Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Quá trình hợp tác hóa nông nghiệp ở thái nguyên (từ 1958 đến 1990)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.42 MB, 57 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
--0

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ VIỆT HÀ

LÊ VIỆT HÀ

QUÁ TRÌNH HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP
Ở THÁI NGUYÊN (TỪ 1958 ĐẾN 1990)

QUÁ TRÌNH HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP
Ở THÁI NGUYÊN (TỪ 1958 ĐÊN 1990)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: T.S. NGUYỄN DUY TIẾN

THÁI NGUYÊN 2009

THÁI NGUYÊN 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



1



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2




MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1.

KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN TRƢỚC KHI TIẾN
HÀNH HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP

7

- T.S. Nguyễn Duy Tiến đã quan tâm hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi tận

1.1.


Vài nét về điều kiện tự nhiên, xã hội của Thái Nguyên

7

tình chu đáo trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành

1.2.

Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp ở Thái Nguyên
giai đoạn trƣớc khi tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp

15

CHƢƠNG 2.

HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN THỜI
KÌ THỰC HIỆN CƠ CHẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG
(1958 - 1980)

24

2.1.

Lí luận chung và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phong trào hợp tác hóa trong nông nghiệp

24

Tôi xin trân trọng cảm ơn những sự giúp đỡ quí báu đó, cảm ơn sự


2.1.1.

Lí luận chung

26

góp ý chân thành và sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô, bạn bè đồng

2.1.2.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phong trào
hợp tác xã trong nông nghiệp

30

2.2.

Thời kì đầu xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở
Thái Nguyên (1958 - 1960).

34

2.3.

Thời kì tổ chức hợp tác xã bậc cao thực hiện cơ chế kế
hoạch hóa tập trung (1961 - 1980)

70

CHƢƠNG 3.


HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN THỜI
KÌTHỰC HIỆN CƠ CHẾ KHOÁN (1981 - 1990)

3.1.

Thực hiện cơ chế khoán theo tinh thần Chỉ thị 100
(1981- 1988)

70

3.2.

Thực hiện cơ chế khoán theo tinh thần Nghị quyết số 10
(1988- 1990)

77

3.3.

Tác động của Khoán 100, Khoán 10 đến tình hình
kinh tế - xã hội của thái nguyên

82

Kết luận

87

Tài liệu tham khảo


95

Bằng tấm lòng thành kính. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính
trọng sâu sắc tới:

luận văn.
- Ban chủ nhiệm khoa Lịch Sử, khoa Sau Đại học và các thầy cô
bộ môn đã quan tâm giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
bảo vệ luận văn.

nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện cho tôi học tập nâng cao đƣợc trình
độ trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009
Tác giả
Lê Việt Hà

Phụ lục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4





MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Hợp tác hóa trong nông nghiệp là một thực thể lịch sử, là sự ra đời của
một chủ thể kinh tế ở nông thôn nƣớc ta trong thời gian dài, có tác dụng lớn
đến sự phát triển kinh tế, văn hóa ở nông thôn nói riêng và đến toàn bộ nền
kinh tế xã hội nƣớc ta nói chung
Phong trào hợp tác hóa, xây dựng HTX sản xuất nông nghiệp đƣợc
thực hiện trong công cuộc cải tạo XHCN từ cuối những năm 50 thế kỉ XX, có
ảnh hƣởng to lớn đến việc phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật, nâng cao trình độ
thâm canh, tích tụ và tập trung hoá sản xuất, khắc phục tình trạng lạc hậu
nặng nề về kĩ thuật, sản xuất phân tán, manh mún, tự cấp tự túc; tạo điều kiện
phát triển sản xuất đi lên con đƣờng XHCN. Tổ chức kinh tế tập thể còn có
vai trò to lớn trong việc cải thiện đời sống văn hoá - xã hội, cải biến nông
thôn, có vai trò quan trọng bảo đảm sản xuất, đồng thời cung cấp sức ngƣời,
sức của cho tiền tuyến trong thời kì đất nƣớc có chiến tranh. Nhƣng trong quá
trình thực hiện, do tƣ tƣởng chủ quan, nôn nóng, muốn cải biến quan hệ sản
xuất, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá và sản xuất chuyên môn hoá, hiện đại
hoá mà coi nhẹ vai trò của yếu tố lực lƣợng sản xuất; đồng thời, do sự hạn chế
về kiến thức và khả năng tổ chức, quản lí..., cho nên hợp tác hóa sản xuất
nông nghiệp có nhiều nhƣợc điểm thể hiện ở: sức sản xuất xã hội; hiệu quả
kinh tế; nhịp độ phát triển sản xuất giảm dần..., số đông HTX không còn
chứng minh đƣợc tính ƣu việt của phƣơng thức sản xuất mới.
Đánh giá một vấn đề rộng lớn, quan trọng nhƣ vậy là một vấn đề phức
tạp, cần có nhiều ý kiến tham gia. Để góp phần vào sự đánh giá đó, chúng tôi
cho rằng, phải tiếp cận từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, phƣơng pháp, lĩnh
vực khoa học khác nhau (kinh tế học, xã hội học, thống kê học, sử học....).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6




Dựa trên quan điểm lịch sử, hệ thống lại quá trình hợp tác hóa nông nghiệp ở

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Thái Nguyên, nhất là dựa trên quan điểm đổi mới của Đảng để nghiên cứu,

Hợp tác hóa nông nghiệp là một vấn đề không chỉ đƣợc các đồng chí

phân tích,... đánh giá đúng mức khách quan những mặt thành công và hạn

lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc, mà còn đƣợc cả những nhà nghiên cứu cũng

chế; nhận rõ bản chất mô hình cũ, nội dung cơ bản của quan điểm đổi mới để

rất quan tâm dƣới nhiều hình thức, góc độ khác nhau. Đặc biệt, từ khi thực

nâng cao nhận thức, thống nhất hành động, tiếp tục đổi mới là một yêu cầu


hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc theo chủ trƣơng của Đảng, với cách tƣ duy

khách quan đặt ra.

mới, việc đánh giá quá trình hợp tác hóa đối với sự phát triển kinh tế cả nƣớc

Thực hiện đƣờng lối hợp tác hóa của Trung ƣơng Đảng, cùng với miền
Bắc, Thái Nguyên tiến hành cuộc vận động xây dựng quan hệ sản xuất mới
XHCN. Phong trào nhanh chóng phát triển sôi nổi, rộng khắp làm cho nông
thôn miền núi từng bƣớc đổi mới: Từ nông dân làm ăn cá thể đã trở thành giai
cấp nông dân tập thể làm chủ bản làng, làm chủ xã hội; nguồn tài nguyên

nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng, càng đƣợc nghiên cứu sâu hơn
nhằm tìm ra những kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện kinh tế hợp tác trong
thời kì đổi mới.
Trong tác phẩm “Nội dung cơ bản của cách mạng XHCN ở Việt Nam”
của đồng chí Lê Duẩn, Nxb Sự thật Hà Nội, xuất bản năm 1986, đã đề cập tới
những nội dung cơ bản của cách mạng XHCN ở Việt Nam và đƣợc trình bày

thiên nhiên phong phú.
Nghiên cứu, tìm hiểu quá trình hợp tác hóa nông nghiệp ở Thái
Nguyên, góp phần làm sáng rõ tinh thần cách mạng bắt nguồn từ lòng yêu
nƣớc, tha thiết với chế độ mới XHCN của nhân dân các dân tộc trong tỉnh;
khẳng định vai trò của phong trào hợp tác hóa ở địa phƣơng, nhất là những
đóng góp to lớn của phong trào đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc và thống nhất đất nƣớc cũng nhƣ đóng góp cho việc khôi phục và phát
triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn đầu tiến lên CNXH. Qua đó, cũng thấy
đƣợc mặt hạn chế của phong trào để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
trong quá trình phát triển nền nông nghiệp của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.


tại đại hội lần thứ IV của Đảng trong đó có các về vấn đề: Hợp tác hóa nông
nghiệp, đẩy mạnh cách mạng khoa học kĩ thuật, xây dựng đào tạo con ngƣời
mới, kinh tế địa phƣơng vv....; Tác giả Phạm Nhƣ Cƣơng trong cuốn “Một số
vấn đề kinh tế của hợp tác hóa nông nghiệp ở Việt Nam” Nxb Khoa học xã
hội, 1991, có đề cập đến Lịch sử hợp tác hóa ở nƣớc ta sau cách mạng tháng
tám (1945), bản chất và những khuyết điểm của nó cùng những đề nghị về
điều chỉnh quá trình hợp tác hóa trong thời gian tới; Chử Văn Lâm, Nguyễn
Thái Nguyên, Phùng Hữu Phú trong cuốn “Hợp tác hóa nông nghiệp Việt
Nam: Lịch sử, vấn đề, triển vọng” Nxb Sự thật, 1992, đã đề cập tới Lịch sử
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp trong suốt 30 năm 1958-1980. Những

Từ những lí do trên đây, chúng tôi lựa chọn vấn đề “ Hợp tác hóa nông

thành tựu và thiếu sót của phong trào này. Những nét mới trong phong trào

nghiệp ở Thái Nguyên từ 1958 đến 1990” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp

hợp tác hóa hiện nay: Vấn đề và mâu thuẫn; một số kinh nghiệm của nƣớc

Thạc sĩ Khoa học Lịch sử của mình.

ngoài; định hƣớng và giải pháp của kinh tế hợp tác ở nông thôn.
Về quá trình hợp tác hóa nông nghiệp Thái Nguyên đã có những tài liệu
đề cập đến nhƣ Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 4,5,6..., các văn kiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8




trên đã tổng kết đánh giá những thành tựu đạt đƣợc ở nhiệm kì trƣớc và đề ra

3.3. Nhiệm vụ của đề tài

đƣờng lối chỉ đạo của Đảng bộ đối với sự phát triển kinh tế nông nghiệp của

- Nghiên cứu, hệ thống lại quá trình hình thành và phát triển phong trào

tỉnh, nhất là quá trình hợp tác hóa trong từng giai đoạn. Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên (1936-1965) và (1965-2000) xuất bản năm 2003, 2005, cũng đã đề
cập đến quá trình hợp tác hóa nông nghiệp Thái Nguyên trƣớc và trong đổi mới.

hợp tác hóa nông nghiệp ở Thái Nguyên.
- Từ thực tiễn phong trào, trong quá trình thực hiện kinh tế HTX nông
nghiệp, thông qua cách thức tiến hành, tổ chức, qui mô HTX,... của tỉnh trong

Các báo cáo tổng kết về tình hình kinh tế - xã hội từ 1958 đến 1990 của

việc quản lí hoạt động sản xuất, dƣới hình thức tập thể hóa TLSX. Đề tài rút

Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn,…Hệ


ra những mặt thành công và hạn chế của phong trào hợp tác hóa của tỉnh

thống niên giám thống kê của tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên). Tất cả các

trong tổng thể tình hình chung của cả nƣớc giai đoạn 1958 - 1990.

công trình trên, do mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau đã đề cập đến
chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, quá trình hợp tác hóa nông nghiệp Thái
Nguyên ở nhiều khía cạnh khác nhau, nhƣng chƣa có một công trình nghiên
cứu nào nghiên cứu riêng một cách đầy đủ có hệ thống quá trình hợp tác hóa
nông nghiệp Thái Nguyên từ 1958 - 1990. Tuy nhiên, chúng tôi đánh giá rất
cao các công trình nghiên cứu trên và coi đó là nguồn tƣ liệu quý giúp cho
việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.

4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Nguồn tài liệu
Luận văn sử dụng các nguồn tƣ liệu sau:
- Các tác phẩm kinh điển của Mác - Ăng ghen, Lênin bàn về vấn đề
hợp tác hóa.
- Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba, tƣ và các nghị quyết,

Luận văn này sẽ đi sâu nghiên quá trình hợp tác hóa nông nghiệp Thái
Nguyên từ 1958 đến 1990.

chỉ thị của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề hợp tác hóa.
- Văn kiện, nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh

3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI


3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Thái Nguyên trong thời kì 1954 -1990, trong đó chủ yếu là thời kì 1958 - 1990.
Những tác phẩm, bài viết của các lãnh tụ về lịch sử kinh tế xã hội trong

Quá trình hợp tác hóa nông nghiệp Thái Nguyên từ 1958 đến 1990.

đó có chủ trƣơng hợp tác hóa của Đảng, lịch sử Đảng bộ tỉnh và nhiều tài liệu

3.2. Phạm vi nghiên cứu

khác viết về vấn đề hợp tác hóa của Thái Nguyên nói riêng.

Tập trung vào quá trình hợp tác hóa nông nghiệp Thái Nguyên từ 1958

Tƣ liệu đƣợc khai thác chủ yếu ở Kho lƣu trữ Văn phòng Tỉnh uỷ, Lƣu

đến 1990. Tuy nhiên để làm rõ yêu cầu của đề tài, Luận văn có đề cập đến

trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thƣ viện tỉnh, Phòng Lịch sử - Ban Tuyên giáo

tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp và quan hệ sản xuất trong thời gian

Tỉnh uỷ, Cục Thống kê, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn và nhiều tài

trƣớc khi thực hiện hợp tác hóa;

liệu, văn bản sƣu tầm của cá nhân…. Đó là cơ sở, cứ liệu chủ yếu trong
nghiên cứu đề tài.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10




Thực hiện đề tài, chúng tôi còn khai thác tƣ liệu từ nhân chứng, từ điều
tra thực địa để đảm bảo tính chính xác và phong phú hơn cho nội dung đề tài
nghiên cứu.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

CHƢƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN TRƢỚC KHI TIẾN HÀNH
HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP
1.1. VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA

Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp

TỈNH THÁI NGUYÊN

phƣơng pháp lôgíc là chủ yếu. Các phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu,


1.1.2. Điều kiện tự nhiên

tổng hợp cũng đƣợc sử dụng để làm sáng tỏ nội dung đề tài. Từ kết quả của

Thái Nguyên là một tỉnh miền núi thuộc vùng trung du Đông Bắc

, có

2

phong trào hợp tác hóa, chúng ta sẽ thấy đƣợc quy luật vận động bên trong

diện tí ch đất tƣ̣ nhiên là 3.541,1 km , chiếm 1,13% diện tí ch cả nƣớc. Phía bắc

của quá trình, rút ra khái quát lí luận, đặc điểm, tính chất của vấn đề nghiên

giáp tỉnh Bắc K ạn, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc , Tuyên Quang , phía đông

cứu, đồng thời thấy đƣợc nguyên nhân hạn chế của vấn đề nghiên cứu.

giáp tỉnh Lạng Sơn , Bắc Giang, phía nam giáp thủ đô Hà Nội .
Địa hình tỉnh Thái Nguyên rất phong phú và đa dạng , Thái Nguyên có

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Luận văn trình bày một cách cơ bản và hệ thống quá trình xây dựng, phát
triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Thái Nguyên thời kì 1958 - 1990.

nhiều dãy núi cao chạy theo hƣớng Bắc - Nam, thấp dần xuống phía Nam và

chấm dƣ́t ở Đèo Khế . Cấu trúc vùng núi phí a Bắc chủ yếu là đá phong hoá

- Luận văn làm rõ vị trí, đặc điểm và vai trò của Thái Nguyên trong quá

mạnh (castơ) tạo thành nhiều hang động , thung lũng nhỏ . Phía Tây Nam có

trình xây dựng, phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp cùng với cả cả

dãy Tam Đảo với đỉnh cao nhất 1.590 m, các vách nú i dƣ̣ng đƣ́ng và kéo dài

nƣớc; thấy đƣợc những cố gắng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh trong quá

theo hƣớng tây bắc - đông nam . Ngoài hai dãy núi kể trên , tỉnh còn có dãy

trình thực hiện thắng lợi của cuộc cách mạng xây dựng XHCN này là một sự tiếp

Ngân Sơn (bắt đầu tƣ̀ Bắc Kạn chạy theo hƣớng Đông bắc

nối xuất sắc truyền thống yêu nƣớc của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên.

huyện Võ Nhai ) và dãy núi Bắc Sơn chạy theo hƣớng Tây bắc

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy
và học tập lịch sử địa phƣơng ở các trƣờng chuyên nghiệp và phổ thông.

lắm nếu so với các tỉ nh trung du , miền núi khác trong vùng . Đây là điều kiện
thuận lợi cho tỉ nh trong quá trì nh phát triển sản xuất nông

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn


riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung .

