông Hƣơng, Huế, 2001),

pháp này và đƣa ra một số ví dụ minh hoạ, chứ chƣa đi sâu nghiên cứu những

Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ (Nxb Trẻ, 2004), Trịnh

đặc điểm về hình thái cấu trúc, đặc điểm về ngữ nghĩa cũng nhƣ vai trò của so

Công Sơn - rơi lệ ru người (Nxb Phụ nữ, 2006), Trịnh Công Sơn - cuộc đời,

sánh đối với việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật trong ca khúc Trịnh Công

âm nhạc, thơ, hội hoạ và suy tưởng (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2005)…

Sơn.

Ngoài những tập sách của tập thể tác giả kể trên, còn có những tác phẩm

Ngoài những cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của

của cá nhân, đó là: Trịnh Công Sơn - một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý (Nxb Trẻ,

Trịnh Công Sơn đã xuất bản kể trên, có thể kể đến những công trình nghiên

2003); Trịnh Công Sơn - có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân (Nxb Văn


cứu mang tính chất chuyên đề về ca từ nhạc Trịnh: Luận văn Thạc sĩ, chuyên

học, 2003); Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của hoàng tử bé của Hoàng Phủ

ngành Văn học Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thuý, Đại học Sƣ phạm

Ngọc Tƣờng (Nxb Trẻ, 2005); Vườn xưa - hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn

Quy Nhơn (2006) với đề tài Ca từ Trịnh Công Sơn - những ca khúc về tình

của Nguyễn Hữu Thái Hoà (Nxb Trẻ, 2007); Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và

yêu và thân phận con người với những mảng nghiên cứu về cuộc đời và sự

những ám ảnh nghệ thuật của Bùi Vĩnh Phúc (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008)…

nghiệp, tầm ảnh hƣởng của Trịnh Công Sơn, thân phận con ngƣời và tình yêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10






trong ca khúc Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Văn học Việt


để làm điểm tựa nghiên cứu phƣơng thức so sỏnh trong các ca khúc của một

Nam của Lê Thị Thu Hiền, Đại học Sƣ phạm Hà Nội (2007) với đề tài Quan

tác giả cụ thể.

niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công Sơn, đó đi vào nghiên cứu quan niệm

- Miêu tả những biểu hiện cụ thể của việc sử dụng phƣơng thức so sánh

về cõi sống, về cái chết và về tình yêu của Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ,

về hình thức và ngữ nghĩa, những vai trò của việc sử dụng phƣơng thức này

chuyên ngành Lí luận ngôn ngữ của Nguyễn Thị Bích Hạnh, Đại học Sƣ

để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn.

phạm Hà Nội (2008) với đề tài Hệ thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công

- Từ sự phân tích nói trên, giúp ngƣời đọc hƣớng tới một số nhận xét về

Sơn, đã hệ thống hoá những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong ca từ Trịnh

đặc điểm đáng chú ý trong phong cách ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn xét về

Công Sơn, sắp xếp các biểu tƣợng theo những hệ thống nhỏ, từ hệ thống

phƣơng diện so sỏnh.


những biểu tƣợng có chất liệu trực quan đến hệ thống những biểu tƣợng

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

không có chất liệu trực quan và sự chuyển hoá giữa chúng, từ đó soi chiếu,

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

giải mã các biểu tƣợng trong hệ thống, gúp phần làm sáng tỏ thế giới tinh thần

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định là ca từ của Trịnh

của nghệ sĩ (luận văn này mới đây đó xuất bản thành sỏch với nhan đề Biểu

Công Sơn. Trờn thực tế, ca từ của Trịnh Công Sơn đƣợc công bố trong nhiều

tượng ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xó hội,

tuyển tập ca khúc khác nhau, nhƣ: Một cõi đi về, Nxb Văn nghệ TPHCM,

2009)…

1992; Khói trời mênh mông Nxb Văn nghệ TPHCM, 1992; Em còn nhớ hay

Tóm lại, lần theo trình tự thời gian của các cụng trỡnh và bài viết về ca

em đã quên, Nxb Trẻ, 1993; Những bài ca không năm tháng, Nxb Âm nhạc,

khúc Trịnh Công Sơn đến nay, chƣa thấy có tài liệu nào nghiên cứu riêng


1998… Tuy nhiờn trong luận văn này, sẽ đƣợc chọn làm đối tƣợng khảo sát là

hoặc nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về phƣơng thức so sánh trong ca từ của

242 văn bản ca từ (không có phần nhạc) đƣợc công bố trong cuốn Trịnh Công

ông.

Sơn - vết chân dã tràng của tác giả Ban Mai xuất bản năm 2008 tại Nxb Lao

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Động - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây. Văn bản những ca khúc này

3.1. Mục đích nghiên cứu

đƣợc công bố với sự cho phép của ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - em gỏi của nhạc sĩ

Luận văn có mục đích tìm hiểu sự thể hiện đa dạng và những vai trò

và là ngƣời thừa kế bản quyền nhạc Trịnh và ông Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch

khác nhau của phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, từ đó

Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn (Pháp) - ngƣời đó sƣu tầm và chỉnh lí thƣ mục

thấy đƣợc phần nào đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhạc sĩ qua các ca

ca khúc Trịnh Công Sơn. Có thể nói đây là nguồn tƣ liệu đáng tin cậy để


khúc của ông.

nghiên cứu về ca từ Trịnh Công Sơn (Danh mục các ca khúc này đƣợc trình
bày ở cuối luận văn).

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí thuyết chung trong nghiên cứu tu từ học và văn

Ngoài 242 văn bản ca từ kể trên, đề tài còn dựa vào một thứ “siêu văn

nghệ, với một số khái niệm: so sánh, ca từ…, và những vấn đề có liên quan,

bản” khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết
học, chính trị trong đó những ca từ của Trịnh Công Sơn ra đời, và hoàn cảnh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên11



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
12




tâm sự cá nhân của chính nhạc sĩ… Đây có thể đƣợc xem nhƣ những gợi mở

tuởng, đƣợc sử dụng ở ca từ Trịnh Công Sơn. Kết quả của luận văn sẽ là minh

giúp đi sâu hơn vào thế giới ca khỳc Trịnh Công Sơn, trong đó có ca từ với


chứng cho khả năng tìm hiểu về giá trị của văn bản nghệ thuật dƣới góc nhìn

phƣơng thức so sánh.

ngôn ngữ học, đồng thời góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận đối với bộ môn Tu
từ học nói chung và nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong cỏc ca khúc nói riêng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các ca khúc của Trịnh Công Sơn có thể đƣợc xét trên nhiều phƣơng

- Về mặt thực tiễn:

diện. Ngoài sự phân tích từ phƣơng diện âm nhạc và văn học nghệ thuật nói

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp cho những ngƣời quan

chung, về phƣơng diện ngôn ngữ học có thể xem xét cỏc ca từ trong ca khúc ở

tâm đến dũng nhạc Trịnh có cái nhìn đa chiều hơn về giá trị tác phẩm, trong

nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, luận văn này chỉ xin dừng lại ở việc

đó ngoài chiều sâu tƣ tƣởng, thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả, cũn

xem xét một trong các phƣơng thức tu từ, cụ thể là so sánh.

cú sự tài hoa về tiếng Việt. Đồng thời, nó có thể giúp những ngƣời yêu nhạc

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


tiếp cận có định hƣớng và dễ dàng hơn với dòng nhạc đƣợc đánh giá là “kén

- Phƣơng pháp miêu tả

ngƣời nghe” này, từ đó biết thƣởng thức những cái hay, cái đẹp của nhạc

Phƣơng pháp này (với cách phân tích và tổng hợp), đƣợc sử dụng để đi

Trịnh và nhận thức đƣợc một cách sâu sắc những cảm xúc, những triết lí nhân

sâu vào miêu tả và khái quát các kiểu cấu trúc so sánh, chỉ ra các đặc điểm

sinh mà ngƣời nhạc sĩ tài hoa này muốn gửi gắm qua những ca khúc của

ngữ nghĩa cùng các vai trò của chúng trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ

mình, cũng nhƣ có cơ sở để hiểu hơn về tiềm năng của tiếng Việt.

thuật của ca từ Trịnh Công Sơn.

7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn bao gồm 3 chƣơng

- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện

nhƣ sau:

và phân loại các kiểu so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn, từ đó làm cơ sở


Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tế

phân tích, nhận xét, đánh giá những kiểu loại hình thức, đặc trƣng về giá trị

Chƣơng 2: Đặc điểm hình thái - cấu trúc và ngữ nghĩa của phƣơng

biểu đạt của đối tƣợng nghiên cứu.

thức so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn

- Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa

Chƣơng 3: Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng nghệ thuật trong ca

Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng khi phân tích mối quan hệ giữa ý nghĩa
bản thể gốc và ý nghĩa có đƣợc do sự liên tƣởng, nghĩa bề mặt ngôn từ với

khúc Trịnh Công Sơn
Phần Phụ lục gồm:

nghĩa biểu trƣng, của cỏc yếu tố tham gia vào phƣơng thức so sỏnh.

- Danh mục những ca khúc đƣợc khảo sát trong luận văn

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Một số văn bản ca khỳc của Trịnh Công Sơn

- Về mặt lí luận:


- Một số đoạn tản văn của Trịnh Công Sơn

Đây là lần đầu tiên có một đề tài nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ và sâu sắc

- Một số hình ảnh và bút tích của Trịnh Công Sơn

phƣơng thức so sánh trong số các phƣơng thức tu từ dựa trên quan hệ liên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên13



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
14




CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ

Hoà; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của Cù Đình Tú; Phong
cách học tiếng Việt hiện đại của Hữu Đạt...
Trong những công trình kể trên, hầu hết các tác giả đều đƣa ra sự phân

1.1. KHÁI QUÁT VỀ SO SÁNH

biệt giữa so sánh tu từ và so sánh logic (so sánh luận lí). Theo các tác giả này,


1.1.1. Khái niệm so sánh
So sánh là một thao tác của tƣ duy. Đó là thao tác đem sự vật này đối
chiếu với sự vật khác để nhìn thấy nét tƣơng đồng và khác biệt giữa chúng.

trong so sánh logic, cái đƣợc so sánh và cái so sánh là các đối tƣợng cùng loại và
mục đích của sự so sánh là xác lập sự tƣơng đƣơng giữa hai đối tƣợng. Ví dụ:

Thuật ngữ “so sánh” trong tiếng Việt đƣợc dùng chỉ một biện pháp đƣợc sử

- Mặt con cũng tròn như mặt mẹ

dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Trong Từ điển tiếng Việt do

- Cô Hoa gầy hơn cô Huệ

Hoàng Phê (Chủ biên) có giải thích về “so sánh” theo cách hiểu phổ thông là:
“nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc

- Giá trị của (a+b)(a-b) bằng giá trị của a2- b2
So sánh tu từ khác với so sánh logic ở tính hình tƣợng, tính biểu cảm và
tính dị loại (không cùng loại) của sự vật. Ví dụ:

sự hơn kém”.
Nhìn từ góc độ phong cách học, so sánh là một phƣơng thức phổ biến ở
mọi ngôn ngữ. Vì thế, đây cũng là một trong những vấn đề đƣợc các nhà ngôn
ngữ học quan tâm nghiên cứu: A.Ju.Xtêpannov với Phong cách học tiếng

- Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (Nguyễn Du)
- Tình anh như nước dâng cao


Pháp (1965), Vinôgradov với Phong cách học tiếng Nga (1969), Môren với

Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)...