CHƢƠNG 1:
CHƢƠNG 2:
CHƢƠNG 3:

- lâm nghiệp nói

Khí hậu của Thái Nguyên chia làm 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Lƣợng

KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN TRƢỚC KHI TIẾN
HÀNH HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP
HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN THỜI KÌ
THỰC HIỆN CƠ CHẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG
(1958 - 1980)
HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN THỜI KÌ
THỰC HIỆN CƠ CHẾ KHOÁN (1981 - 1990)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Đông nam .

Là tỉnh trung du , miền núi , nhƣng đị a hì nh tỉ nh Thái Nguyên không phƣ́c tạp

6. KẾT CẤU LUẬN VĂN

kết cấu thành 3 chƣơng:

- Tây nam đến


11



mƣa trung bì nh khoảng 2.000 mm/năm, cao nhất vào tháng 8 (400 mm) và
thấp nhất vào tháng 1 (dƣới 50 mm). Do đị a hì nh thấp dần tƣ̀ vùng núi cao
xuống vùng núi thấp , trung du, đồng bằng theo hƣớng Bắc - Nam, nên khí hậu
Thái Nguyên vào mùa đông đƣợc chia thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3 vùng rõ rệt : vùng lạnh nhiều

12




nằm ở phí a bắc huyện Võ Nhai ; vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hoá , Phú

Đất đồi : Chiếm 31,4% diện tí ch tƣ̣ nhiên , chủ yếu hình thành trên cát

Lƣơng và phí a nam huyện Võ Nhai ; vùng ấm gồm các huyện Đại Từ , Đồng

kết, bột kết , phiến sét và một phần phù sa cổ . Đất đồi tại một số vùng nhƣ :

Hỷ, Phú Bình , Phổ Yên, thị xã Sông Công và thành phố Thái Nguyên . Nhiệt

Đại Tƣ̀, Phú Lƣơng ,... nằm ở độ cao 150 - 200 m, độ dốc 5 - 200, phù hợp cho


độ chênh lệch giƣ̃a tháng nóng nhất
0

(tháng 6: 28,90C) với tháng lạnh nhất

0

(tháng 1: 15,2 C) là 13,7 C. Tổng số giờ nắng trong năm dao động trong
khoảng 1.300 - 1.750 giờ, phân phối tƣơng đối đều cho các tháng trong năm .
Thái Nguyên có nhiều sông, suối phân bổ tƣơng đối đều trên địa bàn
tỉnh, trong đó lớn nhất là sông Cầu và sông Công. Sông Cầu bắt nguồn từ

sƣ̣ sinh trƣởng của cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm .
Đất ruộng : Chiếm 12,4% diện tí ch tƣ̣ nhiên , đây là loại đất có sƣ̣ phân
hoá phức tạp . Một phần phân bố dọc theo các con suối , rải rác không tập
trung, chịu tác động lớn của chế độ thuỷ văn khắc nghiệt

(lũ đột ngột , hạn

hán,...), khó khăn cho việc canh tác .

huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn) chạy xuống địa bàn tỉnh Thái Nguyên suốt từ bắc

Với đặc điểm địa hình tự nhiên nhƣ vậy, tỉnh Thái Nguyên có tiềm

xuống nam qua các huyện Phú Lƣơng, Võ Nhai, Đồng Hỷ, thị xã Thái

năng đất đai rất đa dạng kể cả đất nông nghiệp, đất công nghiệp, đất rừng và

Nguyên, Phú Bình và Phổ Yên, tạo nên trục đối xứng cả về lãnh thổ và hƣớng


tài nguyên khoáng sản.

dốc của tỉnh. Sông Công bắt nguồn từ xã Điềm Mặc (Định Hoá) chảy theo

1.1.1. Địa l‎í hành chính

hƣớng nam qua huyện Đại Từ, thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công

Thái Nguyên là điểm tiếp giáp, là cầu nối giữa đồng bằng châu thổ

xuống huyện Phổ Yên, hợp với sông Cầu ở xã Thuận Thành (Phổ Yên).

sông Hồng với các tỉnh miền núi phía Bắc (Bắc Kạn, Lạng Sơn). Tỉnh có ba

Ngoài ra, Thái Nguyên còn có nhiều sông ngắn và nhỏ nhƣ sông Đu, sông

quốc lộ: Quốc lộ số 3 chạy dọc theo chiều dài tỉnh từ phía nam (cầu Đa Phúc,

Nghinh Tƣờng, sông Dong, sông Chu, sông Khe Mo, sông Huống Thƣợng…

huyện Phổ Yên) lên phía bắc (cầu ổ Gà, huyện Phú Lƣơng), qua tỉnh Bắc Kạn

và nhiều suối nhỏ khác. Các sông, suối Thái Nguyên hằng năm cung cấp cho

lên Cao Bằng. Quốc lộ 1B từ cầu Gia Bẩy (điểm nối thành Phố Thái Nguyên

đồng ruộng ven sông một khối lƣợng phù sa rất lớn, làm cho đất đai thêm phì

và huyện Đồng Hỷ) qua hai huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai lên tỉnh Lạng Sơn.


nhiêu, mầu mỡ, giữ đƣợc độ ẩm quanh năm, thuận lợi cho việc gieo trồng các

Quốc lộ 19 chạy từ Hiệp Hoà (Bắc Giang) sang Thái Nguyên. Ngoài ra, tỉnh

loại cây lƣơng thực và hoa màu.

Thái Nguyên còn có hai tuyến đƣờng sắt: Hà Nội - Quan Triều - Núi Hồng và

Đất Thái Nguyên chủ yếu thuộc loại Feralit, đất đá vôi và đất ruộng

Lƣu Xá (Thái Nguyên) - Kép (Bắc Giang) - Uông Bí (Quảng Ninh), cùng

thích hợp cho việc phát triển cây lƣơng thực, thực phẩm, cây công nghiệp và

nhiều tuyến giao thông nội tỉnh, liên tỉnh thuận tiện. Đó là đƣờng 13A từ Bờ

chăn nuôi đại gia súc.

Đậu (Phú Lƣơng), qua trung tâm huyện Đại Từ vƣợt đèo Khế sang Tuyên

Đất núi : chiếm 48,4% diện tí ch tƣ̣ nhiên, nằm ở độ cao trên 200m so
với mƣ̣c nƣớc biển , thích hợp cho phát triển lâm nghiệp

, trồng rƣ̀ng đầu

nguồn, rƣ̀ng phòng hộ , rƣ̀ng kinh doanh và trồng các cây đặc sản, cây ăn quả ,
cây lƣơng thƣ̣c phục vụ nhân dân vùng cao .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Quang. Với vị trí địa lí nhƣ vậy, rất thuận lợi cho việc giao lƣu kinh tế giữa
các địa phƣơng trong tỉnh với các tỉnh bạn.
Vùng đất Thái Nguyên đã đƣợc hình thành từ lâu đời, từ thời các vua
Hùng nƣớc ta chia làm 15 bộ, Thái Nguyên khi đó thuộc về bộ Vũ Định.

13



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14




Cùng với tiến trình lịch sử dân tộc, địa danh và địa giới Thái Nguyên đã có

1.1.3. Tình hình văn hóa, xã hội

nhiều thay đổi qua các triều đại.

Dƣới thời Pháp thuộc, Thái Nguyên có dân số khoảng 100.000 ngƣời;

Đến thời Pháp thuộc, từ năm 1890, để dễ bề cai trị và đàn áp những

mật độ dân số 29 ngƣời/km2 [61, 4]. Ngƣời dân bản địa ở Thái Nguyên so với

cuộc nổi dậy của nhân dân ta, tỉnh Thái Nguyên bị chia nhỏ địa bàn nhập vào


những tỉnh khác không nhiều, song qua các thời kì lịch sử, thành phần dân tộc

các Tiểu quân khu thuộc các đạo quan binh. Nhƣ vậy, từ tháng 10-1890 đến

và dân số đã tăng nhanh. Tính đến năm 1936, tỉnh Thái Nguyên đã tiếp nhận

tháng 9-1892, tỉnh Thái Nguyên bị xóa bỏ, phân tán vào các địa bàn khác

trên 6 ngàn đồng bào từ các tỉnh miền xuôi đến lập nghiệp. Đồng bào nhập cƣ

nhau đặt dƣới quyền quản lí của chính quyền quân sự Pháp.

đến Thái Nguyên tăng nhanh trong những năm sau này, nhất là trong thời kì

Ngày 20-8-1945, nhân dân các dân tộc Thái Nguyên nổi dậy giành chính

kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).

quyền, đơn vị hành chính thị xã Thái Nguyên đã chính thức ra đời. Trong thời kì

Ngày nay, dân số Thái Nguyên có gần 1,1 triệu dân, gồm 8 dân tộc chủ

kháng chiến chống thực dân Pháp, việc chia tách, sáp nhập đổi tên các đơn vị hành

yếu là: Kinh, Tày, Nùng, Dao, H’Mông, Sán Chay, Sán Dìu, Hoa và một số ít

chính tại tỉnh Thái Nguyên diễn ra khá nhiều, song chỉ ở cấp xã.

các dân tộc khác nhƣng chiếm tỉ lệ không lớn. Mật độ dân số khoảng 260


Năm 1954, miền Bắc đƣợc giải phóng, Thái Nguyên bƣớc vào giai

ngƣời/ km2, cao nhất trong các tỉ nh miền núi phí a bắc

. Tuy nhiên , dân cƣ

đoạn xây dựng cuộc sống mới sau chiến tranh, thị xã Thái Nguyên nhanh

phân bố khô ng đều, vùng cao và vùng núi dân cƣ rất thƣa thớt , trong khi đó ở

chóng đƣợc mở rộng . Tháng 8-1956, Khu tƣ̣ trị Việ t Bắc đƣợc thành lập gồm

vùng thành thị , đồng bằng dân cƣ rất dày đặc . Nơi có mật độ dân cƣ cao nhất

5 tỉnh: Cao Bằng , Bắc Kạn , Lạng Sơn, Thái Nguyên , Tuyên Quang; Thái

là thành phố Thái Nguyên (1.300 ngƣời/km2), nơi có mật độ dân cƣ thấp nhất

Nguyên trở thành thủ phủ của Khu tƣ̣ trị Việt Bắc . Lúc này, huyện Phú Bì nh

là huyện Võ Nhai (khoảng 80 ngƣời/km2). [63,44]

tách khỏi tỉnh Thái Nguyên chuyển về tỉnh Bắc Giang ; huyện Phổ Yên cắt về

Ở Thái Nguyên, dân tộc Kinh chiếm 75,5% dân số. Đây là dân tộc

tỉnh Vĩnh Phúc . Tháng 4-1957, hai huyện này lại trở về thuộc tỉ nh Thái

mang nguồn gốc bản địa, chiếm số lƣợng đông nhất. Dân tộc Kinh gồm nhiều


Nguyên nhƣ cũ .

bộ phận hợp thành: Dân bản địa, dân tuyển mộ vào làm công trong các mỏ,

Năm 1965, tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Kạn hợp nhất thành tỉnh Bắc

đồn điền, có bộ phận là ngƣời di dân từ các vùng đồng bằng lên. Địa bàn cƣ

Thái với 13 đơn vị hành chính cấp huyện: thành phố Thái Nguyên, huyện Phú

trú của ngƣời Kinh rộng khắp từ vùng trung du phía nam đến các vùng núi

Bình, Phổ Yên, Đồng Hỷ, Võ Nhai, Phú Lƣơng, Định Hóa, Đại Từ, Bạch

rừng hẻo lánh phía Bắc, trong đó tập trung nhiều ở khu vực thị xã Thái

Thông, Chợ Đồn, Na Rì, Ngân Sơn, Chợ Rã.

Nguyên. Ngƣời Kinh có kinh nghiệm sản xuất và khả năng tiếp thu nhanh các

Ngày 1-1-1997, tỉnh Bắc Thái lại chia tách thành hai tỉnh Thái Nguyên

tiến bộ khoa học - kĩ thuật. Tổ chức xã hội của ngƣời Kinh cũng rất chặt chẽ,

và Bắc Kạn. Tỉnh Thái Nguyên ngày nay gồm thành phố Thái Nguyên , thị xã

từ thành thị đến nông thôn mang nét đặc trƣng tiêu biểu của xã hội Việt Nam.

Sông Công và 7 huyện Phú Bì nh , Phổ Yên, Đồng Hỷ , Võ Nhai, Phú Lƣơng ,


Xuất phát từ đặc điểm cƣ trú, ngƣời Kinh có truyền thống trồng lúa nƣớc, làm

Đại Tƣ̀ và Đị nh Hoá .

nông nghiệp và nghề thủ công.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16




Dân tộc có số ngƣời đông thứ hai ở Thái Nguyên là ngƣời Tày, chiếm

cùng một lãnh thổ. Mỗi dân tộc tuy có nguồn gốc và quá trình phát triển riêng,

10,7% dân số. Cũng nhƣ ngƣời Kinh, ngƣời Tày có mặt ở Thái Nguyên từ rất

có dân tộc cƣ trú lâu đời, có dân tộc mới từ các tỉnh chuyển đến sinh cơ lập

lâu đời, tổ tiên của ngƣời Tày vốn là cƣ dân bản địa ở miền Bắc Việt Nam,


nghiệp vài ba đời, các dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên đều có sự nỗ lực rất lớn

vùng giáp ranh biên giới Việt - Trung. Địa bàn cƣ trú của ngƣời Tày rộng khắp

vun đắp nên truyền thống đoàn kết dân tộc. Xuất phát từ truyền thống đó mà

trong phạm vi toàn tỉnh, song chủ yếu ở các huyện miền núi, vùng cao nhƣ

hình thành nên một đặc trƣng nổi bật về mặt phân bố dân tộc ở Thái Nguyên

Định Hoá, Phú Lƣơng, Đại Từ, Võ Nhai. Ngoài việc trồng lúa, ngƣời Tày còn

đƣợc đều khắp từ các huyện miền núi phía Bắc, những vùng xa xôi hẻo lánh

trồng ngô, khoai, sắn để cải thiện đời sống. Ngƣời Tày có một số ngành thủ

đến các huyện phía Nam, không có sự biệt lập về mặt địa vực theo dân tộc.

công truyền thống nhƣ đan lát, dệt vải…

Mức độ xen kẽ giữa các dân tộc ngày một đồng đều hơn. Đặc biệt từ sau cách

Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên chiếm 5,1% dân số toàn tỉnh. Ngƣời Nùng

mạng tháng Tám năm 1945 thành công, mức độ cƣ trú xen kẽ giữa các dân

có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh. Phạm vi cƣ trú của

tộc ngày càng sâu sắc. Hiện nay ở các huyện, xã đều gồm nhiều dân tộc khác


ngƣời Nùng gần nhƣ ngƣời Tày. Ở tất cả các huyện, thành, thị trong tỉnh đều có

nhau cƣ trú, sự hội tụ đó làm cho nền văn hoá Thái Nguyên trở nên phong phú

ngƣời Nùng, song tập trung đông nhất ở Đồng Hỷ, Võ Nhai và Đại Từ.

đa sắc tộc.

Các thành phần dân tộc khác là: Sán Dìu, Mông, Dao, Thái, Hoa…

Tất nhiên, giao lƣu văn hóa là hiện tƣợng mang tính phổ biến và quen

sống rải rác ở khắp các địa bàn trong tỉnh. Mỗi dân tộc đều có vốn văn hoá

thuộc trong các dân tộc ở nhiều quốc gia đa dân tộc. Song trên mảnh đất Thái

mang bản sắc rất phong phú và đa dạng. Dân tộc Dao ở Thái Nguyên có 4

Nguyên, sự giao lƣu diễn ra không phải lẻ tẻ và rời rạc, mà là một sự tiếp thu

nhóm chính: Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Lô Gang, Dao Quần Chẹt. Ngƣời Dao

bồi đắp lâu dài, có hệ thống, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong việc

sống chủ yếu trên núi cao, nơi có khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp,

hình thành và phát triển một truyền thống văn hóa phong phú và đặc sắc.

ngƣời Dao còn có tập quán sinh hoạt du canh, du cƣ nên càng khó khăn cho


Có thể khẳng định, Thái Nguyên là một vùng văn hóa lâu đời, giàu

việc giao lƣu. Do vậy, TLSX chính của đồng bào Dao là đất đồi, rừng. Khả

truyền thống, nhất là truyền thống đấu tranh cách mạng. Là trung tâm của

năng canh tác của họ đa dạng, phong phú với các loại rau đậu, các loại cây

vùng chiến lƣợc phía bắc sông Hồng, sông núi hiểm trở, nên trong lịch sử

lƣơng thực… song vì cuộc sống của họ không ổn định, cho nên gặp nhiều khó

Thái Nguyên thƣờng xuyên phải đối mặt với các thế lực ngoại bang và các

khăn. Tuy nhiên, thông qua việc thực hiện những chính sách phát triển kinh

tầng lớp phản nghịch trong nƣớc luôn uy hiếp trật tự an ninh. Từ xa xƣa, ông

tế, xã hội của Đảng, hiện nay trình độ dân trí và đời sống của ngƣời Dao đã

cha ta đã từng coi Thái Nguyên là phên giậu phía bắc của kinh thành Thăng

đƣợc nâng cao hơn nhiều so với trƣớc.

Long, là điểm xuất phát triển khai lực lƣợng chống giặc ngoại xâm ở miền

Mặc dù mỗi thành phần dân tộc ở Thái Nguyên đều có những đặc điểm
riêng về ngôn ngữ, trình độ sản xuất, bản sắc văn hoá, song tất cả đều có

biên giới. Chính vì vậy, nhân dân các dân tộc Thái Nguyên đã sớm xây dựng

cho mình bản lĩnh bất khuất, kiên cƣờng trƣớc họa ngoại xâm và bất công xã hội.

những nét tƣơng đồng, hoà nhập trong một thể thống nhất và chung sống trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18




Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc, nhân

Cách mạng tháng Tám thành công, từ sau năm 1945 trở đi, trong quá

dân Thái Nguyên luôn cần cù sáng tạo trong lao động xây dựng cuộc sống;

trình cùng nhau xây dựng chính quyền mới và phát triển kinh tế, văn hóa - xã

đoàn kết anh dũng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trên mảnh này đã

hội, sức mạnh của tinh thần đoàn kết, tập thể đƣợc nhân lên gấp bội khi các

ghi danh nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân lịch sử nhƣ: Dƣơng Tự Minh,


dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Chay và các dân tộc khác sát cánh bên

Lƣu Trung, Lƣu Nhân Chú, Phạm Cuống, Đỗ Cận, Nguyễn Cầu, Phạm Nhĩ,

nhau thực hiện các chính sách mới của Đảng và Chính phủ trên con đƣờng đi

Đàm Sâm… Năm 1884, thực dân Pháp đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên, nhƣng

lên CNXH mà bƣớc đầu là đi vào làm ăn tập thể trong sản xuất nông nghiệp.

chúng đã vấp phải tinh thần yêu nƣớc sôi nổi, mạnh mẽ, liên tục của nhân dân

1.2. QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN

Thái Nguyên kéo dài từ cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX; tiêu biểu nhất là

GIAI ĐOẠN TRƢỚC KHI TIẾN HÀNH HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP

cuộc khởi nghĩa Thái nguyên năm 1917, do Đội Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến

1.2.1. Tình hình kinh tế nông nghiệp trƣớc năm 1958

lãnh đạo. Quân khởi nghĩa đã giết giám binh, chiếm toà Công sứ, trại lính khố

Trƣớc năm 1945, ở Thái Nguyên hơn 90% dân số là nông dân. Phần

xanh, phá nhà lao, làm chủ tỉnh lị Thái Nguyên. Đây là lần đầu tiên trong lịch

lớn ruộng đất của Thái Nguyên nằm trong tay các điền chủ ngƣời Pháp và địa


sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa diễn ra tại một tỉnh, có tuyên bố

chủ ngƣời Việt, đa số nông dân Thái Nguyên không có ruộng cày phải lĩnh

nền độc lập, đặt ra Quốc kì, thành lập quân đội riêng. Cuộc khởi nghĩa Thái

canh, nộp tô cho địa chủ, hoặc vào làm tá điền trong các đồn điền chịu sự bóc

Nguyên đã cổ vũ nhân dân các dân tộc trong tỉnh vững bƣớc trên con đƣờng

lột nặng nề của các chủ đất. Lối canh tác của nông dân lúc bấy giờ rất thô sơ,

đấu tranh chống xâm lƣợc.

không hộ nông dân nào có máy kéo, phân bón hóa học và các công cụ cải tiến

Tiếp nối truyền thống đó, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các
dân tộc Thái Nguyên đã phát huy cao độ lòng yêu nƣớc của các thế hệ đi

khác chƣa đƣợc sử dụng trong nông nghiệp. Vì vậy, năng suất và sản lƣợng
cây trồng rất thấp.

trƣớc. Trải qua 10 năm đấu tranh cách mạng (1936-1945), dƣới sự lãnh đạo

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đã mở ra trang sử mới

của Đảng, nhân dân Thái Nguyên đã biểu lộ khí phách anh hùng của một

cho nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên. Đƣợc sống trong tự do, đƣợc


dân tộc anh hùng. Nhiều cán bộ, đảng viên không ngại khó khăn, gian khổ,

hƣởng một số quyền lợi bƣớc đầu về kinh tế và chính trị do chính quyền cách

bất chấp mọi hiểm nguy, sẵn sàng hi sinh vì cách mạng, tiêu biểu nhƣ Nông

mạng mới đem lại, do đó, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt là

Văn Cún, Nhật Sơn... Đồng bào các dân tộc trong tỉnh từ miền núi đến

nông dân tuyệt đối tin tƣởng vào Đảng và đi theo đƣờng lối cách mạng của

vùng hạ du, từ nông thôn đến thành thị mặc dù liên tục bị kẻ thù khủng bố,

đảng, xây dựng CNXH. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Đảng và Nhà

đàn áp dã man, bị o ép, khống chế trong các trại tập trung, nhƣng vẫn một

nƣớc thực hiện những chủ trƣơng chính sách của nền dân chủ mới mang lại

lòng đi theo bảo vệ cách mạng, chống lại kẻ thù, san sẻ cho Cứu quốc quân

lợi ích thiết thực cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

từng ngọn rau, bát cháo, đồ dùng sinh hoạt… Tinh thần yêu nƣớc của nhân dân đã
hun đúc vào truyền thống kiên cƣờng, bất khuất của quê hƣơng Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19



Với các điều kiện thuận lợi trên, ngay sau khi giành đƣợc chính quyền,
Thái Nguyên nhanh chóng ổn định kinh tế và phát triển sản xuất nông nghiệp,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20




thực hiện các biện pháp tích cực nhằm khắc phục khó khăn nhƣ: Tịch thu đất

Mặt khác, sức sản xuất của ngƣời nông dân vẫn bị kìm hãm, mặc dù

đai của các chủ đồn điền ngƣời Pháp, địa chủ việt gian phản động bỏ chạy

thông qua các đợt thực hiện chính sách giảm tô (9/1949), chính sách ruộng đất

tạm cấp cho nông dân sản xuất, thành lập quỹ tín dụng, cung cấp giống lúa,

1951, 1952 tính đến năm 1953, giai cấp địa chủ ở Thái Nguyên còn chiếm

giống ngô giúp nông dân phát triển sản xuất.

hữu khoảng 16.572 mẫu ruộng trên tổng số 82.834 mẫu; 3701 trên tổng số


Trong thời kì 1946 - 1954, sản xuất nông nghiệp của tỉnh gặp rất nhiều

28.800 con trâu bò toàn tỉnh. Tỷ lệ chiếm hữu tuy không lớn nhƣng tính bình

khó khăn do: Thiên tai, địch họa, trình độ canh tác và một số hộ nông dân

quân nhân khẩu thì lại rất cao. Riêng diện tích ruộng bình quân nhân khẩu giai

không có ruộng vẫn phải đi làm thuê.

cấp địa chủ chiếm từ 2,3 mẫu đến 2,7 mẫu, trong khi thành phần cố nông và

Là tỉnh miền núi và trung du, kinh tế của tỉnh chủ yếu là nông nghiệp,

bần nông chỉ có từ 0,7 sào đến 1,2 sào Bắc bộ một đầu ngƣời. Nông dân thiếu

trong khi đó ruộng đất phần lớn nằm trong tay địa chủ. Hệ thống đồn điền mà

ruộng vẫn phải lĩnh canh của địa chủ để gieo trồng và nộp tô cho chúng; vẫn

bọn thực dân Pháp và tay sai bỏ chạy, nhân dân trong tỉnh tiếp thu đƣợc thì

bị phụ thuộc và bị bóc lột sức lao động, đó chính là trở ngại lớn trong việc

sản xuất còn manh mún, độc canh, năng suất thấp. Sự lạc hậu về phát triển

phát triển sản xuất .

kinh tế, văn hoá kéo theo tình trạng lệ thuộc nặng vào thiên nhiên. Sản lƣợng


Khi hiệp định Giơ-ne-vơ đƣợc kí kết, ở Thái Nguyên địch tập trung dụ

lúa và hoa mầu thấp, không ổn định do sự thay đổi bất thƣờng về thời tiết, khí

dỗ cƣỡng ép đồng bào theo đạo thiên chúa giáo bằng cách cho những tên tay

hậu. Chỉ tính riêng trận lụt tháng 10/1950 đã làm cho Thái Nguyên mất hàng trăm

sai phản động đội lốt các chức sắc tôn giáo từ Thái Bình, Nam Định lên dùng

tấn lƣơng thực, gây cho nền nông nghiệp Thái Nguyên tổn thất nghiêm trọng.

thần quyền để tuyên truyền mê hoặc thúc ép giáo dân di cƣ theo chúng vào

Cùng với thiên tai là địch họa, thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn

miền Nam. Một số ngƣời kém hiểu biết đã tin, bỏ lại nhà cửa ruộng vƣờn theo

nào hòng ngăn chặn cuộc kháng chiến của nhân dân ta, chúng đã tàn phá rất

địch vào Nam, làm cho đồng ruộng càng thiếu ngƣời sản xuất. Thêm vào đó,

nặng nề nền nông nghiệp và nông thôn của tỉnh Thái Nguyên thông qua các

trong năm 1954 lại bị thiên tai dồn dập, sản xuất sút kém, nạn đói xẩy ra

cuộc tấn công, càn quét lên Thái Nguyên. Trong Chiến dịch tấn công Việt Bắc

nhiều vùng và kéo dài suốt 6 tháng đầu năm 1955.