Phong cách học tiếng Pháp (1970)... Những công trình này đƣợc giới thiệu ở

Với sự phân biệt nói trên, những khái nệm đuợc đƣa ra trong các giáo

Việt Nam góp phần làm sáng tỏ về mặt lí thuyết và ứng dụng của phƣơng

trình phong cách học đều định nghĩa so sánh với tƣ cách là một trong những

thức so sánh cũng nhƣ khẳng định giá trị của phƣơng thức này trong sáng tạo

biện pháp tu từ ngữ nghĩa.
Trong cuốn Giáo trình Việt ngữ, tác giả Đinh Trọng Lạc đã quan niệm

hình tƣợng nghệ thuật.
Phƣơng thức này cũng sớm đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học
nƣớc ta đề cập đến. Bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XX, khi xuất hiện
những công trình nghiên cứu tiếng Việt, so sánh cũng đƣợc nhắc đến trong

về so sánh nhƣ sau: “So sánh là định nghĩa sự vật, hiện tƣợng hoặc khái niệm
ở trong ngôn ngữ nghệ thuật thông qua sự so sánh chúng với hiện tƣợng hoặc
khái niệm có cùng dấu hiệu chung. Mục đích so sánh là để cụ thể hoá những
sự vật trừu tƣợng, để ngƣời đọc dễ hiểu, dễ tƣởng tƣợng hơn.”. Ở cuốn giáo

các bài giảng về phong cách học.
Có thể kể đến những công trình nghiên cứu có đề cập tới so sánh nhƣ:

Giáo trình Việt ngữ; 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt của Đinh
Trọng Lạc; Phong cách học tiếng Việt của Đinh trọng Lạc và Nguyễn Thái

trình này, tác giả chủ yếu tiến hành khảo sát hình thức biểu hiện của so sánh.
Có thể nói, đây chính là một trong những giáo trình đầu tiên của môn Phong
cách học ở Việt Nam.
Tiếp đó, trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, tác giả
Đinh Trọng Lạc đã có cách nhận diện so sánh tu từ rõ ràng và đầy đủ hơn:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên15



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
16




“So sánh tu từ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó ngƣời ta đối chiếu

- Từ so sánh, kí hiệu là (tss)

hai đối tƣợng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau

- Cái đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh, kí hiệu là (B)

hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh

A


(t)

(tss)

B

một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng” [25 , tr.154].
Sau này, cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà ở giáo trình

Cổ tay em

trắng

nhƣ

ngà

Phong cách học tiếng Việt cũng đƣa ra định nghĩa về so sánh: “So sánh là
phƣơng thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn
là giữa hai sự vật có một nét tƣơng đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể,
những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe” [24,
tr.190].
Theo tác giả Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng
Việt, “so sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng cùng
có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình
ảnh đặc điểm của một đối tƣợng” [56, tr.272].
Nhƣ vậy, qua nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu đã nêu ở trên,
chúng ta có thể rút ra một vài đặc điểm của phƣơng thức so sánh nhƣ sau:
- So sánh là việc đối chiếu một phƣơng diện nào đó của ít nhất hai sự

vật hiện tuợng
- Những sự vật hiện tƣợng đƣa ra đối chiếu phải khác loại
- Những sự vật hiện tuợng đƣa ra đối chiếu phải có nét tƣơng đồng sâu
xa nào đó trong những ngữ cảnh nhất định mà giác quan có thể nhận biết
đƣợc
- Đối chiếu để tìm ra các nét giống nhau và khác biệt giữa các đối
tƣợng so sánh và đƣợc so sánh
1.2.2. Cấu trúc so sánh

A (t) tss B
Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng trƣờng hợp, ngƣời ta có thể đảo trật tự
so sánh hoặc bớt một số yếu tố trong mô hình. Cụ thể ta có 5 biến thể của mô
hình cấu trúc so sánh trên:
1. Đảo trật tự so sánh: (t) A tss B. Ví dụ:
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng (Ca dao)
2. Bớt cơ sở so sánh: A tss B. Ví dụ:
Ai về ai ở mặc ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh (Ca dao)
3. Bớt từ so sánh: A (t) B. Ví dụ:
Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm (Ca dao)
4. Thêm “bao nhiêu”, “bấy nhiêu”
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (Ca dao)

Có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc so sánh.
Theo cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà trong cuốn giáo
trình Phong cách học tiếng Việt, hình thức đầy đủ nhất của phƣơng thức so
sánh gồm 4 yếu tố:

- Cái cần đƣợc so sánh, kí hiệu là (A)
- Cơ sở so sánh, kí hiệu là (t)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên17

Mô hình cấu trúc đầy đủ đƣợc đƣa ra là:

5. Dùng là làm từ so sánh: A là B. Ví dụ:
Tình cô là đoá hoa đơn
Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn (Nguyễn Bính)
Trong Phong cách học tiếng Việt hiện đại, tỏc giả Hữu Đạt đã đƣa ra
mô hình khái quát của phép so sánh nhƣ sau:
A-X-B



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
18




Trong mô hình trên, có thể nhận thấy sự thiếu vắng của yếu tố chỉ
Đặc điểm của từng yếu tố đƣợc Nguyễn Thế Lịch trình bày cụ thể nhƣ

phƣơng diện so sánh. Điều này đã khiến cho cấu trúc so sánh mà tác giả đƣa
sau:

ra chỉ có 3 yếu tố. Và biến thể của cấu trúc này chỉ có 2 loại là:


a. Yếu tố đƣợc so sánh: về nguyên tắc, bất kì sự vật, hiện tƣợng gì cũng

- So sánh không có từ so sánh:

có thể đem ra so sánh:

Mô hình: A - B

- Đƣợc so sánh là ngƣời, sự vật, ví dụ:

Biến thể: A - B1, B2...; A1, A2... - B; A1, A2 - B1, B2

Em như cây quế giữa rừng

Ví dụ:

Thơm tho ai biết ngát lừng ai hay (Ca dao)

Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non (Tố Hữu)
- So sánh có từ so sánh:

- Đƣợc so sánh là hành động, ví dụ:
Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao (Ca dao)

Mô hình: A - X - B

- Đƣợc so sánh là thuộc tính, ví dụ:


Biến thể: A - X - B1, B2; A1, B1 - X - B; A1, B1 - X - B1, B2

Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời (Nguyễn Du)

Ví dụ:

b. Yếu tố phƣơng diện so sánh: có vai trò thể hiện thuộc tính của sự vật

Lũ đế quốc như bầy quỷ sống
Nướng người ăn, nhảy nhót, reo cười (Tố Hữu)
Trong bài viết “Các yếu tố và cấu trúc của so sánh nghệ thuật... đăng
trên Số phụ Tạp chí ngôn ngữ số 1, 1998, cũng giống nhƣ cỏc tỏc giả Đinh
Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà, tỏc giả Nguyễn Thế Lịch đã đƣa ra một cấu
trúc so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố:

mà yếu tố đƣợc so sánh biểu thị, là thuộc tính đƣợc xem nhƣ tiêu biểu của sự
vật mà yếu tố so sánh biểu thị. Khi trong cấu trúc so sánh vắng yếu tố phƣơng
diện thì phải dựa vào liên tƣởng để tìm ra nét tƣơng đồng giữa yếu tố đƣợc so
sánh và yếu tố so sánh, từ đó mới có thể xác định đƣợc là đã thực hiện sự so
sánh về phƣơng diện nào.
c. Yếu tố quan hệ: đƣợc xem là đơn giản nhất trong cấu trúc so sánh,

- Yếu tố cần so sánh, tức là đƣợc (hay bị) so sánh (YTĐSS) - (A);
- Yếu tố biểu thị thuộc tính của sự vật, nêu rõ phƣơng diện so sánh

bao gồm các từ so sánh, từ là và cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu.
Các từ so sánh đƣợc dùng phổ biến nhất là: như, tựa, như là, như thể,
chừng như, tựa như, hồ như..., ví dụ:


(YTPD) - (x);

Cổ tay em trắng như ngà

- Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (YTQH) - (tss);

Con mắt em liếc như là dao cau (Ca dao)

- Yếu tố đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh (YTSS) - (B).