Thu Đông 1947 của thực dân Pháp, trong tỉnh có 160 ngƣời bị địch giết, 267

Tất cả những khó khăn trên đã kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp,

ngƣời bị địch bắt, 8359 ngôi nhà bị địch đốt, phá; 1813 con trâu, bò và rất

nông thôn Thái Nguyên. Mặc dù nông dân các dân tộc rất hăng hái tham gia

nhiều gà, vịt bị địch giết hại; hơn 140 tấn thóc bị địch thiêu huỷ, nhiều làng

lao động sản xuất, khai hoang phục hóa nhƣng vẫn không đem lại đƣợc kết

mạc bị triệt hạ, một số các công trình thủy lợi bị phá hủy dẫn đến nhiều héc ta

quả nhƣ mong muốn. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, "Giặc đói" vẫn

ruộng đất bị bỏ hoang [4, 226]. Tháng 12/1950, địch huy động máy bay đánh

là mối đe dọa thƣờng xuyên trong nhiều gia đình.

phá đập Vạn Già (Phú Bình), một công trình thuỷ nông quan trọng của tỉnh

Thông qua một loạt các chính sách của Đảng và Chính phủ nhƣ: Chính

Thái Nguyên. Tiếp đó, tháng 6/1952, chúng lại huy động máy bay ném bom,

sách giảm tô, giảm tức năm 9/1949, cuộc vận động thu thuế nông nghiệp theo

đánh phá đập Thác Huống.


chính sách thuế nông nghiệp do Nhà nƣớc ban hành tháng 5/1951 và cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22




phát động quần chúng nhân dân đấu tranh buộc giai cấp địa chủ phải triệt để

những năm tiếp theo mức độ đầu tƣ có tăng song không đáng kể; các công

giảm tô, thực hiện giảm tức và thoái tô thắng lợi năm 1952 - 1953, đã thực sự

trình thuỷ lợi mới phục hồi đƣợc cống Vạn Già trên sông máng (Phú Bình),

đem lại quyền lợi cho nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân. Uy thế chính

khôi phục đập thác Huống, đào thêm ao, chuôm chứa nƣớc, làm cọn nƣớc,

trị và quyền lợi kinh tế của giai cấp bóc lột đã bị thu hẹp. Tuy nhiên, sản xuất

đào giếng chống hạn... Giống cây trồng vẫn là giống truyền thống, chƣa có


nông nghiệp chỉ thực sự phát triển từ sau khi ngƣời nông dân đƣợc giải phóng

phân hoá học… Song với quan hệ sản xuất mới phù hợp cùng với các yêu tố

khỏi sự phụ thuộc về kinh tế dƣới chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ

chính trị, xã hội mới đã tạo ra sự hăng hái, phấn khởi lao động sản xuất trong

phong kiến. Nhiệm vụ cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên kết thúc thắng lợi

nông dân. Từng bƣớc khắc phục đƣợc nhiều khó khăn nhƣ: hạn hán, mƣa lũ,

vào ngày 21-5-1955, tuy có những sai lầm lớn, nhƣng cải cách ruộng đất đã

sâu bệnh, ra sức làm thuỷ lợi, khai hoang phục hoá, không những trồng lúa,

làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn. Giai cấp phong kiến,

trồng mầu mà còn chú trọng trồng cây công nghiệp.

địa chủ bị đánh đổ; tổng cộng cả 3 đợt giảm tô cải và cách ruộng đất, chính

Kết quả, mặc dù bị hạn hán và sâu bệnh phá hoại nặng, nhƣng tổng sản

quyền tỉnh đã tịch thu, trƣng thu, trƣng mua 29.729 mẫu ruộng (tƣơng đƣơng

lƣợng lƣơng thực năm 1955 toàn tỉnh vẫn đạt 96,854 tấn trong đó lúa đạt

với 10.702,4ha), 3.864 con trâu bò, 514 tấn thóc cùng hàng nghìn nông cụ,


54.753 tấn, hai năm 1956, 1957 nhân dân các dân tộc trong tỉnh hăng hái thi

phƣơng tiện sinh hoạt, nhà cửa chia cho 22.000 nông hộ, dân nghèo [4, 321].

đua khai hoang phục hoá, thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích gieo trồng

Sức sản xuất trong nông nghiệp đƣợc giải phóng khỏi quan hệ sản xuất phong

đƣa diện tích cấy lúa cả năm 1957 lên 50.072 ha, tăng gần 4000 ha so với năm

kiến, Nông dân lao động đã trở thành động lực xã hội chính trong nông thôn.

1955. Các biện pháp kỹ thuật cày sâu, bừa kỹ, cấy dầy, tăng cƣờng phân bón,

Nếu nhƣ dƣới thời Pháp thuộc, phần lớn số nông hộ không có ruộng phải đi

đắp bờ giữ nƣớc, làm cỏ sục bùn tiếp tục đƣợc duy trì và phát triển, vì vậy

làm thuê thì bây giờ họ đã trở thành ngƣời nông dân tự do có ruộng đất và

năng suất các loại cây lƣơng thực tiếp tục đƣợc nâng cao. Riêng lúa năng suất

công cụ sản xuất trong tay, họ tự quyết định lấy cuộc sống của mình trên

năm 1957 tăng 2,4 tạ/ha so với năm 1955. Tổng sản lƣợng lúa đạt 71.160 tấn,

mảnh đất mà cách mạng đã đƣa lại cho họ. Ƣớc mơ ngàn đời “Ngƣời cày có

do đó đã tạo ra sự tăng trƣởng về giá trị sản lƣợng nông nghiệp, bình quân


ruộng” của họ đƣợc thực hiện, họ càng hăng hái sản xuất.

tăng 10%/năm. Thu hoạch bình quân tính theo đầu ngƣời về lƣơng thực, kể cả

Chính việc xóa bỏ quan hệ chiếm hữu ruộng đất và bóc lột phong kiến

hoa màu quy ra thóc là 315kg năm 1955; 444kg năm 1956 và 342kg năm

trong nông nghiệp, gắn ruộng đất và các TLSX khác với ngƣời nông dân lao

1957. Cùng với hơn 20.000 tấn hoa mầu các loại Thái Nguyên không chỉ bảo

động trực tiếp sản xuất là tiền đề cơ bản đầu tiên để thúc đẩy sản xuất nông

đảm lƣơng thực cho nhu cầu của nhân dân mà còn đóng góp cho Nhà nƣớc

nghiệp phát triển đem lại hiệu quả thiết thực.

mỗi năm từ 10.000 đến 13.000 tấn [4, 316].

Trong thời kì khôi phục kinh tế (1955-1957), vốn đầu tƣ của Nhà nƣớc

Do đƣợc quan tâm chăm sóc tốt, nhất là về chuồng trại và thức ăn nên

cho nông nghiệp và HTX rất ít. Năm 1955, tỉnh Thái Nguyên đầu tƣ cho

trong hơn 2 năm đàn trâu toàn tỉnh tăng 10.400 con, đàn bò tăng 4.200 con,

nông, lâm nghiệp là 0,26% tổng chi ngân sách cho các ngành kinh tế [56],


đàn lợn tăng 23.000 con, không chỉ đáp ứng đủ sức kéo cho phát triển sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24




xuất, thực phẩm cho sinh hoạt của nhân dân địa phƣơng mà còn là hàng hóa

xuất, có tinh thần cách mạng, nhiệt tình yêu nƣớc. Ở một số huyện trong tỉnh,

cung cấp cho một số tỉnh miền xuôi.

nông dân 2/3 là tá điền, qua nhiều cuộc vận động cách mạng lớn của Đảng

1.2.2. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp trƣớc khi tiến hành hợp

nhƣ: giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất…, do đó trình độ nhận thức về
chính trị đã đƣợc nâng lên. Hàng chục vạn nông dân lao động đã hiểu rõ rằng,

tác hóa nông nghiệp

Nhằm tiếp tục giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, tháng 5-1955

Đảng và chế độ mới đã đƣa lại ruộng đất cho họ. Mặt khác, trong quá trình

Chính phủ đã ban hành 8 chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông

sản xuất lâu đời, nông dân đã thấy và gặp nhiều khó khăn khi sản xuất riêng lẻ

nghiệp, trong đó có nội dung thứ 5 là: Đẩy mạnh phong trào đổi công giúp đỡ

nên đòi hỏi nông dân phải tổ chức, tập hợp nhau lại để cùng sản xuất. Do vậy,

nhau phát triển rộng rãi hình thức đổi công từng vụ, xây dựng dần tổ đổi

tổ đổi công ở Thái Nguyên đã đƣợc xây dựng từ rất sớm (1953), trong thời kì

công thƣờng xuyên.

kháng chiến đã nảy nở nhiều phong trào đổi công ở một số nơi nhƣ: tổ đổi

Ngƣời nông dân suốt một thời gian dài bị áp bức, bóc lột dƣới chế độ

công Cầu Thành (xã Thành Công - Đại từ), tổ ông Khuynh già làng ở Đồng Hỷ,

phong kiến và thực dân. Sau khi đã có ruộng cấy, trâu cày, làm chủ nông

tổ ông Trọng (Bình Thành - Định Hóa)…Tuy mới là hình thức đổi công từng

thôn, tin tuởng những chính sách khuyến khích sản xuất của Đảng và Chính


vụ, từng việc nhƣng lúc đó hoạt động rất sôi nổi, đã đƣợc cả nƣớc biết đến.

phủ. Đông đảo quần chúng nông dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã sôi nổi

Năm 1956, từ khi có chủ trƣơng của Đảng tổ đổi đổi công phát triển

hƣởng ứng phong trào đổi công giúp đỡ nhau sản xuất. Thông qua phong trào,

nhanh và mạnh, cả tỉnh đã xây dựng đƣợc 4.825 tổ dƣới các hình thức. Trong

các hộ nông dân đƣợc hƣớng dẫn áp dụng những kĩ thuật liên hoàn trong sản

đó, có 628 tổ đổi công thƣờng xuyên và bình công chấm điểm [17].

xuất nông nghiệp nhƣ: đủ nƣớc, nhiều phân, cày sâu, giống tốt, cấy đúng thời

Tuy nhiên, từ một số sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhất là trong thời

vụ, cấy dày, phòng trừ sâu bệnh, cải tiến nông cụ…Từ chỗ trƣớc kia không

kì sửa sai cuối năm 1956 đầu năm 1957, đã dẫn đến những xáo trộn trong đời

bón phân (chủ yếu là các xã ở vùng núi phía Bắc tỉnh), hoặc bón ít phân, nay

sống nông thôn, tình hình ở nhiều làng quê trở nên rối ren, phức tạp mất ổn

đồng bào đã thực hiện khẩu hiệu: Thanh toán cấy chay. Trong việc lựa chọn

định làm cho tổ đổi công vỡ từng mảng, nhƣ ở xã Hùng Sơn có 51 tổ (36 tổ


giống tốt hoặc việc phòng trừ sâu bệnh, dịch để bảo vệ mùa màng và gia sức,

thƣờng xuyên, 11 tổ bình công chấm điểm), đầu năm 1957 chỉ có 3 tổ hoạt

nông dân cũng đã bƣớc sử dụng những phƣơng pháp tiến bộ theo sự hƣớng

động, huyện Võ Nhai có 450 tổ, chỉ có 33 tổ hoạt động, 432 tổ tự động

dẫn của cơ quan chuyên môn.

chuyển sang làm mai nhƣ cũ [4, 25].

Việc hình thành các hình thức đổi công, hợp tác tự nguyện đa dạng

Trƣớc tình hình trên, tháng 5 năm 1957, Tỉnh uỷ đã tổ chức hội nghị

trong nông thôn, thực chất là sự kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết,

đổi công, tổng kết phong trào và bàn kế hoạch củng cố tổ đổi công trong tỉnh

hợp tác tƣơng trợ phù hợp với tính chất và trình độ sức sản xuất trong nông

nhằm từng bƣớc thực hiện đƣờng lối phát triển nông thôn, đƣa nông dân vào

thôn Thái Nguyên sau cải cách ruộng đất. Nông dân các dân tộc Thái Nguyên

làm ăn tập thể trong các HTX nông nghiệp, tỉnh thành lập các đoàn công tác

vốn đã có truyền thống đoàn kết tƣơng trợ và sáng tạo trong lao động sản


xuống giúp các địa phƣơng củng cố và phát triển phong trào đẩy mạnh sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

26




xuất, khôi phục kinh tế. Cùng với công tác sửa sai trong cải cách ruộng đất

điểm để rút ra kinh nghiệm thực tiễn, tuy nhiên đó cũng là một trong những điều

hoàn thành và thắng lợi, tình hình nông thôn dần dần ổn định, công tác phục

kiện thuận lợi để Thái Nguyên vận dụng triển khai tốt hơn trong quá trình thực

hồi và phát triển phong trào tổ đổi công đƣợc chú trọng, tính đến cuối nă m

hiện chủ trƣơng hợp tác hóa nông nghiệp trong thời gian tiếp theo.

1957 toàn tỉnh có 3.010 tổ gồm 44.091 hộ, đạt tỷ lệ 43,4% trong tổng số các

Tiểu kết chương 1


nông hộ [4, 27].

Là tỉnh miền núi và trung du, nhƣng địa hình tỉnh Thái Nguyên không

Song song với việc đẩy mạnh phong trào xây dựng tổ đổi công trong
nông dân cá thể để giúp đỡ, hỗ trợ nhau phát triển sản xuất nông nghiệp, Đảng

phức tạp lắm đó chính là điều kiện thuận lợi cho tỉnh trong quá trình phát triển
sản xuất nông – lâm nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng thực hiện cải tạo XHCN mà khâu chủ yếu là nông

Tỉnh Thái Nguyên có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống, mỗi

nghiệp. Thực hiện đƣờng lối phát triển nông thôn của Đảng là đƣa nông dân

dân tộc có những đặc điểm riêng về ngôn ngữ, trình độ sản xuất, bản sắc văn

vào làm ăn tập thể trong các HTX nông nghiệp. Năm 1955, Thái Nguyên đã

hoá, song tất cả các dân tộc đều có những nét tƣơng đồng, hoà nhập trong một

chỉ đạo xây dựng thí điểm 3 HTX sản xuất nông nghiệp ở xã Hùng Sơn,

thể thống nhất và chung sống trên cùng một lãnh thổ. Các dân tộc sống xen

huyện Đại Từ (HTX Cầu Thành, Sơn Tập, Xóm Gò). Đây là 3 HTX đầu tiên

kẽ, không biệt lập, đoàn kết yêu thƣơng giúp đỡ nhau trong sinh hoạt và sản


của huyện và cũng là của tỉnh Thái Nguyên. Năm 1956, tỉnh chỉ đạo xây dựng

xuất, tính cộng đồng ngày càng đƣợc phát huy trong quá trình thực hiện những

thêm 2 HTX ở xã Tiên Hội, đồng thời tiếp tục củng cố và phát triển tổ đổi

chủ trƣơng chính sách dân chủ mới của Đảng cách mạng về quan hệ sản xuất.

công lao động sản xuất.

Sau khi đƣợc giải phóng khỏi phƣơng thức sản xuất phong kiến,

Các HTX thí điểm chủ yếu đƣợc hình thành từ các tổ đổi công có quy

nguyện vọng phát triển kinh tế của ngƣời nông dân trong tỉnh đã đƣợc Đảng

mô xóm hoặc thôn bình quân khoảng 20-30 xã viên. Ban quản trị thời kì này

và Nhà nƣớc bảo đảm bằng các chính sách, đƣợc pháp luật bảo hộ, kết hợp

rất gọn nhẹ, có từ 2-3 ngƣời và một kiểm soát viên, hình thức hợp tác chủ yếu

với truyền thống đoàn kết tƣơng trợ, hợp tác ở trình độ thấp (tổ đổi công) đã

là hợp tác lao động, làm chung và phân phối theo công điểm; các TLSX vẫn

làm cho sức sản xuất ở nông thôn Thái Nguyên trong thời kì trƣớc khi tiến

thuộc của riêng từng hộ xã viên, quyền sở hữu ruộng đất đƣợc bảo đảm, đất


hành hợp tác hóa nông nghiệp có bƣớc tiến bộ rõ rệt. Mặc dù tình hình kinh

đai HTX sử dụng để sản xuất chung và hàng năm trả hoa lợi cho xã viên: đất

tế, xã hội vừa phải trải qua chiến tranh, nên còn nghèo nàn, kĩ thuật lạc hậu,

khai hoang, tăng vụ đƣợc giảm và miễn thuế, tự do, thuê nhân công… Cơ sở

trình độ dân trí còn thấp chƣa có gì đáng kể, nhƣng với hệ thống chính sách

vật chất kĩ thuật hầu nhƣ chƣa có gì đáng kể, vẫn là lao động cơ bắp với cái

đúng đắn “Ý Đảng hợp lòng dân” đã tạo ra bƣớc phát triển quan trọng, có ý

cày, cái cuốc và con trâu.

nghĩa trên hai mặt; sức sản xuất đƣợc giải phóng, kinh tế phát triển và không

Nhƣ vậy, trƣớc năm 1958 ở Thái Nguyên trong quan hệ sản xuất đã tồn

khí chính trị, xã hội nông thôn Thái Nguyên có bƣớc biến đổi quan trọng. Đây

tại hai hình thức vừa có các hộ sản xuất cá thể vừa có hình thức sở hữu tập

chính là điều kiện thuận lợi cho tỉnh Thái Nguyên trong quá trình thực hiện

thể. Mặc dù hình thức tập thể mới dừng lại ở bƣớc đầu đang trong quá trình thí

hợp tác hóa trong nông nghiệp.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

27



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

28




triển buộc phải liên kết lại trong tổ chức kinh tế của minh - đó là HTX tự

CHƢƠNG 2

HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN
THỜI KÌ THỰC HIỆN CƠ CHẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG

(1958 - 1980)
2.1. LÍ LUẬN CHUNG VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ PHONG TRÀO HỢP TÁC HÓA TRONG NÔNG NGHIỆP

2.1.1. Lí luận chung
Lịch sử phát triển của các hình thức HTX cổ điển ra đời từ trên 200
năm nay, thực tế cho thấy đó là hình thức tổ chức kinh tế của những ngƣời lao
động do nhu cầu tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng
quyết liệt và chủ nghĩa tƣ bản đang trên đà phát triển.

HTX đầu tiên mà loài ngƣời đƣợc chứng kiến đã xuất hiện tại nƣớc
Anh vào năm 1761, đó là HTX của 28 ngƣời thợ dệt, rủ nhau lập ra một cái
hội “Làm vải cho tốt và bán giá trung bình”, với các nguyên tắc rất bình dị và
đầy tính nhân đạo: “Cốt làm cho những ngƣời nghèo trở thành anh em, anh
em thì làm giúp nhau, nhờ lẫn nhau, bỏ hết thói cạnh tranh, làm sao cho cây
trồng thì đƣợc ăn quả, ai muốn ăn quả thì tham gia vào trồng cây”.
Tiếp đó vào năm 1849, tại Đức đã hình thành HTX cung ứng nguyên
liệu và tiêu thụ sản phẩm của 13 ngƣời thợ mộc. Cùng thời gian này, ở Pháp,
Thụy Điển, Ý…, đã ra đời nhiều HTX thuộc các lĩnh vực nhƣ: Chế biến nông
sản thực phẩm, kinh doanh tín dụng…
Nhƣ vậy, có thể thấy kinh tế HTX ra đời một cách khách quan trong
điều kiện phát triển liên tục của kinh tế tƣ bản chủ nghĩa, đặc biệt khi kinh tế
thị trƣờng tự do, cạnh tranh ngày càng gay gắt “Cá lớn nuốt cá bé” làm cho
hàng triệu ngƣời sản xuất nhỏ, những tiểu nông đứng trƣớc nguy cơ bần cùng
hóa, trở thành lao động làm thuê cho các nhà tƣ bản. Để chống lại xu thế này,
những ngƣời lao động, những nhà sản xuất nhỏ muốn tồn tại, tiếp tục phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

29



nguyện do họ đặt ra.
Từ những lí do khách quan này, Các Mác, Ph.Ăng ghen và Lênin đã
nghiên cứu tƣờng tận các HTX ở nƣớc Anh, Bắc Mỹ, và ở Nga..., đi đến kết
luận rằng: “Các HTX đƣợc xây dựng dƣới chủ nghĩa tƣ bản là để đấu tranh
với giai cấp tƣ sản, phát huy sáng kiến của quần chúng, nhờ sáng kiến của
quần chúng mà các HTX đƣợc xây dựng thành những tổ chức kinh tế rộng
lớn, nó chứa đựng tiềm năng của CNXH” [21], “Là những di sản văn hóa cần

đƣợc coi trọng” [44].
Nhận thức đƣợc tính chất “XHCN” của các HTX ngay trong lòng tƣ
bản chủ nghĩa, các ông cho rằng hợp tác là con đƣờng đơn giản nhất, dễ dàng
nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân nói riêng và đối với những ngƣời sản
xuất nhỏ nói chung.
Trong lí luận Mác - Lênin, con đƣờng hợp tác là con đƣờng bắt nguồn
từ chủ nghĩa nhân đạo, tiến tới CNXH khoa học. Chính vì vậy, kinh tế hợp tác
là dòng kinh tế mang tính nhân đạo nhân dân, nó đối lập với mặt phi nhân
đạo, phi văn hóa của thị trƣờng tƣ bản. Sự phát triển của kinh tế hợp tác và
HTX không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà vì sợ hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành
viên tham gia hợp tác, những ngƣời đƣợc cử ra điều hành và quản lí HTX
không phải vì có nhiều vốn góp, mà là sự tín nhiệm của các thành viên, mọi
ngƣời tham gia HTX đều có quyền hạn ngang nhau không phụ thuộc vào vốn
góp nhiều hay góp ít. Nhƣ vậy, nguyên tắc của chế độ kinh tế hợp tác chính là
chế độ dân chủ, tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và chia sẻ rủi ro.
Những nguyên tắc và hình thức tổ chức HTX theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê nin là:
- Tự nguyện
- Có sự giúp đỡ của Nhà nƣớc chuyên chính vô sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

30




- Hợp tác phải tiến hành từng bƣớc

nƣớc nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, nông nghiệp một phần lớn.


- Hợp tác phải thiết thực, cụ thể, hết sức tránh cao xa, mơ hồ

Muốn cho nông nghiệp và nông dân giàu lên cần phải xây dựng HTX.

- Hợp tác hóa là thực hiện liên minh công nông do giai cấp công nhân
lãnh đạo.

Từ ý nghĩa đó, Ngƣời kêu gọi nông dân “Muốn làm hòn núi cao, phải
vào tổ đổi công và HTX” [35, 133], vì nhiều ngƣời họp lại thì làm đƣợc

Về hình thức tổ chức HTX:

nhiều, đƣợc tốt, “nông dân ta mới có thêm sức để cải tiến kĩ thuật, đẩy mạnh

Lê nin cho rằng rất đa dạng và phải phù hợp với những điều kiện cụ

sản xuất. Do đó mà đƣa nông thôn… đến chỗ ấm no, sung sƣớng” [35, tr.48].

thể, những hình thức HTX phải đƣợc nảy sinh từ thực tiễn và tìm nó trong

Ngay từ ngày mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam trong Chính

chính thực tiễn.

cƣơng vắn tắt, Sách lƣợc vắn tắt (tháng 2-1930)), cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên

Với góc độ nghiên cứu của mình, chúng tôi cho rằng những nguyên lí
cơ bản của lí luận Mác - Lênin về kinh tế hợp tác và HTX là đúng đắn có giá
trị lịch sử lâu dài.


của Đảng nêu rõ “Việt Nam làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản” [24, 2-3]
Trong bản Luận cƣơng chính trị (tháng 10-1930) của Đảng cũng nêu

2.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Hợp tác hóa

rõ: Cách mạng Việt Nam (do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo) là một quá
trình liên tục từ cách mạng tƣ sản dân quyền tiến lên làm cách mạng XHCN.

trong nông nghiệp
Ở Việt Nam, ngƣời đầu tiên đƣa ra tƣ tƣởng HTX là Chủ tịch Hồ Chí

Trong Đại hội lần thứ II (1951), Đảng ta lại khẳng định rằng: Cách mạng dân

Minh - ngƣời thầy vĩ đại, nhà tƣ tƣởng lớn của cách mạng Việt Nam. Ngay từ

tộc dân chủ nhân dân (tức cách mạng dân chủ tƣ sản ở nƣớc ta) phải tiến lên

năm 1927, trong tác phẩm vạch đƣờng cho cách mạng Việt Nam, cuốn

cách mạng XHCN.

“Đƣờng kách mệnh”, Ngƣời đã dành hẳn một phần để phân tích về lịch sử,

Đƣờng lối chiến lƣợc đó là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin

mục đích, lí luận và cách thức tổ chức HTX. Ngƣời chỉ ra là tục ngữ Việt

về cách mạng không ngừng, phù hợp với điều kiện nƣớc ta và ngày nay trở


Nam có câu “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” hay “Một cây làm

thành quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Quy luật đó là “Trong thời

chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”, lí luận HTX đều nằm

đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và CNXH không tách rời nhau và ở nƣớc ta,

trong điều ấy.

khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo thì thắng lợi của cách mạng dân

Vận dụng tƣ tƣởng của Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề nông

tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng XHCN, sự bắt đầu
của thời kì quá độ đi lên CNXH”.[25, 39].

nghiệp, nông dân, nông thôn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và cách

Từ quan điểm đó, trong chỉ đạo thực tiễn Đảng ta luôn dành sự quan

mạng XHCN ở nƣớc ta. Ngƣời khẳng định, công cuộc xây dựng CNXH ở

tâm đặc biệt đến quá trình cải tạo quan hệ sản xuất, trƣớc hết đó là quá trình

nƣớc ta phải bắt đầu từ nông dân. Việt Nam là một nƣớc sống về nông

hợp tác hóa để đƣa nông dân đi vào con đƣờng làm ăn tập thể.


nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

31



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

32




Ngay sau giải phóng miền Bắc năm 1954, trong khi phong trào xây

quyền sở hữu của xã viên về những TLSX chủ yếu nhƣ ruộng đất, trâu bò,

dựng và phát triển tổ đổi công đang đƣợc tiến hành có kết quả theo Chỉ thị

nông cụ. HTX sử dụng và xã viên đƣợc hƣởng một phần hoa lợi từ tài sản đóng

Trung ƣơng tháng 5-1955 thì tháng 8-1955, Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp

góp ngoài công lao động đƣợc hƣởng theo nguyên tắc phân phối theo lao động.

hành Trung ƣơng (khóa II), đã đề ra chủ trƣơng xây dựng thí điểm một số
HTX nông nghiệp để có cơ sở thực tiễn cho định hƣớng công cuộc cải tạo

XHCN đối với nông nghiệp nƣớc ta. Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,
Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình đƣợc chọn làm thí điểm trƣớc.
Tháng 10-1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ƣơng (khóa
II) đã đề ra chủ trƣơng đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp.

Cuối năm 1960, miền Bắc đã đƣa đại bộ phận nông dân vào HTX nông
nghiệp gồm cả hai loại: HTX bậc thấp và HTX bậc cao.
Khi mô hình HTX kiểu cũ không còn phù hợp với quá trình phát triển
kinh tế trong điều kiện mới, thực tế đã đòi hỏi phải có sự đổi mới cả mô hình
và cơ chế quản lí HTX kiểu cũ. Trong suốt quá trình tìm tòi thử nghiệm, đặc
biệt từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1986) đã diễn ra quá trình

Từ Nghị quyết 16 của Trung ƣơng Đảng (khóa II), tháng 4 năm 1959,

đổi mới từng phần, đến đổi mới toàn bộ, căn bản mô hình HTX cùng với cơ

đề ra chủ trƣơng, đƣờng lối, bƣớc đi, cơ chế quản lí và mô hình HTX nông

chế quản lí theo mô hình cũ. Trong từng bƣớc thay đổi, Đảng ta luôn chú ý,

nghiệp trong thời gian này là: Xác định mâu thuẫn trong nông thôn lúc bấy

tổng kết, đánh giá và kịp thời đề ra chủ trƣơng, biện pháp thích hợp, tạo bƣớc

giờ là, mâu thuẫn giữa hai con đƣờng XHCN và tƣ bản chủ nghĩa, cá thể và

ngoặt quyết định cho sự phát triển nông nghiệp và sự hình thành mô hình

lối làm ăn tập thể; mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng năng suất và kĩ thuật canh


HTX kiểu mới.

tác lạc hậu; Về chế độ sở hữu, Nghị quyết nhận định: Còn chế độ sở hữu tƣ
nhân về TLSX và lối làm ăn riêng lẻ thì còn cơ sở vật chất và điều kiện cho

Chỉ thị 100 của Bộ Chính trị ngày 13-1-1981 đã đặt nền móng cho quá
trình đổi mới mô hình HTX “Tập thể hóa trƣớc đây”.

khuynh hƣớng tƣ bản chủ nghĩa phát triển. Bởi vậy, cần tiến hành hợp tác hóa

Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5-4-1988, về đổi mới quản lí kinh

nông nghiệp để kịp thời ngăn chặn con đƣờng tƣ bản ở nông thôn, góp phần

tế nông nghiệp và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ƣơng

củng cố công nông liên minh; Về đƣờng lối giai cấp, Đảng chủ trƣơng cải tạo

khóa VIII năm 1993, kinh tế hộ nông dân đƣợc xác định là đơn vị kinh tế tự

XHCN ở miền Bắc nhằm hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam giành thắng

chủ đƣợc nhận ruộng đất ổn định lâu dài với năm quyền (chuyển nhƣợng,

lợi. Từ ba căn cứ trên, để tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, thời kì này Đảng

chuyển đổi, thừa kế, thế chấp, cho thuê). Điều này thực sự đã tạo nên bƣớc

ta chủ trƣơng: Dựa hẳn vào bần nông, cố nông, trung nông lớp dƣới, hạn chế


đột phá cho quá trình phát triển nền nông nghiệp nƣớc ta. Đồng thời nó đã

xóa bỏ bóc lột của phú nông, ngăn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy.