Từ là trong cấu trúc so sánh có giá trị tƣơng đƣơng từ như, nhƣng sắc

Theo tác giả, mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh là:

thái ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Như có sắc thái giả định, chỉ sự tƣơng đồng

YT§SS

YTPD

YTQH

YTSS

Mặt

tƣơi

nhƣ


hoa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên19



về một khía cạnh nào đó, cảm nhận thiên về chủ quan; là có sắc thái khẳng
định sự đồng nhất hoàn toàn, sự đánh giá có cơ sở khách quan. Ví dụ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
20




b. Vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, ví dụ:

Tình tôi là giọt thuỷ ngân
Dù nghiền chẳng nát, dù lăn vẫn tròn (Ca dao)

Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt (Xuân Diệu)

Cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu, ví dụ:

c. Vắng yếu tố đƣợc so sánh, ví dụ:

Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang

Có phải duyên nhau thì thắm lại


Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu (Ca dao)
d. Yếu tố so sánh: đƣợc xem là quan trọng nhất và không thể thiếu của
cấu trúc so sánh vì đó là chuẩn của so sánh, và không có chuẩn thì không
thành so sánh. Sự xuất hiện của yếu tố này là kết quả quá trình quan sát, liên
tƣởng của ngƣời nói. Theo Nguyễn Thế Lịch, yếu tố này có một số cấu trúc sau:
- Nêu lên tên gọi sự vật đƣợc dùng làm chuẩn. Ví dụ: má đào, tóc mây, mũi

Đừng xanh như lá, bạc như vôi (Hồ Xuân Hƣơng)
Theo tác giả, cấu trúc vắng yếu tố đƣợc so sánh đã tạo ra vô vàn các thành
ngữ so sánh kiểu nhƣ: cao như núi, ngọt như mía lùi, đỏ như son…, giúp cho việc
tiếp nhận trở nên dễ dàng vì phƣơng diện so sánh đƣợc nói thành lời rõ ràng.
d. vắng yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố phƣơng diện, ví dụ:
- Như diều gặp gió

dọc dừa, mặt chữ điền, con mắt lá răm, lông mày lá liễu, ngón tay búp măng…
- Miêu tả chi tiết thuộc tính của sự vật đƣợc dùng làm chuẩn, ví dụ:
- Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất dậm hương và rộn tiếng chim (Tố Hữu)
- Tình anh như nước dâng cao

- Như nước vỡ bờ (Thành ngữ)
Tiếp thu những ý kiến kể trên, quan niệm của luận văn về cấu trúc so
sánh nhƣ sau:
Một cấu trúc so sánh hoàn chỉnh bao gồm 4 yếu tố theo mô hình sau:
A + x + tnss + B

Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)
(Trong đó:


- Thể hiện nhiều sự vật khác nhau, ví dụ:
- Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh (Nguyễn Bính)

- A:

Yếu tố đƣợc so sánh

-x:

Yếu tố phƣơng diện so sánh

- tnss: Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh - từ ngữ so sánh

- Đôi ta như lửa mới nhen

- B:

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)
Theo khảo sát của Nguyễn Thế Lịch, không phải cấu trúc so sánh nào

Yếu tố so sánh)

Ví dụ: Tóc trắng như vôi
(A) (x) (tnss) (B)

cũng hội tụ cả 4 yếu tố trên, và tác giả đã đƣa ra 4 cấu trúc so sánh không

Bên cạnh mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh kể trên, tác giả còn có


hoàn chỉnh nhƣ sau:

thể tạo ra những biến thể bằng việc thêm, bớt hoặc đảo trật tự các yếu tố trong

a. Vắng yếu tố phƣơng diện, ví dụ:

cấu trúc.

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật, như đường mía lau (Ca dao)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên21



1.2.3. Các kiểu so sánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
22




Tác giả Đào Thản nhìn nhận phép so sánh ở mặt nội dung và phân chia

Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo (Ca dao)

dựa vào mục đích so sánh. Theo đó, tác giả đã đƣa ra 8 kiểu so sánh nhƣ sau:

Tác giả Hữu Đạt khi phân loại các kiểu so sánh đã dựa vào cả hai tiêu

chí hình thức và nội dung của nó. Theo đó, chúng ta có các kiểu so sánh sau:

- So sánh để giải thích,ví dụ:

- So sánh ngang bằng, ví dụ:

Ở nông thôn, nước ví như sông mà chủ nghĩa xã hội như thuyền, nước

Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ

sông lên thì thuyền đi lại dễ dàng. (Hồ Chí Minh)

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa (Lƣu Quang

- So sánh để miêu tả,ví dụ:

Vũ)

Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. (Ngô Tất Tố)

- So sánh hơn - kém, ví dụ:

- So sánh để đánh giá, ví dụ:

Kiều càng sắc sảo mặn mà

Thế địch như lửa, thế ta như nước. (Hồ Chí Minh)

So bề tài sắc lại là phần hơn


- So sánh để biểu lộ tình cảm, ví dụ:

Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Chúng ta hãy phấn đấu như mùa xuân, với nhiệt tình như ánh nắng.

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh (Nguyễn Du)

(Hồ Chí Minh)

- So sánh bậc cao nhất, ví dụ:

- So sánh liên tiếp, ví dụ:

Đại đội thanh niên đi lấp hố bom
Đôi ta như lửa mới nhen

Áo em hình như trắng nhất. (Phạm Tiến Duật)

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)
- So sánh phát triển, ví dụ:

Tựu trung lại, mục đích quan trọng của so sánh là phát hiện ra đƣợc sự
đồng nhất hay khác biệt về các thuộc tính giữa hai sự vật đem ra so sánh. Do

Thân em như tấm lụa đào

đó, có thể phân chia so sánh thành hai kiểu nhƣ sau:

Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai (Ca dao)


a. So sánh đồng nhất, bao gồm:

- So sánh hơn - kém, ví dụ:

- So sánh tƣơng tự:

Ngọc nào bằng tay em (Tố Hữu)

So sánh tƣơng tự thƣờng có những từ so sánh như, như là, như thể, tỉ

- So sánh đặc biệt

như, giá như, tựa như, tựa, kém gì, hơn gì, khác gì... mang tính chất giả định,

Đây là kiểu so sánh mà hai vế đƣợc thể hiện hoàn toàn cân đối về hình

ví dụ:

thức và nội dung. Kiểu so sánh này diễn đạt những tình huống hoặc sự kiện
(không dùng để diễn đạt thuộc tính) mà tính cân đối là điều kiện để nhận dạng
sự so sánh. Ví dụ:

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai (Ca dao)
- So sánh ngang bằng

Cây khô xuống núi cũng khô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên23




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
24




Ở kiểu so sánh này thƣờng có các từ so sánh bằng, là... mang tính
khẳng định, ví dụ:

vụ nhƣ là ngƣời hƣớng dẫn, mở đƣờng, “phiên dịch”, dẫn giải cho ngƣời
thƣởng thức bằng thứ ngôn ngữ phổ biến mà con ngƣời đã đƣợc học tập, rèn

Quê hương là chùm khế ngọt

luyện, nâng cao từ khi lọt lòng mẹ. Một ngƣời Việt Nam không biết ngoại

Cho con chèo hái mỗi ngày (Đỗ Trung Quân)

ngữ nghe một bài hát bằng tiếng Nga, hay tiếng của một nƣớc khác, cũng coi

b. So sánh dị biệt, bao gồm:

nhƣ nghe một bản nhạc không lời, bởi ca từ đó không phải là tiếng Việt mà
ngƣời Việt Nam đã sử dụng thành thạo.

- So sánh dị biệt hơn, gồm:


Ca từ mở cửa cho hình tƣợng âm nhạc đi vào lòng ngƣời thƣởng thức.

+ So sánh dị biệt hơn tuyệt đối: thƣờng có những từ so sánh nhất (A),

Sở dĩ nhƣ vậy, vỡ ngụn ngữ (bằng lời) là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng

nhì (B), tam, tứ..., thứ nhất (A), thứ nhì (B)... Thông thƣờng, trong dạng kết

nhất của con ngƣời. Có thể ví ca từ nhƣ đôi cánh nâng hình tƣợng âm nhạc

cấu này A, B đƣợc xếp theo thứ tự phân hạng đánh giá, ví dụ:

bay cao hơn, xa hơn. Trên thực tế, có nhiều tác phẩm âm nhạc, phần âm thanh

Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền. (Tục ngữ)

và phần ca từ tƣơng sinh nhƣ xác với hồn, làm nên sức sống của tác phẩm.

Tuy nhiên vẫn có những trƣờng hợp thứ tự này chỉ mang tính ƣớc lệ,

Nhƣng cũng có nhiều tác phẩm, khi bóc tách phần ca từ ra khỏi nền nhạc thì

tức là ngƣời sáng tác quan tâm đến vần điệu nhiều hơn là thứ tự mức độ

nó vẫn thấm đẫm chất thơ, và đi vào lòng công chúng bởi tính trữ tình và

“quan trọng” của đối tƣợng đƣợc liệt kê. Xếp một đối tƣợng nào đó theo thứ

những ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà ngƣời nhạc sĩ gửi gắm trong tác phẩm của


tự nhất, nhì... còn tuỳ thuộc vào quan nệm chủ quan của ngƣời nói.

mình. Thậm chí, những triết lí trong ca từ còn đƣợc thƣởng thức nhƣ những

+ So sánh dị biệt hơn tƣơng đối: thƣờng có những từ chuyên dụng: hơn,
còn hơn..., ví dụ:

câu châm ngôn sống bất hủ hoặc nhƣ những bài thơ. Trong nền âm nhạc Việt
Nam, Trịnh Công Sơn là một hiện tƣợng nhƣ vậy.

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn

Với những vai trò và chức năng kể trên, ca từ là một phần không thể

Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người (Tục ngữ)

thiếu trong âm nhạc. Vậy ca từ là gì? Theo Dƣơng Viết Á: “Trong loại hình

- So sánh dị biệt kém:

nghệ thuật âm nhạc, ngoài phần âm thanh đóng vai trò chính, còn phải dùng

Để biểu thị quan hệ so sánh dị biệt kém, ngƣời ta thƣờng dùng các từ so

đến ngôn ngữ, nói đúng hơn, đó là phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc (lời

sánh nhƣ: thua, kém, không bằng, sao bằng, chẳng bằng, không tày..., ví dụ:
Đêm nằm ở dưới bóng trăng

ca trong ca khúc, hợp xƣớng; kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch; tên gọi,

tiêu đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chƣơng nhạc...). Tất cả

Thương cha, nhớ mẹ không bằng thương em (Ca dao)...

phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc, ta gọi chung trong một khái niệm: Ca
từ” [1, tr.13].