đánh dấu một giai đoạn chuyển biến quan trọng của mô hình hợp tác xã kiểu

Liên tiếp trong ba tháng 7,8,9 năm 1959, Trung ƣơng Đảng đã triệu tập
nhiều hội nghị nhằm thúc đẩy phong trào hợp tác hóa.

cũ. Giai đoạn 1986 - 1996 là bƣớc chuẩn bị quan trọng cho sự ra đời Luật hợp
tác xã đƣợc Quốc hội khóa IX, kì họp thứ 9 thông qua ngày 20-3-1996 và có

Ngày 17-12-1959, Điều lệ mẫu HTX nông nghiệp bậc thấp đã đƣợc ban

hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1997.

hành theo Thông tƣ số 449/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ, trong đó thừa nhận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

33



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

34





2.2. THỜI KÌ ĐẦU XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

Thời kì này, Đảng chủ trƣơng xây dựng các HTX ở qui mô nhỏ gọn,
hình thức quản lí và phân phối sản phẩm còn ở mức thấp; tổ chức HTX bậc

Ở THÁI NGUYÊN (1958 - 1960)
Sau 3 năm khôi phục kinh tế (1955 - 1957), kết quả của công cuộc khôi

thấp là dựa trên nguyên tắc tập thể hóa TLSX (ruộng đất, trâu bò, công cụ),

phục và phát triển nông nghiệp ở miền Bắc chứng tỏ những chính sách phát

mỗi hộ nông dân đƣợc giữ lại 5% quỹ đất làm kinh tế phụ gia đình, còn lại

triển nông nghiệp của Đảng ta lúc bấy giờ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

giao cho HTX quản lí, sau thu hoạch nông dân đƣợc trả hoa lợi từ phần ruộng

hội của nông thôn miền Bắc nói chung và của Thái Nguyên lúc đó, đáp ứng

đất của mình và đƣợc trả tiền thuê trâu bò.

đúng nguyện vọng của nông dân nên bƣớc đầu đã khơi dậy đƣợc tiềm năng

Thực hiện các nghị quyết trên của Đảng, các cấp, các ngành của tỉnh

đất đai và lao động trong nông thôn để phát triển sản xuất. Đó là cơ sở kinh tế

Thái Nguyên đã nỗ lực, cố gắng vận động và tổ chức xây dựng HTX trên


quan trọng để củng cố khối liên minh công nông và tạo điều kiện để khôi

phạm vi toàn tỉnh. Với lợi thế là tỉnh trực tiếp thí điểm xây dựng các HTX đầu

phục và phát triển toàn bộ nền kinh tế xã hội cũng nhƣ đƣa lại sự ổn định và

tiên; đông đảo các tầng lớp nhân dân đã hiểu đƣợc phần nào bản chất và cách

cải thiện đời sống của nhân dân lao động.

thức làm ăn mới, các hộ nông dân nhận thấy sức mạnh của tập thể trong lao

Tuy nhiên, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến trong nông nghiệp,

động sản xuất. Đặc biệt, Thái Nguyên đã vinh dự đƣợc đón Hồ Chủ tịch đến

chia ruộng đất và các TLSX cho nông dân lao động và việc khuyến khích

thăm và làm việc. Ngày 2/3/1958, nói chuyện với đông đảo nhân dân 4 hợp

kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển đã dẫn đến sự phân hóa mới về giai

tác xã của hai xã Hùng Sơn và Tiên Hội (Đại Từ) cùng một số cán bộ huyện,

cấp trong nông thôn. Sau cải cách ruộng đất, một số ít phú nông và trung nông

tỉnh và cán bộ Khu tự trị Việt Bắc, Hồ Chủ tịch căn dặn, động viên nhân dân

lớp trên có khuynh hƣớng làm giàu bằng cách cho vay nợ lãi, thuê mƣớn nhân


phải hăng hái tham gia xây dựng tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã nông

công, phát triển kinh tế theo kiểu phú nông. Còn một số bần nông và trung

nghiệp, tích cực tăng gia sản xuất xây dựng quê hƣơng, xây dựng cuộc sống

nông lớp dƣới do gặp thiên tai hoặc gia đình ốm đau bị sa sút về kinh tế, phải

mới ấm no hạnh phúc. Do đó, việc xây dựng và phát triển HTX đƣợc hoàn

bán bớt ruộng đất, trâu bò và lâm vào cảnh túng thiếu…Đứng trƣớc tình hình

thành một cách nhanh chóng.

đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng (tháng 11/1958) đã quyết định tiến

Phong trào HTX đƣợc xây dựng khá nhanh. Từ 4 HTX thí điểm, bằng

hành cải tạo nền nông nghiệp cá thể bằng con đƣờng hợp tác hóa để ngăn

những kinh nghiệm vận động, quản lí, tổ chức sản xuất đƣợc đúc rút và phổ

chặn con đƣờng phát triển tƣ bản chủ nghĩa, cứu nông dân khỏi cảnh đói

biến kịp thời. Đến hết năm 1958 toàn tỉnh đã xây dựng đƣợc 28 HTX (Trong

nghèo. Hội nghị kết luận: “HTX nông nghiệp là yêu cầu khách quan của nông

đó huyện Đại Từ 7, Đồng Hỷ 8, Phổ Yên 6, Phú Bình 2, Phú Lƣơng 2, Võ


thôn, là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn mới”. Trên cơ sở đó,

Nhai 1, Định Hoá 2), với tổng số 492 hộ gia đình tham gia [17]

Trung ƣơng quyết định điều chỉnh chỉ tiêu đến hết năm 1960 căn bản hoàn thành
xây dựng HTX nông nghiệp bậc thấp, đƣa một số HTX lên bậc cao ở miền Bắc.

Bƣớc sang năm 1959, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh tháng 2/1959
đã đƣa ra Nghị quyết về cải tạo nông nghiệp: Phải tăng cƣờng lãnh đạo, tập
trung lực lƣợng, đẩy mạnh giáo dục cho cán bộ, đảng viên từ tỉnh đến huyện,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

35



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

36




xã nhất là cán bộ, đảng viên ở xã, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân

động, tạo điều kiện để nhân dân tƣơng trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và sinh

có một chuyển biến mạnh mẽ về tƣ tƣởng và nhận rõ ý nghĩa chính trị và kinh tế


hoạt cộng đồng. Đến hết năm 1959, toàn tỉnh vẫn duy trì đƣợc 1886 tổ (trong đó

đối với nhiệm vụ này để quyết tâm đƣa 50,7% hộ nông dân lao động vào HTX

có 941 tổ đổi công thƣờng xuyên) hoạt động đạt hiệu quả tốt [4, 338].

cấp thấp và trong đó mỗi huyện tổ chức từ 1 đến 2 HTX nông nghiệp bậc cao,
đồng thời tăng cƣờng củng cố và phát triển HTX tín dụng, HTX mua bán…

Thời kì 1958 - 1960, nhờ có tổ đổi công và phong trào HTX phát triển
mạnh mà sản xuất nông nghiệp có bƣớc tiến bộ vƣợt bậc là: phong trào khai

Thực hiện Nghị quyết trên, đến cuối năm 1959, toàn tỉnh đã xây dựng

hoang phục hoá tiếp tục đƣợc phát động để mở rộng diện tích gieo trồng, cùng

đƣợc 577 HTX nông nghiệp với 20.145 hộ nông dân tham gia, bằng 48,46%

với thâm canh tăng vụ đến năm 1960, tổng diện tích gieo cấy lƣơng thực toàn

tổng số hộ nông dân toàn tỉnh [17]. Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục thực hiện chủ

tỉnh đạt 59.531 ha, tăng 2800 ha so với năm 1957, trong đó diện tích trồng lúa

trƣơng của Đảng vừa xây dựng vừa củng cố phát triển sản xuất trong các

tăng 1828 ha. Các biện pháp kĩ thuật gieo cấy, chăm sóc tiếp tục đƣợc khuyến

HTX, nhằm tạo ra sự tiến bộ vƣợt bậc so với làm ăn cá thể, làm động lực thúc


khích thực hiện. Nhờ đó, riêng năng suất lúa năm 1960 đạt 1.630 kg/ha/1năm,

đẩy, động viên nhân dân tiếp tục tham gia HTX, đến cuối năm 1960, kết thúc

tăng 209 kg so với năm 1957. Tổng sản lƣợng lƣơng thực năm 1960 đạt

kế hoạch 3 năm cải tạo XHCN và phát triển kinh tế văn hoá, cuộc vận động

84.633 tấn, tăng 13.473 tấn so với năm 1957. Sản xuất phát triển không chỉ

đƣa nông dân vào con đƣờng làm ăn tập thể trong các HTX đạt kết quả to lớn:

đảm bảo nhu cầu lƣơng thực cho nhân dân mà phần đóng góp nghĩa vụ cũng

Toàn tỉnh đã xây dựng đƣợc 948 HTX (trong đó có 64 HTX bậc cao) với

đƣợc bảo đảm. Trong ba năm 1958 - 1960, nhân dân các dân tộc Thái Nguyên

38.754 hộ xã viên, bằng 86,9% tổng số hộ nông dân toàn tỉnh. Hai huyện Phú

đã đóng góp cho Nhà nƣớc 45.445 tấn lƣơng thực [4, 41].

Bình và Định Hoá đạt tỷ lệ cao nhất hơn 93% số hộ nông dân trong huyện đã
gia nhập HTX.[56].

Đạt đƣợc kết quả nhanh mạnh về phong trào và sản lƣợng, nhƣng đằng
sau những con số phấn khởi đó, trong đời sống thực tiễn của nông thôn Thái

Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp phát triển nhanh, đó là một bƣớc

nhảy vọt có ý nghĩa lớn đối với nông dân các dân tộc Thái Nguyên, nhất là

Nguyên lúc bấy giờ, HTX nông nghiệp đã mang trong mình những yếu tố
không phù hợp nhƣ:

nông dân ở miền núi. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân đƣợc nâng lên,

Về đƣờng lối chính sách, hợp tác hoá với nguyên tắc cùng có lợi bị vi

mức thu nhập và tiêu dùng của nhân dân và cán bộ khá hơn trƣớc. Trong sản

phạm, không làm đủ đất 5% cho kinh tế phụ, công hữu hoá tràn lan và triệt

xuất nông nghiệp, từ chỗ bao gồm nhiều thành phần kinh tế đã trở thành nền

để, định giá thấp, gây phản ứng trong nông dân; nhiều nơi nông dân chặt phá

kinh tế thuần nhất: XHCN và nửa XHCN.

vƣờn cây, giết mổ, bán chạy trâu bò làm thiệt hại sản xuất.

Do đặc điểm địa hình, Thái Nguyên là vừa trung du vừa miền núi, ở

Về quan hệ sản xuất, thay đổi nhanh nhƣng sức sản xuất phát triển còn

những xã miền núi, những bản làng vùng sâu, vùng xa do địa hình dân cƣ

chậm, năng suất lao động trong nông nghiệp chƣa đƣợc nâng cao, phân phối

thƣa thớt, diện tích ruộng đất canh tác nhỏ lẻ, phân tán không phù hợp với


lực lƣợng lao động chƣa hợp lí (số ngày công lao động trong năm ít, hiệu suất

điều kiện xây dựng HTX tỉnh vẫn chủ trƣơng vận động xây dựng tổ đổi công lao

lao động thấp, lãng phí còn nhiều). Thu nhập và đời sống của xã viên nói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

37



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

38




chung chƣa hơn các năm trƣớc, thậm chí có bộ phận, có HTX còn có phần

chia theo ngày công vào cuối vụ sản xuất. Hộ nông dân bị triệt tiêu, không

giảm sút. Tích lũy tái sản xuất mở rộng và các khoản phúc lợi tập thể của

đƣợc coi là đơn vị kinh tế tự chủ, tất cả xã viên vào HTX lao động sản xuất

HTX còn ít. Quỹ tích lũy vụ mùa 1959 và chiêm năm 1959-1960 mới để đƣợc


đƣợc tính theo công điểm, kinh tế hộ thời kì này chỉ là phần thu nhập phụ từ

từ 3% đến 3,5%, quỹ công ích từ 0,4% đến 0,67%, tính ra 1 ha mới tích lũy

5% quỹ đất để sản xuất kinh tế gia đình.

đƣợc 10đ đến 19đ [18].

2.3.1. Hợp tác hóa nông nghiệp giai đoạn 1961-1965

HTX mở rộng nhanh về số lƣợng về quy mô và yêu cầu cao nhƣng về

Giai đoạn này, đế quốc Mĩ chƣa mở rộng leo thang chiến tranh ra miền

trình độ và năng lực lãnh đạo về kinh tế của cán bộ HTX không đƣợc nâng

Bắc, đó chính là thuận lợi để Thái Nguyên xây dựng HTX và phát triển sản

lên kịp với yêu cầu của phong trào. Công tác quản lí đã gặp nhiều lúng túng,

xuất nông nghiệp. Đây cũng đƣợc coi là giai đoạn phát triển nhanh, mạnh

tình trạng lãng phí, tham ô diễn ra phổ biến, một số nơi ở mức độ nghiêm

những không vững chắc của phong trào hợp tác hóa trong nông nghiệp ở Thái

trọng, đã có nhiều hộ xã viên xin ra HTX.

Nguyên, các HTX đƣợc xây dựng nhanh ồ ạt với quy mô và mức độ lớn, đây


Tính đến năm 1960, dân số Thái Nguyên là 290.255 ngƣời thì số ngƣời

chính là yếu tố ảnh hƣởng rất lớn đến toàn bộ quá trình hoạt động của HTX.

không biết chữ trong độ tuổi lao động là 52.056 (chiếm 18%) [56]. Đây là

Với những kinh nghiệm đã đƣợc đúc rút qua việc củng cố lại những

một trong những nguyên nhân khách quan tác động đến quá trình xây dựng và

HTX bị vỡ ở thời gian trƣớc, sang năm 1961, toàn tỉnh xây dựng đƣợc 813

phát triển phong trào HTX, mà trực tiếp là trình độ giác ngộ về XHCN của xã

HTX, thu hút 78,3% số hộ nông dân đi vào con đƣờng làm ăn tập thể. Trên đà

viên. Ở thời điểm này, trình độ giác ngộ của xã viên còn thấp. Ý thức làm

thắng lợi đó, tỉnh tiếp tục triển khai vận động xây dựng HTX, đến năm 1964

chủ, tinh thần tập thể của xã viên còn thấp, đòi hỏi cùng với lợi ích về kinh tế,

trong tỉnh đã thu đƣợc kết quả to lớn là: cả tỉnh đã có tới 880 HTX (trong đó

công tác chính trị và tƣ tƣởng trong HTX cần phải đƣợc nâng lên một bƣớc

257 HTX bậc cao, 367 HTX khá, loại HTX trung bình là 504) [72].

trong quá trình xây dựng và phát triển.


Diện tích canh tác tăng đều qua các năm, từ năm 1960 đến 1965, diện

2.3. THỜI KÌ TỔ CHỨC HTX BẬC CAO THỰC HIỆN CƠ CHẾ

tích trồng cây lƣơng thực của tỉnh đã tăng thêm 13.300 ha, riêng diện tích
gieo, cấy lúa tăng từ 51.898 ha năm 1960 lên 59.739 ha năm 1965. Nhờ đó,

KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG 1961 - 1980
Đây là một thời kì dài với nhiều biến cố lịch sử của đất nƣớc cũng nhƣ
các sự kiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Giai đoạn này, Đảng chủ trƣơng

tổng sản lƣợng lƣơng thực của tỉnh cũng tăng tăng từ 92.691 tấn năm 1960
lên 119.902 tấn năm 1965. [5, 352-353].

củng cố, hoàn thiện, đƣa HTX nông nghiệp bậc thấp lên HTX bậc cao, mở

Cách thức làm ăn mới đã phát huy đƣợc kết quả là, nhiều HTX điển

rộng qui mô HTX theo mô hình tập thể hóa. HTX đƣợc tổ chức theo nguyên

hình toàn diện hoặc tốt từng mặt đã xuất hiện nhƣ các HTX Thành Công của

tắc tập trung, Ban Quản trị quản lí TLSX (ruộng đất, trâu bò, công cụ), quản lí

huyện Đại Từ, HTX Tân Tiến của Định Hoá, Hồng Kì của Phú Bình. Nhiều

số lƣợng lao động và điều hành công việc đến đội, tổ và hộ. Phân phối theo

HTX đã đƣa năng suất lúa tăng lên hàng năm, vƣợt khỏi mức trung bình của


nguyến tắc trừ lùi (trừ thuế, quỹ, chi phí sản xuất, quản lí phí), còn lại đƣợc

tỉnh (mức trung bình của tỉnh là từ 160 đến 170.000 tấn). Điển hình là huyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

39



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

40




Đại Từ luôn đi đầu trong công tác xây dựng HTX cùng với việc tăng diện

năm một lớn, dẫn đến bình quân lƣơng thực tính theo đầu ngƣời trong các

tích, tăng vụ và tăng năng suất, lúa, từ 16.000 tấn năm 1960 đã tăng lên hơn

HTX giảm, thu nhập của các hộ xã viên thấp hơn thu nhập của các hộ làm ăn

23.000 tấn năm 1965.

riêng lẻ, xã viên không thiết tha với HTX muốn trở lại con đƣờng làm ăn cá

Những thắng lợi trên, tác động tích cực đến đời sống của nông dân các


thể. Số xã viên làm đơn xin ra, hoặc tự bỏ HTX ra làm ăn cá thể ngày càng

dân tộc trong tỉnh; tình trạng thiếu đói ở nông thôn trong các kì giáp hạt tuy

nhiều, làm cho HTX tan vỡ từng mảng. Nhìn sâu vào thực chất, phong trào

vẫn còn nhƣng số lƣợng không lớn và ở mức độ không còn trầm trọng nhƣ

hợp tác hóa nông nghiệp ở Thái Nguyên vẫn tiếp tục bộc lộ những khuyết tật

trƣớc đây. Bộ mặt nông thôn đã thay đổi “Làng xóm ta xƣa kia lam lũ quanh

chủ yếu là: Vi phạm nguyên tắc tự nguyện; công tác quản lí còn nhiều mặt

năm mà vẫn quanh năm đói rách. Làng xóm ta ngày nay bốn mùa nhộn nhịp

yếu kém; chƣa chú trọng bồi dƣỡng trình độ giác ngộ XHCN của xã viên…,

cảnh làm ăn tập thể. Đâu đâu cũng có trƣờng học, nhà gửi trẻ, nhà hộ sinh,

đã dẫn đến tình trạng số HTX kém nát còn nhiều; số xã viên xin ra khỏi HTX

câu lạc bộ, sân và kho của HTX, nhà mới của xã viên. Đời sống vật chất ngày

ngày càng đông. Theo báo cáo của Ủy ban hành chính tỉnh Thái Nguyên, năm

càng ấm no, đời sống tinh thần ngày càng tiến bộ” [27, 158].

1960 chỉ tính đến tháng 4, đã có 135 hộ xin ra khỏi HTX [29]. Bƣớc sang năm


Đời sống kinh tế ổn định, góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tạo điều

1961, xuất hiện tình trạng về hình thức còn HTX nhƣng thực chất xã viên đã

kiện cho đội ngũ thanh niên nhất là thanh niên nông thôn có điều kiện tham

cấy và thu hoạch vụ chiêm riêng, thậm chí có HTX đã bị tan vỡ nhƣ HTX Tân

gia học văn hoá và khoa học kỹ thuật. Nhờ đó, nhiều hủ tục tồn tại lâu đời

Quy (Đại Từ). Trong phần lớn các hộ xin ra khỏi HTX, đáng chú ý là những

trong nhân dân đã đƣợc đẩy lùi, nạn tảo hôn và các hình thức cƣới xin, ma

nơi bị vỡ xã viên ra hàng mảng thƣờng là vùng dân tộc Sán Chí, Nùng…và

chay lạc hậu đã giảm bớt.

vùng tập trung đồng bào thiên chúa giáo. Tỉ lệ hộ nông dân trong các HTX

Song, từ việc nôn nóng muốn cải tạo xã hội, đƣa nông dân đi vào làm

giảm dần: năm 1960 là 87,3%; năm 1962 là 77,7%; sang năm 1963 còn

ăn tập thể bằng cách thực hiện xây dựng ồ ạt một cách nhanh chóng các HTX

70,4% [17]. Về cơ bản, HTX luôn ở trong tình trạng xây dựng, củng cố, hợp

với quy mô và mức độ lớn dẫn đến hàng loạt các sai lầm tiếp theo trong quá


rồi lại tan rã, đây cũng là tình trạng chung của cả miền Bắc lúc bấy giờ.

trình thực hiện. Những sai lầm này đã bộc lộ ngay từ thời kì đầu xây dựng

Trƣớc tình hình phong trào hợp tác hoá và sản xuất nông nghiệp phát

HTX (1958-1960), nhƣng thay vì phải điều chỉnh cho phù hợp thì lại tiếp tục

triển không đều, Trung ƣơng và Bộ Chính trị đã liên tục đề ra nhiều chủ

đem áp dụng vào HTX bậc cao. Do đó, tuy phong trào HTX phát triển nhanh,

trƣơng, tiến hành nhiều cuộc vận động lớn. Nhằm phát huy mặt mạnh, khắc

nhƣng không vững chắc; hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các HTX không

phục mặt yếu, tăng cƣờng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông

cao; diện tích gieo, trồng tăng nhƣng năng suất không tăng, thâm chí ở huyện

thôn. Giai đoạn 1961- 1965 có hai cuộc vận động lớn đó là:

Võ Nhai còn giảm, năng suất lúa giảm từ 19,78tạ/ha năm 1960 xuống còn

+ Cuộc vận động xây dựng HTX theo tiêu chuẩn 4 tốt: “Đoàn kết tốt:

14,69 tạ/ha năm 1965. Tổng sản lƣợng lƣơng thực tăng chậm và rất bấp bênh,

sản xuất tốt: tăng thu nhập xã viên, tích luỹ xây dựng HTX tốt: làm tốt nghĩa


trong khi dân số tăng nhanh, chỉ tiêu đóng góp lƣơng thực cho Nhà nƣớc mỗi

vụ với Nhà nƣớc”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

41



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

42




+ Cuộc vận động cải tiến quản lí, cải tiến kĩ thuật trong các HTX và
tăng đầu tƣ cho HTX.

pháp kĩ thuật đƣợc thực hiện một cách tích cực và sáng tạo. Nhiều hồ chứa
nƣớc và công trình thuỷ nông nhỏ mọc lên khắp nơi. Việc chế biến và sử dụng

Thực hiện các nghị quyết của Trung ƣơng, Thái Nguyên cũng đƣa ra
nhiều hình thức củng cố các HTX.

phân bón tổng hợp việc dùng lân và vôi để cải tạo đất, trồng lạc ở vùng đất
bạc mầu, cấy thẳng hàng, dùng cào cỏ cải tiến, dùng các nông cụ cải tiến khác


Việc đầu tiên là, tiến hành sinh hoạt chính trị, nhằm đẩy mạnh công tác

đƣợc phổ biến rộng. Những điều kiện đó đã phục vụ cho việc thâm canh, tăng

tuyên truyền giáo dục trong cán bộ đảng viên và bà con xã viên ý thức giác

vụ, tăng năng suất trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp về cơ bản đã

ngộ XHCN, nhận rõ hai con đƣờng, nhận rõ cuộc đấu tranh “Ai thắng ai” trên

đƣợc cải thiện.

con đƣợc cách mạng XHCN.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tại sao vẫn còn số hộ nông dân cá thể không

Tháng 5 năm 1962, Ban Thƣờng vụ Tỉnh uỷ Thái Nguyên giao cho Ban

muốn vào HTX hay HTX luôn trong tình trạng xây dựng rồi lại vỡ. Nhìn từ

Công tác nông thôn, Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức và các ngành có liên quan

thực tiễn của phong trào cho thấy, sự hình thành và phát triển của phong trào

trực tiếp đến nông nghiệp, tổ chức chỉ đạo huyện Đồng Hỷ làm thí điểm cuộc

hợp tác hóa - tập thể hóa nông nghiệp chủ yếu xuất phát từ tiền đề chính trị,

vận động cải tiến quản lí HTX nông nghiệp ở hai xã. Mỗi huyện cũng chỉ đạo


chứ chƣa phải tiền đề kinh tế. Từ nhận định của Trung ƣơng Đảng (khóa II),

một HTX làm thí điểm để rút kinh nghiệm.

tháng 4 năm 1959 là: Còn chế độ sở hữu tƣ nhân về TLSX và lối làm ăn riêng

Từ năm 1963 đến năm 1965, cuộc vận động này đƣợc mở rộng khắp

lẻ thì còn cơ sở vật chất và điều kiện cho khuynh hƣớng tƣ bản chủ nghĩa phát

các nơi trong tỉnh Thái Nguyên. Tỉnh đã đƣa hàng trăm cán bộ về tăng cƣờng

triển. Bởi vậy, cần tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp để kịp thời ngăn chặn

cho xã và HTX để tiến hành cuộc vận động. Ở các HTX, các xã viên đã sôi

con đƣờng tƣ bản ở nông thôn, góp phần củng cố công nông liên minh.

nổi bàn định phƣơng hƣớng kế hoạch biện pháp làm ăn tập thể, cải tiến kĩ

Từ nhận thức trên, với quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây

thuật với ý chí chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, với quyết tâm xây dựng cuộc

dựng HTX của Đảng trên địa bàn tỉnh, thay vì vào HTX là tự nguyên, phải để

sống mới ngày càng ấm no, hạnh phúc.

cho nông dân lao động suy nghĩ trên luống cày của mình, thì lại vì nôn nóng,


Kết quả là, qua cuộc vận động cải tiến quản lí và cải tiến kĩ thuật, đã

vì thúc ép của trên nên cuộc vận động nông dân vào HTX rơi vào tình trạng

tạo nên một bƣớc chuyển biến mới trong nông thôn. Hàng trăm HTX yếu kém

bắt buộc, thiếu dân chủ một cách tinh vi nhƣ: Bố mẹ không phải là xã viên mà

đƣợc củng cố. Hàng trăm HTX bậc thấp chuyển lên HTX bậc cao. Năm 1962,

là nông dân cá thể, ngoài HTX thì gặp khá nhiều rắc rối. Có nơi không cấp

cả tỉnh có 225 HTX bậc cao thì năm 1963 có 238 HTX bậc cao, năm 1964 có

giấy chứng nhận để nông dân tự do làm một việc gì đó hợp pháp theo ý muốn.

387 bậc cao HTX. Ý thức làm chủ của xã viên đƣợc nâng lên. Các mặt tổ

Có nơi còn không cho con hộ cá thể vào đại học, không đƣợc vào đoàn thanh

chức sản xuất, đạt kế hoạch đề ra, quản lí lao động, quản lí tài vụ dần dần đi

niên, vào Đảng...

vào nền nếp. Cơ sở vật chất và kĩ thuật đƣợc xây dựng từng bƣớc. Nguyên tắc

Hạn chế và sai lầm chung của Thái Nguyên cũng nhƣ của cả miền Bắc

phân phối theo lao động đƣợc áp dụng rộng rãi và đúng đắn hơn. Các biện


thời kì này là, nóng vội đẩy nhanh tốc độ hợp tác hóa, vội vã mở rộng quy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

43



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

44




mô, nâng cao trình độ HTX nhƣng lại không tính đến điều kiện thực tiễn của

các thung lũng nhỏ hẹp; quan hệ sản xuất, trao đổi còn thô sơ, đơn giản. Tập

địa phƣơng mình nhƣ: Tuy đội ngũ lãnh đạo các cấp nói chung, của cán bộ,

quán sinh hoạt và canh tác dƣới hình thức du canh du cƣ còn tồn tại phổ biến

đảng viên trong các HTX nói riêng nhiệt tình hăng hái, hết lòng vì sự nghiệp

trong vùng đồng bào Dao, H’mông. Trình độ văn hóa cũng nhƣ trình độ giác

cách mạng, vì phong trào HTX, nhƣng do trình độ văn hóa thấp nên khả năng

ngộ cách thức làm ăn mới còn thấp, do đó, nhận thức lí luận và tƣ tƣởng chỉ


tiếp thu khoa học kĩ thuật và kiến thức quản l‎í rất hạn chế. Đến năm 1965, chỉ

đạo ngày càng xa rời thực tiễn nông dân - nông thôn - nông nghiệp.

tính riêng đảng viên trong toàn tỉnh vẫn có tới 90 ngƣời mù chữ, 33 ngƣời

Để xây dựng và phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, Đảng

mới biết đọc, biết viết; số đảng viên trình độ văn hóa cấp I là 9736 ngƣời; cấp

và Nhà nƣớc cùng với địa phƣơng rất quan tâm, đầu tƣ rất nhiều công sức,

II là 3.492 ngƣời và cấp III là 478 ngƣời, trong đó chỉ có 33 ngƣời ở trình độ

tiền của để tập trung hƣớng dẫn, chỉ đạo xây dựng, củng cố, phát triển HTX.

đại học [58].