1.2. KHÁI QUÁT VỀ CA TỪ

Với khái niệm nêu trên, áp dụng vào đề tài cụ thể nghiên cứu phƣơng

1.2.1. Khái niệm "ca từ"
Trong âm nhạc, ca từ (lời của bài hỏt) giữ một vai trò quan trọng. Ca từ

thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, luận văn giới hạn nghiên cứu

bổ sung tính cụ thể cho hình tƣợng âm nhạc, hay nói cách khác, nó làm nhiệm

chỉ phần lời trong các ca khúc của ông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
26







xúc cảm của con ngƣời. Nếu coi âm nhạc là một sản phẩm trí tuệ của nhân

1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ
Ngôn ngữ là chất liệu tạo nên ca từ. Giá trị của ca từ phụ thuộc vào

loại thì ca từ là một bộ phận không thể thiếu của sản phẩm đó. Khi soạn ca từ,

trình độ sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhạc sĩ. Những ca từ có giá trị trƣớc hết

ngoài những tình cảm xuất phát từ trái tim, ngƣời nhạc sĩ còn cần có sự đầu tƣ

phải chuẩn về từ ngữ, đúng về ngữ pháp, chính xác về cú pháp, rõ ràng, trong

của trí tuệ để lựa chọn ngôn ngữ một cách tinh tế, làm nên những khúc ca có

sáng về mặt diễn đạt... Trong nền âm nhạc Việt Nam, những nhạc sĩ có tên

giá trị. Có thể nói một trong những giá trị của ca khúc là ở phần ca từ của tác

tuổi cũng đồng thời là những ngƣời tạo ra những ca từ có giá trị mẫu mực,

phẩm.

nhƣ: Văn Cao, Huy Du, Đỗ Nhuận, Nguyễn Văn Tý... Họ là những ngƣời góp
phần quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chuẩn hoá nó

1.2.3. Hình tƣợng trong ca từ

để phục vụ sự phát triển của tƣ duy, sự phát triển của trí tuệ con ngƣời Việt Nam.


Cũng nhƣ các loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc phản ánh cuộc sống

Ngôn ngữ trong bài hỏt (ca từ) mang những đặc trƣng của ngôn ngữ

thông qua hình tƣợng. Từ một ca khúc cho đến một bản giao hƣởng, một vở

văn học, nhất là của ngôn ngữ thơ. Nhƣng thơ chủ yếu là để đọc, trong khi đó

nhạc kịch..., với những mức độ khác nhau, đều là những hình tƣợng nghệ thuật

lời ca chủ yếu là để hát và nghe theo giai điệu và tiết tấu nhất định. Rõ ràng

phản ánh hiện thực, những bức tranh về cuộc sống con ngƣời trong một giai

thơ và lời ca có hai cách tác động chủ yếu khác nhau: một bên thƣờng là thị

đoạn lịch sử nhất định, thông qua cách nhìn riêng biệt và sự nhạy cảm của nhạc

giác và một bên thƣờng là thính giác. Do sự khác nhau đó, ngôn ngữ trong bài

sĩ.

hỏt có những điểm khác so với ngụn ngữ trong thơ ca. Chẳng hạn:

Hình tƣợng nghệ thuật là một bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về

Trong thơ ca, không nhà thơ nào lại viết liền một đoạn gồm toàn từ ngữ

cuộc sống, về con ngƣời, đƣợc xây dựng bằng những biện pháp nghệ thuật


tƣợng thanh, vì bài thơ viết ra để đọc (hoặc để nghe qua ngƣời khác đọc).

của nghệ sĩ. Trong ca từ, bức tranh đó đƣợc hiểu là bức tranh về tâm trạng của

Nhƣng với lời ca, vì để hát lên và để nghe theo giai điệu và tiết tấu của âm

những con ngƣời xã hội, và qua bức tranh đó, hoàn cảnh cũng đƣợc phản ánh

nhạc, một đoạn lời ca chỉ gồm những từ ngữ tƣợng thanh bỗng nhiên lại có

một cách sống động, rõ nét. Trong lời ca, tâm trạng có thể gắn với một hoàn

hồn, có sức sống. Sở dĩ có sự khác biệt này là do công cụ, phƣơng tiện diễn tả

cảnh, một tình huống hoặc một câu chuyện, do đó tác giả vẫn có thể miêu tả,

chủ yếu của âm nhạc là âm thanh với giai điệu, tiết tấu, hoà thanh... Với

tƣờng thuật (về cảnh, về việc). Nhƣng cảnh phải đƣợc gắn với tình, việc phải

những phƣơng tiện đó, âm nhạc có một khả năng vô cùng to lớn trong việc tái

đƣợc gắn với ngƣời, với cảm xúc. Trong những ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ

hiện cuộc sống thông qua thế giới âm thanh. Chính nhờ đặc trƣng này, âm

Đặng Thế Phong nhƣ Giọt mưa thu hay Con thuyền không bến..., lời ca hầu

nhạc cho phép sử dụng những mô phỏng âm thanh trong cuộc sống xã hội và


nhƣ đều miêu tả (tả cảnh), song mỗi câu, mỗi từ đều trĩu nặng tình ngƣời và

tự nhiên để phản ánh hiện thực.

nỗi lòng của “cái tôi” trữ tình.

Tóm lại, ngôn ngữ trong tỏc phẩm ca từ là ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc

Muốn có đƣợc sự cảm thông và sự rung động từ phía ngƣời nghe, hình

chọn lọc, tinh luyện, giàu hình ảnh, nhạc điệu, đƣợc tổ chức một cách đặc thù

tƣợng ca từ trong tác phẩm âm nhạc phải có tính điển hình, tức là phải có sự

nhằm phản ánh cô đọng đời sống và biểu thị tinh tế mọi cung bậc tâm trạng

liên kết hữu cơ giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất thẩm mĩ giữa cái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
28






cảm tính cụ thể và cái bản chất. Nếu nặng về cái chung, nhẹ về cái riêng, chỉ


Đang ngày đêm trên tuyến đầu diệt quân cướp Mỹ

thấy cái bản chất mà bỏ rơi cái cảm tính cụ thể, hình tƣợng trong ca từ sẽ trở

Khi tôi hát ca ngợi Đảng của tôi như ánh mặt trời

thành một chuỗi những khái niệm khô khan. Nhƣng nếu coi nhẹ cái chung mà

Trên đường dài dân tộc tôi đi đến vinh quang...

nặng về cái riêng, chạy theo cái cá biệt mà không nói lên đƣợc cái phổ biến,

Tình yêu tha thiết đối với quê hƣơng, niềm tự hào kiêu hãnh về tổ quốc

có tính quy luật thì hình tƣợng trong ca từ sẽ trở nên lạc lõng, xa lạ với số

anh hùng, niềm tin vào tiền đồ tƣơi sáng của đất nƣớc... là những cảm xúc của

đông, với quần chúng. Vì vậy ngƣời nghệ sĩ phải biết sống thực sự với tình

tác giả đƣợc biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm. Trong trƣờng hợp này, “cái

cảm của con ngƣời thời đại, hoà nhịp đập trái tim mình với quần chúng nhân

tôi - nhân vật” trong tác phẩm trùng khít với “cái tôi - tác giả” của nhạc sĩ.

dân thì mới sáng tạo đƣợc những tác phẩm nghệ thuật chân chính. Có nhƣ thế,

Cũng có khi tác giả không nói đến “cái tôi”, nghĩa là trong lời ca không


“cái tôi - nghệ sĩ” mới hoà chung với “cái ta - nhân dân”, cho dù trong trƣờng

có từ tôi nhƣng ngƣời nghe vẫn thấy rõ và xác định đƣợc chủ thể cảm xúc

hợp nghệ sĩ chỉ nói về cái tôi:

trực tiếp trong tác phẩm chính là tác giả. Nếu nhƣ trong ca khúc Mười năm tổ

Ai về thủ đô tôi gửi vài lời

quốc tôi đã lớn (Hồng Đăng), tác giả đồng thời là nhân vật trữ tình trong tác

Tây Hồ mờ xa là nhà tôi đó

phẩm, xuất hiện trực tiếp và rõ ràng thì trong ca khúc Cô gái mở đường (Xuân

Ai về thành đô tôi gửi vài lời

Giao), nhân vật trữ tình (tác giả) lại ẩn mình đi. Do đó các câu trong ca từ đều

Cho nhẹ lòng tôi năm tháng không nguôi

thuộc vào loại có chủ ngữ ẩn. Ví dụ:

(Sẽ về thủ đô - Huy Du)
Đó là tâm trạng riêng của Huy Du: nhớ Hà Nội, nhớ quê hƣơng với biết

Đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh
Tiếng hát ai vang động cây rừng


bao kỉ niệm. Thế nhƣng ngƣời nghe nhƣ thấy trong đó có nỗi lòng của mình,

Phải chăng em cô gái mở đường

bởi: ai xa quê hƣơng mà không nhớ thƣơng, vƣơng vấn; ai là ngƣời Việt Nam

Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát...

yêu nƣớc đi kháng chiến mà không mong ngày về thủ đô - ngày tƣợng trƣng
cho chiến thắng.

Ca khúc là lời của nhạc sĩ Xuân Giao trò chuyện với những cô gái mở
đƣờng. Tác giả đã bộc lộ tâm tình của mình và thể hiện sự yêu thƣơng, trân
trọng, ngợi ca những ngƣời con gái anh hùng. Trong toàn bộ ca khúc, “cái tôi

1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ
Chủ thể cảm xúc trong một tác phẩm âm nhạc, trong ca khúc, xét đến

- tác giả” không hề xuất hiện nhƣng ta vẫn có thể nhận thấy sự hiện diện của

cùng, chính là tác giả của tác phẩm ấy. Nhƣng không phải bao giờ tác giả

tác giả. Để thấy rõ hơn điều này, ta có thể viết lại những câu ẩn chủ ngữ thành

cũng “nhập vai” trong tác phẩm để ca hát, yêu thƣơng, căm giận, mơ ƣớc...

những câu có chủ ngữ nhƣ sau:

Cách thể hiện “cái tôi - tác giả” trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng.
Có khi “cái tôi - tác giả” đƣợc biểu hiện trực tiếp trong bài hát, trong ca

từ. Ca khúc Mười năm tổ quốc tôi đã lớn của Hồng Đăng là một ví dụ:
Khi tôi hát ngợi ca đất nước tôi anh dũng tuyệt vời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên29



(Tôi) đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh
Tiếng hát ai vang động cây rừng
Phải chăng em cô gái mở đường
(Tôi) không thấy mặt người, (tôi) chỉ nghe tiếng hát...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
30




Ai đi? Ai nghe tiếng hát? Ai lên tiếng hỏi?... Đó có thể chính là “tôi”, là

“Cái tôi - nhân vật trữ tình” cũng có lúc biểu hiện bằng “ta”. Trong ca

tác giả Xuân Giao. Ở đây, tác giả cũng là đại diện cho những ngƣời lính trên

từ, tuy có nói đến “ta” nhƣng trong trƣờng hợp cụ thể nhất định, lại có nghĩa

đƣờng đi cứu nƣớc, đang trong rừng núi Trƣờng Sơn, với nỗi lòng xốn xang

là “tôi”. Ca khúc Chưa hết giặc ta chưa về của Huy Du là một ví dụ:


khi nghe tiếng hát của các cô nữ thanh niên xung phong.