Sự lặp đi lặp lại nhiều lần chu kì: xây dựng - phát triển - yếu kém, củng cố

Phần lớn các HTX đều lúng túng trong việc xác định phƣơng hƣớng

phát triển rồi lại yếu kém các HTX đã báo hiệu sự bất ổn trong mô hình tập

sản xuất, quản lí kinh tế mà trọng tâm là quản lí các mặt sản xuất, tài vụ và

thể hóa. Nhƣng ở thời kì này chƣa có sự lí giải thấu đáo bản chất vấn đề, do

phân phối sản phẩm, để xảy ra nhiều tiêu cực và lãng phí khác.


vậy các chủ trƣơng, biện pháp tích cực của Đảng và Nhà nƣớc cùng với Đảng

Mặt khác, mặt bằng dân trí thấp, tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ,

bộ Thái Nguyên vẫn không đem lại kết quả nhƣ mong muốn, vẫn chƣa xây

xã viên không cao; trong các HTX xã viên không đƣợc hƣởng quyền lợi trực

dựng đƣợc niềm tin vững chắc đối với nông dân, nhìn chung sản xuất vẫn còn

tiếp do sức lao động của mình làm ra, mà đƣợc phân phối qua hệ thống công

bấp bênh, tổ chức HTX vẫn chƣa thực sự vững chắc.

điểm, trong khi đó việc quản l‎í công điểm lại hết sức lỏng lẻo, hiện tƣợng
“Dong công, phóng điểm” xẩy ra tràn lan, dẫn tới tình trạng làm ẩu, làm rối,

2.3.2. HTX nông nghiệp Thái Nguyên trong thời kì cả nƣớc trực
tiếp kháng chiến cứu nƣớc 1966 - 1975

làm cốt sao cho đƣợc nhiều công điểm mà không cần quan tâm tới hiệu quả

Bƣớc vào thời kì 1966 - 1975, do tình hình nhiệm vụ mới đặt ra với cả

kinh tế; việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật vào đồng ruộng ở nhiều HTX có

nƣớc lúc này là chiến tranh với quy mô ngày càng tăng và mở rộng ra cả miền

tính chất nửa vời; khẩu hiệu: “Cày sâu, bừa kĩ”, “Làm cỏ sục bùn”, không


Bắc. Hội nghị Trung ƣơng 11,12,15 (Khóa III) đã có quyết định chuyển

đƣợc xã viên thực hiện; hiện tƣợng “Cầy rạch, bừa chùi”, “Làm cỏ sục bùn”

hƣớng về tƣ tƣởng, tổ chức chỉ đạo kinh tế, quốc phòng trong điều kiện cả

chỉ nhƣ lau gốc lúa xảy ra phổ biến…, nên năng suất lúa và sản lƣợng lƣơng

nƣớc có chiến tranh. Mục tiêu tất cả để chiến thắng, tất cả để giải phóng miền

thực thấp giá trị ngày công không cao dẫn đến tình trạng một số cán bộ, đảng

Nam đƣợc đặt lên hàng đầu.

viên bi quan, dao động tìm cách làm thêm bên ngoài, xã viên bỏ HTX làm ăn

Trong điều kiện khó khăn khi chiến tranh phá hoại của Mĩ mở rộng ra

riêng lẻ. Thái Nguyên là vùng vừa trung du vừa miền núi, nông nghiệp miền

miền Bắc, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển Đảng ta chủ trƣơng mở cuộc vận

núi còn mang nặng yếu tố tự nhiên của một nền sản xuất tự sản, tự tiêu. Sản

động cải tiến quản lí HTX bậc cao và cuộc vận động dân chủ trong quản lí

xuất nông nghiệp ở đây chủ yếu là làm nƣơng rẫy, kết hợp với làm lúa nƣớc ở

HTX. Chế độ ba khoán đƣợc thực hiện, HTX vẫn là đơn vị phân phối thống


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

45



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

46




nhất mang nặng tính bình quân. Cùng với việc tăng cƣờng đầu tƣ cho nông

trình độ quản lí HTX, số HTX bậc cao tăng lên, quy mô HTX đƣợc mở rộng,

nghiệp, các tiến bộ kĩ thuật trong sản xuất đƣợc áp dụng rộng rãi hơn: giống

thu hút thêm nhiều hộ nông dân tham gia, số hộ nông dân xin ra giảm hẳn, tính

mới ngắn ngày, cải tạo đồng ruộng, hoàn chỉnh thủy nông, mục tiêu 5 tấn

đến tháng 9 năm 1965 cả tỉnh chỉ có 92 hộ xin ra, trong đó có 34 hộ cho ra hạn.

thóc/ha trở thành phong trào thi đua ở nhiều HTX.

Việc đƣa tiến bộ khoa học kĩ thuật nhƣ: Cấy kịp thời vụ, cấy nhanh,


Đây là giai đoạn khó khăn đối với Đảng bộ Thái Nguyên vừa chỉ đạo

cấy thẳng hàng, làm cỏ sục bùn nhiều lần, phòng trừ sâu bệnh, nƣớc

chiến đấu, phục vụ cho chiến đấu, bảo đảm giao thông vận tải thời chiến,

tƣới đủ, bón phân xanh, phân vô cơ..., vào sản xuất nông nghiệp bƣớc đầu

động viên tuyển quân chi viện chiến trƣờng, trực tiếp chống chiến tranh phá

đã thu đƣợc kết quả tốt, có tác dụng nâng cao năng suất lúa. Các HTX Phú

hoại của đế quốc Mỹ; vừa giữ vững và phát triển kinh tế - xã hội.

Hƣơng (xã Tân Hƣơng), Rẫy Vã (xã Đồng Tiến) thuộc huyện Phổ Yên, Hồng

Từ cuối năm 1965, Ban Thƣờng vụ Tỉnh uỷ tập trung lãnh đạo công tác

Kì thuộc huyện Phú Bình, Thành Công thuộc huyện Đại Từ, Xuân La, Đồng

củng cố HTX nông nghiệp. Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh đã đƣa 120 cán

Tiến, Sông Cầu thuộc huyện Đồng Hỷ có năng suất lúa đạt bình quân từ 45 tạ

bộ các cơ quan tỉnh và các huyện xuống trực tiếp chỉ đạo xây dựng và củng cố

đến 50 tạ/ha.

HTX ở những nơi có phong trào HTX yếu kém. Toàn tỉnh xây dựng mới đƣợc


Nhiều HTX đã chú ý đến phát triển ngành nghề phụ, trồng các loại cây

105 HTX với 1.897 hộ gia đình xã viên, kết nạp thêm đƣợc 11.470 hộ nông

công nghiệp, cây ăn quả và quản lí hoa màu. Chỉ tính riêng bốn huyện Đại

dân vào HTX, hợp nhất 441 HTX nhỏ thành 171 HTX lớn, đƣa bình quân quy

Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên đã có 177 HTX có lò vôi, lò gạch; 50 HTX

mô HTX tăng từ 70 hộ lên 106 hộ. Đến cuối tháng 12/1965, các huyện, thành

có chuồng trại chăn nuôi lợn tập thể (trong đó 15 HTX có chuồng trại chăn nuôi

phố ở Thái Nguyên có 878 HTX, với 46.672 hộ gia đình xã viên (có 315 HTX

lợn nái sinh sản); hầu hết các HTX có nhà trẻ, sân phơi, nhà kho, quạt hòm..

bậc cao, với 26.122 hộ gia đình xã viên bằng 55,97% số hộ gia đình xã viên
trong các HTX). Trong số 878 HTX, có 332 HTX khá (đạt 37,81%).

Sản xuất phát triển, đời sống của xã viên các HTX từng bƣớc đƣợc cải
thiện, HTX Thành Công (Đại Từ) có 100% gia đình xã viên đã mua sắm đƣợc

Công tác 3 quản, 3 khoán (quản lí lao động, quản lí TLSX, quản lí ngày

đầy đủ chăn, màn, quần áo ấm; 80% số hộ làm đƣợc nhà gỗ mới, 51 hộ mua

công; Khoán công (lao động), khoán sản lƣợng, khoán chi phí), trong các


sắm đƣợc xe đạp (năm 1960 chỉ có 6 hộ có xe đạp). Ngoài ra, HTX Thành

HTX nông nghiệp đƣợc áp dụng, bình quân mỗi lao động trong HTX ở các

Công còn xây dựng đƣợc nhà giữ trẻ, nhà văn hoá…[5, 42-43].

huyện Phú Bình, Phổ Yên và thành phố Thái Nguyên đạt từ 200 đến 280 công
một năm, ở các huyện còn lại đạt từ 150 công đến 200 công.

Bên cạnh những bƣớc tiến bộ và kết quả đạt đƣợc thông qua cuộc vận
động cải tiến quản lí HTX vòng 1 ở các HTX thuộc 4 huyện Đại Từ, Đồng

Thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng, tháng 6 tháng 1965 Thái

Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình và thành phố Thái Nguyên thì những mặt hạn chế vẫn

Nguyên tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lí HTX vòng

bộc lộ rõ nhƣ: “Việc phát triển ngành nghề cũng chƣa đƣợc đẩy mạnh và

1 ở 282 HTX thuộc 4 huyện Phú Bình, Phổ Yên, Đại Từ, Đồng Hỷ và thành

không cân đối, nhiều HTX còn độc canh cây lúa, chƣa chú ý trồng và thâm

phố Thái Nguyên. Qua cuộc vận động này, có 51 cán bộ đã đƣợc nâng cao

canh tăng nâng suất các loại cây trồng khác. Việc xây dựng cơ sở vật chất và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


47



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

48




kĩ thuật của HTX còn ít. Việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông

canh, định cƣ làm tốt công tác khai thác, bảo vệ rừng và trở thành HTX tiên

nghiệp chƣa đƣợc nhiều. Số HTX khá, nhất là số HTX tiến tiến còn rất ít. Số

tiến của tỉnh.

đông xã viên chƣa tin vào cách làm ăn của HTX, vì vậy một số xã viên còn

Cùng với việc cải tiến quản lí HTX, tỉnh đã tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật

tình trạng chân trong, chân ngoài, ý thức làm chủ HTX còn kém, ý thức cần

chất kĩ thuật cho HTX, thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, công tác thuỷ lợi đƣợc đẩy

kiệm xây dựng HTX chƣa cao, tình trạng tham ô, lãng phí trong các HTX còn

mạnh, coi thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu để nâng cao năng suất cây trồng.


khá phổ biến, Một số cán bộ HTX còn thiếu nhiệt tình, chƣa thật quyết tâm

Ngay trong sáu tháng cuối năm 1965, toàn tỉnh đã tập trung trên 1.600.000

xây dựng hợp tác, còn mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chƣa lắng nghe ý kiến

đồng, huy động trên 2.184.000 ngày công, đào, đắp trên 2.000.000m3 đất,

của quần chúng xã viên…” [12, 2-3]

20.000m3 đá, làm mới 676 công trình tiểu thuỷ nông, xây dựng 2 trạm bơm

Để khắc phục tình trạng trên, tỉnh tiếp tục triển khai cuộc vận động cải

điện, lắp đặt 91 máy bơm tự động, 59 máy bơm dầu, đảm bảo nƣớc tƣới cho

tiến quản lí HTX vòng II (bắt đầu từ đầu năm 1966 đến hết 1967), nhằm tập

48.500 ha lúa, giữ độ ẩm cho 1.927 ha rau, màu, cây công nghiệp; 4.970ha lúa

trung cơ sở vật chất và đẩy mạnh việc đƣa khoa học kĩ thuật vào nông nghiệp;

mùa đƣợc tƣới tiêu theo phƣơng pháp khoa học (tăng gần gấp 5 lần so với

giải quyết tốt các vấn đề quản lí và sử dụng lao động, đảm bảo lao động để

năm 1964). Các HTX trong tỉnh xây dựng đƣợc 296 đội thuỷ lợi, với 3.037

vừa phát triển sản xuất nông nghiệp với một tốc độ cao, vừa đáp ứng các yêu


ngƣời tham gia (riêng huyện Phú Bình đã huy động tới 17.000 ngày công đắp

cầu về quốc phòng.

bờ, đào, đắp trên 6 triệu m3 đất, đá; làm mới và tu sửa trên 2.000 công trình

Cuối năm 1967, tỉnh Thái Nguyên tiếp tục tiếp nhận 7.119 hộ (40.270

thuỷ lợi lớn, nhỏ; đảm bảo nƣớc tƣới thêm gần 5.000ha ruộng. Ngoài ra, trên

khẩu) từ các tỉnh Thái Bình, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Hà Đông…lên khai

1.036.000 công cũng đƣợc huy động để tát nƣớc, nạo vét mƣơng, phai dẫn

hoang, xây dựng kinh tế miền núi, trong đó có 3.941 hộ (21.753 khẩu) đƣợc

nƣớc vào đồng.

xen ghép vào các hợp tác nông nghiệp ở địa phƣơng, chiếm 53,5% tổng ngƣời

Trong hai đợt tiến hành cuộc vận động, các huyện và HTX, đều tập

lên khai hoang, 1828 hộ (10.270 khẩu) vào các HTX khai hoang độc lập trồng

trung vào những vùng trọng điểm lúa của tỉnh và huyện: nhƣ vùng núi là 13

lúa và cây công nghiệp, chủ yếu là trồng chè.

xã của huyện Định Hoá, Đại Từ; còn vùng trung du gồm toàn huyện Phú Bình


Khó khăn nhất trong việc xây dựng các HTX ở các xã miền núi của

và 2/3 huyện Phổ Yên. Cũng từ cuộc vận động này, căn cứ vào sự phân vùng

Thái Nguyên là việc vận động đồng bào vùng cao chuyển từ du canh, du cƣ

của tỉnh và huyện, xác định phƣơng hƣớng sản xuất của các HTX đƣợc đề ra

sang định canh, định cƣ. Trong 3 năm (7/1965-3/1968), với quyết tâm của

cụ thể, hợp với khả năng đất đai, điều kiện thiên nhiên của từng địa phƣơng

tỉnh, đã vận động đƣợc 2.960 hộ, với 14.315 nhân khẩu đồng bào vùng cao

nhƣ các HTX thuộc vùng núi đều đề ra đƣợc bốn ngành lớn: cây lƣơng thực,

xuống núi định canh, định cƣ (đạt tỷ lệ 87,7%) so với tổng số hộ đồng bào

lúa, ngô, sắn, khoai lang, cây công nghiệp chè, trúc, trẩu, ... nghề rừng là tu

vùng cao). HTX Bản Cháo (huyện Phú Lƣơng) của đồng bào vùng cao định

bổ, cải tạo bảo vệ rừng và khai thác nơi có điều kiện, chăn nuôi trâu, bò, lợn
tập thể kết hợp cày kéo và sinh sản nơi có điều kiện phát triển trâu bò đàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

49




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

50




×