Nghe mênh mông tiếng Bác Hồ dậy non sông

Ta còn có thể bắt gặp một dạng ẩn náu chủ thể cảm xúc khác nữa. Vẫn

Tuổi xanh ra đi chí anh hùng ta đánh Mỹ

là tác giả, đồng thời là nhân vật trữ tình, nhƣng “cái tôi - tác giả” trong tác

Thề quyết giữ trọn tình đất nước anh em ta ơi

phẩm chỉ thấp thoáng hiện lên sau cảnh vật đƣợc nhắc tới. Trong Người Hà

Tự do chính là niềm mơ ước anh em ta ơi
Đời chưa hết giặc là ta chưa về...
Trong ca khúc này “ta” của tác giả Huy Du cũng là “tôi” - “cái tôi -

Nội, Nguyễn Đình Thi đã viết:
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây

nhân vật trữ tình”. Ca khúc vừa là tâm tình của ngƣời chiến sĩ, vừa là lời “kêu

Đây lắng hồn núi sông ngàn năm
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội

gọi” sự đồng tình của anh em đồng đội. Đó là một tâm trạng, một lời tự sự,
nhƣng đồng thời là một lời động viên, khích lệ, một lời hiệu triệu - tâm tình,

Hà Nội mến yêu...

Trong những câu hát trên, cảnh Hà Nội hiện lên với Hồ Gƣơm, Hồng

một lời kêu gọi hát lên từ trái tim.

Hà, Hồ Tây... Nhƣng đó không chỉ đơn thuần là cảnh. Cảnh ở đây quyện chặt

“Nhƣ vậy, để tìm hiểu chủ thể cảm xúc trực tiếp trong tác phẩm là một

với tình, cảnh hiện lên qua tình. Những cảnh đó không phải đƣợc kể ra mà

cá nhân hay một tập thể, không chỉ dựa vào một từ “tôi” hay một từ “ta” mà

đƣợc ca lên, đƣợc hát lên trong sự gắn bó với một giai điệu thiết tha, sâu lắng,

có thể xác định đƣợc. Vấn đề là phải xem xét cách cảm xúc trong tác phẩm

tràn đầy yêu thƣơng.

xuất phát từ góc độ nào, từ cách nhìn, cách nghĩ, cách biểu hiện nào, và còn

Có khi “cái tôi - tác giả” lại đựơc biểu hiện thông qua “cái tôi - nhân

phải đặt chủ thể cảm xúc trực tiếp ở tác phẩm ca từ trong mối tƣơng quan với

vật trữ tình” đƣợc phản ánh trong tác phẩm. Ở đây, tác giả không trực tiếp

chất nhạc, với phong cách của tác giả” [1, tr.147].

xuất hiện, nghĩa là chủ thể cảm xúc của tác phẩm không phải là tác giả, mà là


1.3. TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG CA KHÚC CỦA ÔNG

một nhân vật nào đó. Đó là trƣờng hợp các ca khúc nhƣ: Tôi, người lái xe (An

1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trịnh Công Sơn

Chung), Thư ra tiền tuyến (Thái Cơ), Em là hoa Pơ - lang (Đức Minh)...

Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk

Ngƣời lái xe, ngƣời vợ ba đảm đang ở hậu phƣơng, cô gái Tây Nguyên… là

trong một gia đình gốc Huế. Ông là anh cả của 8 ngƣời em trai và gái. Cha

những nhân vật trữ tình. Trong những tác phẩm đó, ta bắt gặp trực tiếp tâm

ông là một doanh nhân yêu nƣớc và tham gia chống Pháp. Mẹ ông là một

trạng của từng ngƣời, qua tâm trạng của họ, có thể thấy đƣợc thái độ của tác
giả. Đó là lòng yêu thƣơng, thái độ trân trọng và nềm tự hào của tác giả đối
với phẩm chất cao đẹp của những con ngƣời trực tiếp làm nên lịch sử.

ngƣời đàn bà nhân hậu, đảm đang và có cảm nhận nghệ thuật rất tinh tế.
Năm 1943, khi Trịnh Công Sơn lên 4 tuổi, gia đình về lại Huế, ở tại
vùng Bến Ngự - một vùng đất xanh tƣơi, bên dòng sông An Cựu, nơi có nhiều
chùa chiền, lăng tẩm. Tiếng chuông chùa và lời kinh thấm vào hồn ông từ tuổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên31




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
32




thơ. Điều đó giúp chúng ta hiểu vì sao những ca từ của ông về sau mang đậm
dấu ấn Thiền, Phật và giàu chất Huế.

Ca khúc đƣợc in đầu tiên của Trịnh Công Sơn là bài Ướt mi, sáng tác
vào năm 1958 và công bố vào năm 1959, nói về giọt nƣớc mắt thuần khiết của

Lên trung học, Trịnh Công Sơn học tại trƣờng Lycée Francais, rồi đổi

một ngƣời con gái.

sang trƣờng Providence (Huế), rồi theo học ban Triết tại trƣờng Chasseloup-

Sau đó, đầu thập niên 60 của thế kỉ XX là thời kì Trịnh Công Sơn sáng

Laubat (Sài Gòn). Ông là một trong những trí thức thấm nhuần văn hoá Pháp

tác rất nhiều bản nhạc tình đã trở thành những kiệt tác ca khúc Việt Nam. Ở

và chịu ảnh hƣởng sâu sắc của nền triết học phƣơng Tây hiện đại ngay từ khi

Huế, thời gian này Trịnh Công Sơn đã rung động trƣớc hình ảnh một thiếu nữ

còn rất trẻ.


mảnh mai mang tên Ngô Thị Bích Diễm. Hình ảnh này là nguồn cảm hứng để

Năm 1955, khi ông 15 tuổi, cha ông bị tai nạn giao thông qua đời. Cái
chết đột ngột thảm khốc của ngƣời cha là cú sốc đầu đời, ám ảnh ông thƣờng
trực. Từ đó, ông luôn suy nghĩ về sự sống và cái chết.

ông viết Diễm xưa và rất nhiều ca khúc khác.
Những năm 1962-1964, chiến tranh Việt Nam ngày càng tàn khốc,
thanh niên hầu hết đều bị động viên đi lính. Để hoãn quân dịch, Trịnh Công

Thời niên thiếu, Trịnh Công Sơn là một chàng trai vui vẻ và khoẻ

Sơn rời Huế thi vào trƣờng Sƣ phạm Quy Nhơn. Ở nơi thành phố biển hiền

mạnh, từng giành nhiều giải thƣởng thi đấu thể thao (chạy, cử tạ, judo...).

hoà, yên tĩnh này, ông đã sáng tác những tình ca nổi tiếng nhƣ Biển nhớ, Nhìn

Điều gì sau đó đã đƣa ông trở thành một nhà thơ - nhạc sĩ “buồn bã và ốm

những mùa thu đi, Nắng thuỷ tinh, Chiều một mình qua phố, Vết lăn trầm, Dã

yếu” trong mắt của nhiều ngƣời?

tràng ca, Cát bụi...

Năm 1957, Trịnh Công Sơn 18 tuổi, một tai nạn bất ngờ đã thay đổi

Năm 1964, sau khi tốt nghiệp trƣờng Sƣ phạm Quy Nhơn, ông đƣợc


cuộc đời ông. Lúc ấy ông đang học trung học, vào một ngày khi đang tập judo

điều lên Bảo Lộc (Lâm Đồng) dạy học. Thời gian này, cuộc chiến ở Việt Nam

với em trai, ông bị thƣơng nặng ở ngực và phải nằm liệt giƣờng gần hai năm

đã trở nên ác liệt. Năm 1965, quân đội Mỹ bắt đầu rầm rộ đổ bộ vào miền

tại Huế. Trong thời gian nằm dƣỡng bệnh này, ông có nhiều thì giờ rảnh rỗi

Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh của Phật giáo và sinh viên dâng cao.

để suy nghĩ về kiếp ngƣời và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Cũng trong

Giai đoạn 1965-1972, tâm trạng phản chiến trở thành nguồn cảm hứng

thời gian này, Trịnh Công Sơn bắt đầu chơi guitare và bắt đầu sáng tác.

chủ đạo trong sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông bắt đầu sáng tác những bài

Những ca khúc đầu tiên của ông mang tên Sương đêm và Chơi vơi đều chƣa

hát về thân phận con ngƣời trong chiến tranh, miêu tả cuộc sống đau đớn,

ấn hành.

kinh hoàng đầy chết chóc hằng ngày của ngƣời dân, từ những ngƣời mẹ,

Tai nạn trên là một cái rủi cho ông về thể xác nhƣng là một cái may cho


ngƣời vợ cho đến cụ già, em bé. Những bài hát của ông là tiếng kêu than

nền âm nhạc Việt Nam. Nếu nhƣ không có khúc quanh bất ngờ này, có lẽ ông

thống thiết của con ngƣời trong cuộc chiến. Tiêu biểu là những nhạc phẩm:

đã tiếp tục chơi thể thao, đi học tiếp và không chừng đã trở thành một bác sĩ,

Gia tài của mẹ, Hát trên những xác người, Đàn bò vào thành phố, Người già

hay kĩ sƣ..., và lịch sử âm nhạc Việt Nam sẽ không bao giờ có đƣợc một nhạc

em bé, Người con gái Việt Nam, Tình ca người mất trí...

sĩ tài hoa nhƣ thế.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên33



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
34




Vào năm 1965, tại Đà Lạt, Trịnh Công Sơn đã có cuộc gặp gỡ định
mệnh với ca sĩ Khánh Ly - ngƣời sau này đó thể hiện tuyệt vời những nhạc
phẩm của ông.


lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc Việt Nam giống nhƣ nƣớc
cần thiết cho hoa vậy” (Theo [64, tr.140]).
Thế nhƣng, ở lại đất nƣớc trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, Trịnh Công Sơn

Cuối năm 1966, buổi ra mắt đầu tiên của ông và Khánh Ly trƣớc công
chúng Sài Gòn là khoảnh sân sau Trƣờng Đại học Văn khoa, với hàng ngàn

trở thành chứng nhân đồng thời cũng là nạn nhân của những thăng trầm lịch
sử trên mảnh đất thời hậu chiến.

sinh viên và trí thức. Bằng chiếc ghi ta thùng đơn giản của ông và giọng ca

Những năm đầu giải phóng, những ca khúc của Trịnh Công Sơn không

huyền thoại Khánh Ly, những bài tự tình quê hƣơng và thân phận con ngƣời

đƣợc phổ biến. Bản thân ông bị "kiểm điểm" bởi có ngƣời cho rằng ụng đã

đƣợc hát vang lên và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt

làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt đƣợc chiến

đêm đó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tƣợng và rồi trở

tranh xâm lƣợc và chiến tranh giải phóng dân tộc (trong bài Gia tài của mẹ

thành thần tƣợng của lớp trẻ lúc bấy giờ.

với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày), thậm chí còn làm nhạc ca ngợi


Năm 1969, nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn nổi tiếng khắp thế
giới. Ông đƣợc xem là một Bob Dylan (nhạc sĩ phản chiến số 1 ở Mỹ) của

địch trong bài Cho một người nằm xuống tỏ ý thƣơng tiếc một đại tá không
quân Sài Gòn.

Việt Nam. Năm 1970, bài Diễm xưa đƣợc vào chung kết cuộc thi các bài hát

Trong thời hậu chiến, cả nuớc rất khó khăn, và nhƣ bao ngƣời Việt

nƣớc ngoài ở Nhật, bài Ngủ đi con chiếm giải Đĩa vàng và đã phát hành trên

khác, Trịnh Công Sơn cũng đƣợc đƣa đi lao động sản xuất trên những cánh

hai triệu bản.

đồng đầy bom đạn chƣa tháo gỡ. Thời gian này, ông không thể sáng tác đƣợc,

Trịnh Công Sơn từ đó trở thành “kẻ du ca bất khuất” trên đất nƣớc đầy
bom đạn. Những sáng tác tiếp theo của ông với những ca từ mạnh mẽ trong

bởi một ngƣời viết tình ca mang tính triết lí trừu tƣợng nhƣ ông không thể
một sớm một chiều chuyển mạch sáng tác theo một đƣờng hƣớng khác.

tập Kinh Việt Nam hay Ta phải thấy mặt trời, Nhân danh Việt Nam là tiếng

Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giã Huế vào Sài Gòn.

nói kêu gọi hoà bình và thống nhất đất nƣớc.


Từ những năm 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại. Tác phẩm

Tháng 4 năm 1975, chiến tranh chấm dứt, ông là ngƣời đầu tiên lên Đài

của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng nhƣ: Chiều trên quê hương tôi,

Phát thanh Sài Gòn hát vang bài Nối vòng tay lớn, một bài hát nói lên niềm

Em còn nhớ hay em đã quên, Huyền thoại mẹ, Hà Nội mùa thu, Tiến thoái

khao khát hoà bình, thống nhất.

lưỡng nan, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Lặng lẽ nơi này, Xin trả nợ người, Lời

Sau ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam khi
hầu hết ngƣời thân và bạn bè của ông đã rời đất nƣớc.

thiên thu gọi... Những sáng tác này thƣờng là tình ca, không có bài hát nào
liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho phim. Những

Trƣớc ngày 30/4/1975, có nhiều lời mời đƣa ông ra nƣớc ngoài của các
hãng thông tấn quốc tế. Nhƣng ông nói: “Việt Nam là nơi duy nhất tôi có thể

tác phẩm sau này thƣờng nói lên thân phận con ngƣời, kiếp ngƣời trong cõi
tạm, mang đậm chất Thiền.

sống và sáng tác. Ở nƣớc ngoài, tôi không nghe ra tiếng nhạc trong đầu mình,
tôi không nghe đƣợc câu thơ tôi viết ra. Tôi thích đi nƣớc ngoài, nhƣng nếu ở


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên35



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
36




Năm 1983 và 1990, Trịnh Công Sơn đã hai lần có ý định lấy vợ nhƣng
đều không thành. Và trong tình yêu, ông rốt cuộc vẫn là chàng “lãng tử cô
độc” cho đến cuối đời.

1.3.2. Khái quát về những ca khúc của Trịnh Công Sơn
Về số lƣợng ca khúc của Trịnh Công Sơn, công chúng thƣờng phỏng
đoán ông đã sáng tác khoảng trên 600 ca khúc. Tuy nhiên đây chỉ là sự phỏng

Năm 1992, ngƣời mẹ kính yêu của Trịnh Công Sơn qua đời. Đây là một

đoán vì không có những căn cứ cụ thể. Chính Trịnh Công Sơn, lúc sinh thời,

mất mát quá lớn với ông. Ông viết: “Khi một ngƣời mất mẹ ở tuổi 50, điều ấy

cũng không biết mình đã viết bao nhiêu ca khúc, vì thời chiến tranh sống cuộc

có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp đƣợc. Cái sa mạc để lại trong lòng

đời trốn tránh, lang bạt, ông không có điều kiện giữ gìn, và những sáng tác ấy


bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát nhƣ một cánh đồng

thất lạc khắp nơi.

xanh tƣơi vừa trải qua một cơn bão lớn” (Theo [58, tr.9]).

Năm 1991, cô Yoshii Michiko, một sinh viên ngƣời Nhật làm luận văn

Những năm 90 của thế kỉ XX, sau thời kì đổi mới của đất nƣớc, nhạc

cao học về nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, đã sƣu tầm đƣợc 196 bài

của ông lại đƣợc hát rất nhiều trong các chƣơng trình ca nhạc, chủ yếu là

hát, trên cơ sở tài liệu do chính Trịnh Công Sơn cung cấp dựa vào trí nhớ của

những bản tình ca. Những bài hát phản chiến của ông, vì một lí do nào đó,

tác giả hoặc của các ca sĩ.

vẫn chƣa đƣợc phép lƣu hành.

Mƣời năm, sau khi Trịnh Công Sơn qua đời năm 2001, những bạn bè

Những năm cuối đời, Trịnh Công Sơn thƣờng xuyên bị bệnh, sức khoẻ

của ông ở trong và ngoài nƣớc đã sƣu tầm những bài hát của ông qua nhiều

giảm sút rõ rệt. Ông qua đời vào ngày 1/4/2001. “Con chim nhỏ hát chơi trên


nguồn. Ông Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn (Pháp)

đầu ngọn lau” không còn nữa, “vết chân dã tràng” in dấu trên cõi trần đúng 62

đã kì công sƣu tầm đƣợc 288 bài, có chú thích năm tháng cẩn thận. Đây có thể

năm. Ca khúc cuối cùng, đƣợc ông sáng tác trên giƣờng bệnh là bài Biển

đƣợc coi là thƣ mục bài hát tìm đƣợc nhiều nhất tính đến thời điểm hiện nay.

nghìn thu ở lại. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ngƣời nhạc sĩ tài hoa này
cũng sẽ “nghìn thu ở lại”.

Nhƣ vậy, căn cứ vào một số cứ liệu và qua quá trình tìm hiểu, có thể
nhận định Trịnh Công Sơn đã sáng tác khoảng hơn 300 ca khúc.

Năm 2004, Trịnh Công Sơn đƣợc trao “Giải thƣởng Âm nhạc hoà bình

Những ca khúc của Trịnh Công Sơn về thực chất là nhật kí ghi lại

thế giới” vì lí tƣởng hoà bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh

những suy tƣ, chiệm nghiệm của một con ngƣời bình thƣờng về những

phúc của nhân loại.

khoảnh khắc, cảm xúc, tâm trạng trong nhiều giai đoạn, nhiều hoàn cảnh trải

Trong bộ từ điển bách khoa Pháp Le Million tập 8 trang 122 - Genève


dài trong suốt cuộc đời của mình. Trịnh Công Sơn từng viết: “Tôi chỉ là tên

1973, tên tuổi của Trịnh Công Sơn đƣợc nhắc đến nhƣ một thi nhân tiêu biểu

hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những

của Việt Nam: “... nhiều thi nhân Việt Nam ngày nay đã tìm hơi thở hùng ca

giấc mơ đời hƣ ảo” (Theo [37, tr.223]).

của tổ tiên ngày trƣớc để hát nỗi đau của mình. Trịnh Công Sơn nổi bật giữa
những tài năng trẻ đó. Bài hát của anh tràn ngập thành phố và thôn quê. Trịnh
Công Sơn cất cao tiếng hát thi nhân mà đạn bom không bao giờ dập tắt
đƣợc...” (Theo [64, tr.140]).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên37

Nhạc Trịnh thƣờng đƣợc xếp thành 3 mảng chính là: Tình yêu, Quê
hƣơng và Thân phận.
Tình yêu là đề tài lớn nhất trong tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những
bản tình ca chiếm đa số trong danh mục ca khúc của ông. Nhạc tình của Trịnh



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
38





Công Sơn đa số là nhạc buồn, thƣờng nói lên tâm trạng buồn chán, cô đơn
nhƣ trong Sương đêm, Uớt mi..., mang nỗi sầu li biệt nhƣ Diễm xưa, Biển
nhớ..., hay nuối tiếc những gì đã qua nhƣ Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn
nhớ hay em đã quên...

Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta (Bốn mùa thay lá)
Từ đó tác giả kêu gọi con ngƣời hãy yêu nguời: “hãy yêu nhau đi cho
gạch đá có tin vui” và yêu đời, bởi “cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”.
Có lẽ ít có dòng nhạc nào có tầm ảnh hƣởng lớn nhƣ nhạc Trịnh. Trong

Những bài hát này có giai điệu nhẹ nhàng, thƣờng đƣợc viết với tiết tấu

những năm tháng chiến tranh, nhạc của Trịnh Công Sơn chƣa đƣợc phép lƣu

chậm. Phần lời đƣợc đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, bề ngoài mộc mạc nhƣng

hành, thế nhƣng những ngƣời lính ở cả hai bên chiến tuyến vẫn say sƣa hát

rất thâm trầm sâu sắc, đôi khi mang những yếu tố tƣợng trƣng, siêu thực.

lên những ca khúc phản chiến, những bản tình ca và những bài tự tình quê

Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam. Nhạc sĩ

hƣơng, dân tộc của ông. Sau năm 1975, vì một số lí do, nhạc Trịnh Công Sơn

Thanh Tùng từng gọi Trịnh Công Sơn là “Ngƣời Việt viết tình ca hay nhất thế

vẫn bị cấm biểu diễn trong một thời gian dài (cho đến cuối những năm 80 đầu


kỉ” [65].

những năm 90 của thế kỉ XX - thời kì mở cửa, nhạc Trịnh Công Sơn mới

Tiếp theo là mảng ca khúc về quê hƣơng. Mảng này lại chia thành các

chính thức đƣợc phổ biến). Tuy nhiên, trong những năm chính quyền không

ca khúc phản chiến (các tập nhạc Da vàng nổi tiếng thập kỉ 60, 70 trong

cho phép, trên khắp nẻo đƣờng đất nƣớc, từ những nơi núi rừng heo hút cho

phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe) và các ca khúc ngợi ca con ngƣời xây

đến chốn thị thành, ngƣời dân vẫn nghe và yêu nhạc Trịnh. “Ngày nay, đi đến

dựng tái thiết đất nƣớc sau năm 1975 (với những ca khúc nhƣ Em ở nông

bất cứ nơi đâu trên trái đất này, nếu có cộng đồng ngƣời Việt sinh sống, thì

trường em ra biên giới, Chiều trên quê hương tôi..., ngoài ra còn có những ca

nơi đó có nhạc Trịnh Công Sơn” [33, tr.47].

khúc viết cho thiếu nhi nhƣ Em là hoa hồng nhỏ, Mẹ đi vắng..., và những bài
hát viết cho phim nhƣ Đời gọi em biết bao lần).

Hãy nghe những lời phát biểu về tầm ảnh hƣởng của Trịnh Công Sơn
và âm nhạc của ông:


Trong mảng ca khúc viết về quê hƣơng, ngƣời ta chú ý nhiều đến

“Nguyễn Trọng Tạo: Ở Việt Nam thế kỷ XX, có hàng vạn ngƣời sáng

những ca khúc phản chiến mang tính chất chống chiến tranh, ca ngợi hoà

tác ca khúc, nhƣng có 3 ngƣời không ai là không biết, đấy là Văn Cao, Phạm

bình. Có thể kể đến những tập ca khúc phản chiến tiêu biểu nhƣ: Ca khúc da

Duy và Trịnh Công Sơn. Trong 3 ngƣời đó, Trịnh Công Sơn là ngƣời ít tuổi

vàng, Kinh Việt Nam, Phụ khúc da vàng...

nhất và nhạc phẩm của anh xuất hiện sau đến vài chục năm, nhƣng hơn 500

Cuối cùng là mảng ca khúc về thân phận con ngƣời, đƣợc viết bằng sự

bài hát của anh đƣợc ngƣời đời say đắm đến cuồng nhiệt đã tạo ra một hiện

chiêm nghiệm về thân phận mình, thân phận ngƣời và cuộc đời với nội dung

tƣợng lạ lùng trong âm nhạc Việt thế kỷ XX. Anh thực sự là Ông Hoàng của

sâu sắc, mang tính triết lí cao, làm nên tính “bác học” và “độc đáo” của nhạc

tình ca Việt Nam, nhƣng cũng là một nhạc sĩ “phản chiến”, một nhạc sĩ của

Trịnh. Những ca khúc tiêu biểu nhƣ: Bốn mùa thay lá, Phôi pha, Một cõi đi


khát vọng hoà bình với cả trăm bài hát trong các tập Kinh Việt Nam và Ca

về, Ngẫu nhiên, Tiến thoái lưỡng nan, Như một lời chia tay... Những ca khúc

khúc da vàng.

này thƣờng nói về tính phù du của cuộc sống, của đời ngƣời:
Không hẹn mà đến không chờ mà đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên39

Ca từ của anh không chỉ giàu chất thơ nhƣ ngƣời ta thƣờng nói, mà đấy
là những bài thơ thật sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
40




yêu, về sự sinh ra và trở về Cát Bụi của thân phận ngƣời ngắn ngủi” (Theo

- Ca từ đƣợc hiểu là ngôn ngữ văn học trong âm nhạc, bao gồm: lời ca
trong ca khúc, hợp xƣớng; kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch; tên gọi, tiêu

[46, tr.461]).
“Hoàng Bình Thi: Nỗi đam mê tình yêu lứa đôi không thay thế đƣợc


đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chƣơng nhạc… Trong âm nhạc,

những điều lớn lao ở nhạc Trịnh Công Sơn, đó là nỗi đam mê nhận thức đời

ca từ có vai trò rất quan trọng. Nó bổ sung tính cụ thể, nối thêm sức truyền

sống, đeo đuổi cho đến cùng câu hỏi nghiệt ngã nhất “ta là ai?”. Nhƣ một đời

cảm và mở cửa cho hình tƣợng nghệ thuật đi vào lòng ngƣời thƣởng thức.

sống thứ hai đầy cám dỗ, âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã khải thị những giá

- Ngôn ngữ trong ca từ là ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc chọn lọc, tinh

trị thực của đời ngƣời. Nó chống lại sự xáo mòn, băng hoại. Không dồn đuổi

luyện, giàu hình ảnh, nhạc điệu, có những đặc trƣng riêng biệt và đƣợc tổ

con ngƣời ta tới một nhịp sống gấp gáp, cũng không làm con ngƣời buông

chức một cách đặc thù nhằm phản ánh cô đọng đời sống và biểu thị tinh tế

xuôi trƣớc số phận mà là nhìn nhận một cách chân xác chỗ đứng đúng nghĩa

mọi cung bậc tâm trạng, cảm xúc của con ngƣời.

của con ngƣời.

- Hình tƣợng trong ca từ là những hình tƣợng nghệ thuật, là bức tranh


Có lẽ tình yêu và nỗi đau phận ngƣời là những giá trị lớn nhất mà Trịnh

tâm trạng, bức tranh cuộc sống của con ngƣời trong một giai đoạn lịch sử nhất

Công Sơn để lại. Đó là một gia tài đồ sộ đến mức thử giả định nếu không có

định, đƣợc phản ánh trong ca khúc qua góc nhìn và sự nhạy cảm của nhạc sĩ.

Trịnh Công Sơn, nếu không có âm nhạc của ông, đời sống của chúng ta sẽ

Hình tƣợng trong ca từ có tính điển hình và liên quan chặt chẽ với hình tƣợng

nghèo nàn và thảm hại đến nhƣờng nào” (Theo [46, tr.462]).

của toàn bộ tác phẩm âm nhạc.

“Phạm Tuyên: Trong lĩnh vực ca khúc, lời ca có một vị trí hết sức quan

- Chủ thể cảm xúc trong ca từ xét đến cùng chính là tác giả của những

trọng và v mặt này Trịnh Công Sơn thực sự là một nhà thơ. Lời ca anh không

ca từ ấy. Cách thể hiện “cái tôi - tác giả” trong tác phẩm rất phong phú và đa

dễ dãi tuỳ tiện, mà luôn luôn ẩn sâu một triết lý về cuộc đời và điều đáng nói

dạng: có thể đƣợc biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm, có thể đƣợc ẩn đi hoặc

là anh đã tìm đƣợc những giai điệu phù hợp, dung dị, không cầu kỳ, kiểu cách


thể hiện thông qua những nhân vật trữ tình.

để thể hiện nội dung đó. Đối với ngƣời sáng tác, có đƣợc một phong cách

- Một trong những phƣơng thức làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo của

riêng là một điều phải phấn đấu. Trịnh Công Sơn không chủ tâm tạo cho mình

ngôn ngữ trong ca từ là so sánh. So sánh là cách sử dụng ngôn ngữ đặc biệt

một sự khác biệt lập dị, nhƣng bằng tình cảm chân thnàh của mình, anh đã có

trong quá trình sáng tạo ngôn từ nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ trong ca từ

đƣợc một phong cách rất riêng đƣợc sự mến mộ của đông đảo công chúng.

nói riêng. So sánh là một quá trình của sự nhận thức thế giới khách quan để

Sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu về hàng trăm ca khúc của anh

phát hiện và chỉ ra sự đồng nhất cũng nhƣ khác biệt về thuộc tính của các sự

với những sự đánh giá có thể khác nhau, nhƣng phải khẳng định rằng sự

vật đặt bên nhau. Trong âm nhạc, phƣơng thức này góp phần tạo nên những

nghiệp sáng tác của anh đã góp phần xứng đáng vào nền ca khúc Việt Nam

lời ca hấp dẫn, giàu hình ảnh, đồng thời cho thấy một phần phong cách riêng


hiện đại” (Theo [46, tr.463])...

của tác giả, trong đó có nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.
- Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ đã ghi lại dấu ấn đậm nét và cũng là

TIỂU KẾT

một hiện tƣợng hiếm gặp trong nền âm nhạc Việt Nam. Với những ca khúc về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên41



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
42




Quê hƣơng, Tình yêu và Thân phận con ngƣời, Trịnh Công Sơn đã tạo dựng
cho mình một dòng nhạc độc lập, có sức sống và vị trí riêng, đƣợc gọi với cái
tên bình dị, thân quen là Nhạc Trịnh. Những ca khúc của Trịnh Công Sơn có
tầm ảnh hƣởng lớn không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn vƣợt biên giới
đến với những trái tim yêu nhạc ở nhiều nƣớc trên thế giới. Một trong những

CHƢƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC
VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG THỨC SO SÁNH
TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
2.1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC CỦA PHƢƠNG THỨC SO


yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần ca từ và đó cũng là nơi

SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông, trong đó có sử dụng

2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh
Trong 242 ca khúc đƣợc khảo sát, có 148 bài trong đó Trịnh Công Sơn

phƣơng thức so sánh.

sử dụng phƣơng thức so sánh, thể hiện ở 406 lƣợt so sánh, với 13 kiểu cấu
trúc so sánh.
Sau đây là ví dụ và sự phân tích đối với từng kiểu cấu trúc:
- Cấu trúc A + tnss + B, ví dụ:
Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)
(Trong đó: A: mắt em cười
tnss: tựa
B: lá bay)
Và các ví dụ khác:
- Tình như đá hoài những chờ mong
Tình vu vơ sao ta muộn phiền (Nhƣ một lời chia tay)
- Trời nước bao la em như là chim én
Em trên xuồng qua rạch rồi lại nối qua sông
(Mênh mông Đồng Tháp)
- Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không (Nghe những tàn phai)
- Đời ta có khi tựa lá cỏ

Ngồi hát ca rất tự do (Đêm thấy ta là thác đổ)...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên43



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
44




Cấu trúc A + tnss + B đƣợc sử dụng 272/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 67%. Với
kiểu so sánh này, tác giả đã đồng nhất hoặc tƣơng tự hoá hai sự vật hiện tƣợng

sánh mang lại hiệu quả là gán cho sự vật đƣợc so sánh (A) đặc tính này của B,
trong hoàn cảnh cụ thể của ca khúc.

khác loại (A và B), mặc dù chúng có rất nhiều đặc tính. Cách so sánh mở này

- Cấu trúc A + B, ví dụ:

buộc ngƣời nghe phải suy ngẫm và liên tƣởng để chọn ra đặc tính nào (hoặc

- Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa

những đặc tính nào) là căn bản và đƣợc xem là tồn tại ở hai sự vật hiện tƣợng

Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ (Hoa xuân ca)


khác loại này, để tác giả lấy đó làm căn cứ so sánh.

(Trong đó: A: em

- Cấu trúc A + x + tnss + B, ví dụ:

B: suối kia rất ngọt)

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Và các ví dụ khác:

Chợt một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi)

- Sen hồng một độ

(Trong đó: A: tóc

Em hồng một thủa xuân xanh (Đoá hoa vô thƣờng)

x: trắng

- Đời vẽ tôi tên mục đồng

tnss: như

Rồi vẽ thêm con ngựa hồng

B: vôi)


Từ đó tôi lên đường phiêu linh (Chỉ có ta trong một đời)

Và các ví dụ khác:

- Một người ngồi hai mươi năm

- Những hẹn hò từ nay khép lại

Cuộc buồn vui ly rượu đắng (Ngày dài trên quê hƣơng)

Thân nhẹ nhàng như mây (Nhƣ một lời chia tay)

- Rồi từ nay em gọi

- Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa

Tình yêu dấu chim bay (Gọi tên bốn mùa)...

Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ (Hoa xuân ca)
- Thương ai màu áo trắng

Cấu trúc A + B đƣợc sử dụng 34/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 8,4%. Đây là
kiểu cấu trúc vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, chỉ còn lại yếu tố

Trong như ánh sao băng (Thƣơng một ngƣời)
- Một chiều kia có em buồn buồn

đƣợc so sánh (A) và yếu tố so sánh (B) đƣợc đặt dƣới hình thức đối chọi, và
sự liên kết giữa chúng không đƣợc hiển ngôn, chỉ căn cứ vào khả năng liên


Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)…

tƣởng. Cách so sánh này khiến ngƣời nghe phải tìm ra những đặc tính của A

Cấu trúc A + x + tnss + B đƣợc sử dụng 67/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 17%.

và những đặc tính của B để rồi tìm ra giao điểm của A và B tức là chọn ra đặc

Với kiểu so sánh này, tác giả đã nêu ra một sự vật cùng với một đặc tính nhất

tính chung nhất của hai đối tƣợng. Không những thế, ngƣời nghe còn phải suy

định của nó (A+x) để so sánh với một sự vật hiện tƣợng khác loại (B). Cách

ngẫm để xác định quan hệ giữa A và B là quan hệ tƣơng tự hay quan hệ ngang

so sánh này có tác dụng gợi dẫn ngƣời nghe tới một đặc tính nhất định,

bằng.

thƣờng là tồn tại hiển nhiên ở sự vật hiện tƣợng so sánh (B). Rốt cuộc sự so

- Cấu trúc x + tnss + B, ví dụ:
Ngày nay sao buồn thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên45



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

46




Những sáng hay đêm về

B: chim xa đàn)

Vẫn thấy rất ơ hờ

Và các ví dụ khác:

Bình yên như kiếp đá (Ngày nay không còn bé)

- Như là những bông hoa trong thành phố này

(Trong đó: x: bình yên

Tuổi đời mênh mông quá búp non đầu cây

tnss: như

(Tuổi đời mênh mông)

B: kiếp đá)

- Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà

Và các ví dụ khác:


Từ những phố kia tôi về (Đêm thấy ta là thác đổ)

- Một hôm bước chân về giữa chợ

- Như là mây giang hồ

Chợt thấy vui như trẻ thơ (Đêm thấy ta là thác đổ)

Lang thang cùng với gió

- Ôi nhân loại còn người và tôi thôi

Lạc loài nơi chốn xa (Cánh chim cô đơn)...

Rồi lang thang như mây trời (Xin mặt trời ngủ yên)

Cấu trúc tnss + B đƣợc sử dụng 6/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,5%. Trong cấu

- Một mai thức dậy

trúc này, yếu tố so sánh và phƣơng diện so sánh đã đƣợc giấu đi, trở thành mơ

Chuyện trò với lá cây

hồ. Ngƣời nghe muốn biết yếu tố so sánh ở đây là ai hay là gì và tác giả dựa

Rồi buồn như lá bay (Tình sầu)...

vào phƣơng diện nào để làm cơ sở so sánh thì phải đoán định căn cứ vào văn


Cấu trúc x + tnss + B đƣợc sử dụng 7/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,7%. Với

cảnh cụ thể, đó là những câu hát đứng trƣớc hoặc sau nó.

kiểu so sánh này, A - sự vật hiện tƣợng, thƣờng là chủ thể trữ tình đƣợc giấu

- Cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)...,ví dụ:

đi, chỉ nêu lên một đặc tính (chẳng hạn là bình yên). Đó là một sự vật hiện

Em là phấn thơm cho rừng chút hương

tƣợng phiếm định, đƣợc ngầm hiểu có thể là ngƣời nói, là ngƣời kia, là cả hai,

Là lời hát ca cho trần gian (Cho đời chút ơn)

hoặc ai đó... Là ai hay chẳng là ai cả? Điều đó gợi cho ngƣời nghe sự cảm nhận

(Trong đó: A: em

rằng ca từ nhƣ lời tự truyện của tác giả, lại nhƣ kể chuyện đời hoặc kể chuyện

tnss1, tnss2: là

của chính ngƣời nghe vậy. Tức là ngƣời nghe có thể chỉ là nghe ngƣời khác kể

B1: phấn thơm cho rừng chút hương

chuyện của họ, hoặc nghe kể về câu chuyện của chính mình. Điều đó tạo một


B2: lời hát ca cho trần gian)

sự liên tƣởng và thành cơ sở của sự đồng cảm giữa ngƣời nghe và tác giả.

Và các ví dụ khác:

- Cấu trúc tnss + B, ví dụ:

- Con chim về đậu bên người

Như là chim xa đàn

Là thiên sứ đó là tôi cũng chừng (Thiên sứ bâng khuâng)

Giấu nỗi buồn trong cánh

- Ngủ đời tên đi con như vết thương đau ngủ buồn

Hẹn hò với giấc mơ (Cánh chim cô đơn)

Như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng (Vết lăn

(Trong đó: tnss: như là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên47

trầm)




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
48




đoán định đâu là ranh giới giữa yếu tố đƣợc so sánh, phƣơng diện so sánh và
yếu tố so sánh.
- Cuộc tình lên cao vút
Như chim mỏi cánh rồi

- Cấu trúc tnss + B + A + x, ví dụ:
Như một hòn bi xanh

Như chim xa lìa bầy

Trái đất này quay tròn (Nhƣ hòn bi xanh)

Như chim xa lìa trời

(Trong đó: tnss: như

Như chim bỏ đường bay (Tình sầu)...

B: một hòn bi xanh

Cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)... đƣợc sử dụng 6/406 lƣợt,

A: trái đất này


chiếm tỉ lệ 1,5%. Nếu kiểu so sánh A + tss + B chỉ đồng nhất hoặc tƣơng tự
hoá hai sự vật hiện tƣợng khác loại, thì kiểu A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)...
đã đƣa ngƣời nghe tới những khả năng đa dạng hơn và yêu cầu đoán định trên
cơ sở liên tƣởng chọn lọc, liên kết nhiều đặc tính ở nhiều sự vật khác loại.
Điều đó giống nhƣ cách giải câu đố: Các vật vừa giống cái này, lại vừa giống

x: quay tròn)
Và ví dụ khác:
Như là cơn gió em còn cứ mãi bay đi (Hoa vàng mấy độ)
Cấu trúc tnss + B + A + x đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,5%.
Trong kiểu cấu trúc này, vị trí của các yếu tố so sánh đã đƣợc thay đổi: từ so

cái kia, và cái kia nữa..., đó là gì. Cách so sánh một sự vật hiện tƣợng với

sánh thay vào vị trí của yếu tố đƣợc so sánh, yếu tố so sánh thay vào vị trí của

nhiều sự vật hiện tƣợng đƣa ngƣời nghe tới một chuỗi liên tƣởng.

phƣơng diện so sánh, yếu tố đƣợc so sánh thay vào vị trí của từ so sánh, yếu

- Cấu trúc A + x + B. Ví dụ:

tố phƣơng diện thay vào vị trí của yếu tố so sánh. Với việc đảo trật tự cấu trúc

Ôi tóc em dài đêm thần thoại

này, tác giả nhằm nhấn mạnh đến yếu tố phƣơng diện so sánh (bằng cách đặt

Vùng tương lai chợt xa xôi


nó ở cuối câu).

Tuổi xuân ơi sao lạnh dòng máu trong người (Gọi tên bốn mùa)

Đời sao im vắng

(Trong đó: A: tóc em

Như đồng lúa gặt xong

x: dài

Như rừng núi bỏ hoang (Ru ta ngậm ngùi)

B: đêm thần thoại)

(Trong đó: A: đời

Và các ví dụ khác:
- Ngủ đi em da thơm quả ngọt (Em hãy ngủ đi)
- Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc (Em hãy ngủ đi)
Cấu trúc A + x + B đƣợc sử dụng 3/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,7%. Đây là
kiểu cấu trúc vắng từ ngữ so sánh. Với kiểu cấu trúc này, ngƣời nghe sẽ phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên49

- Cấu trúc A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2), ví dụ:




x: im vắng
tnss1, tnss2: như
B1: đồng lúa gặt xong
B2: rừng núi bỏ hoang)
Và ví dụ khác:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
50




×