Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Thực trạng và Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Gia Lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.3 KB, 110 trang )


Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của chuyên đề nghiên cứu
Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực lĩnh tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm triển
khai Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Yêu cầu phát triển kinh tế hợp tác, hợp
tác xã còn xuất phát từ thực tế khách quan, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quan điểm phát triển kinh tế tập
thể đã được đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành TW Đảng (khoá IX) ngày 18/3/2002 đã ghi rõ "Kinh tế tập thể phát triển
với nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt", và "Kinh tế Nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
KTQD".
Nghị quyết 02/NQ -TU ngày 7/4/1997 của Thành uỷ Hà Nội về một số chủ
trương, biện pháp củng cố phát triển hợp tác xã ở Hà Nội cũng khẳng định
"Kinh tế hợp tác xã là một phần kinh tế cơ bản, tồn tại lâu dài trong suốt quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN".
Kinh tế hợp tác xã là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hoá; sản xuất
hàng hoá càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường ngày càng gay
gắt thì những người lao động riêng lẻ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với nhau, nếu không thì khó tồn tại và
phát triển. Thông qua việc liên kết, hợp tác bằng hình thức tổ chức hợp tác xã là
một trong những biện pháp quan trọng để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất
nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hoá lớn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá mà đặc biệt công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn. Để phát triển kinh tế tập thể theo đường lối của Đảng và đáp ứng
đòi hỏi của thực tế cuộc sống, yêu cầu hết sức quan trọng là phải phát triển hợp
tác xã như thế nào mới có hiệu quả. Xuất phát từ vấn đề trên, em nhận thấy rằng
1


để phát triển hợp tác xã một cách hiệu quả thì một trong các yếu tố là nâng cao
hiệu quả của việc sử dụng vốn.
Dựa vào thực tiễn của quá trình thực tập và khả năng hiểu biết về hợp tác
xã trong thời gian thực tập, nghiên cứu tại huyện Gia Lâm và Sở Nông nhgiệp &
PTNT Hà Nội, em đã làm chuyên đề:
" Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các hợp
tác xã nông nghiệp ở huyện Gia Lâm".
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về khái niệm, đặc điểm, vai trò, vốn của hợp tác xã.
- Đánh giá thực trạng sử dụng vốn ở các hợp tác xã nông nghiệp huyện Gia
Lâm.
- Trên cơ sở đánh giá, phân tích rõ hiện trạng sử dụng vốn của các hợp
tác xã hiện tại để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn từ đó nâng cao hiệu quả hoạt đọng của các hợp tác xã huyện
Gia Lâm nói riêng và của các hợp tác xã trên toàn quốc nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề cơ bản về nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp.
Phạm vi là trên địa bàn huyện Gia Lâm.
4. Kết cấu chuyên đề
*Phần mở đầu
*Phần nội dung: Chuyên đề gồm có 4 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn trong HTX nông nghiệp
Chương II: Nguồn lực phát triển nông nghiệp của hà nội và ảnh hưởng của
nó đối với sử dụng vốn của hợp tác xã
Chương III: Thực trạng sử dụng vốn của một số hợp tác xã ở huyện Gia Lâm
Chương IV: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
2

* Phần kết luận

Chương I: Những vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn trong
HTX Nông nghiệp
I. Nguồn gốc của Hợp Tác xã
1. Hợp tác là gì?
Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên sức
mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt
động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực
hiện được cũng kém hiệu quả so với hợp tác.
Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế
của con người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung,
của lao động sản xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con người. Do vậy, sự
phát triển của hợp tác gắn liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã
hội hoá sản xuất và hoạt động kinh tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác
dụng làm tăng năng xuất lao động. Sự phát triển của các hình thức và tính chất
thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hợp tác lao động xuất hiện từ khi loài người xuất hiện và ngày càng phát
triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân công lao động xã hội và chuyên
môn hoá sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, do đó nhu
cầu về hợp tác lao động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt
chẽ và mở rộng. Nó không bị giới hạn trong phạm vi từng đơn vị, từng ngành,
địa phương, trong một nước, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế.
Hợp tác có nhiều hình thức với các đặc điểm, tính chất, trình độ khác nhau:
Hợp tác ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thường xuyên, ổn định; hợp tác lao động
như Mác đã phân tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công
nghiệp; hợp tác giữa các đơn vị, các ngành;v.v...
3

2. Từ cộng tác đến hợp tác
Từ khi sinh ra con người đã sống trong xã hội cộng đồng dưới các hình
thức như cộng đồng huyết thống - dòng tộc, cộng đồng thôn bản, cộng đồng

thành thị. Đây là hình thức xã hội cộng đồng mang tính tự phát và tập quán.
Người ta cho rằng ở đó các hoạt động sản xuất, tiêu dùng và các hoạt động khác
đều thường xuyên có sự hợp tác.
Giáo sư Bogardus của trường đại học Nam California (1882- 1973, nhà xã
hội học Mỹ) trong suốt cuộc đời mình đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới phong
trào hợp tác xã. ông đã đứng trên quan điểm xã hội học để nhìn nhận phương
diện con người và phương diện tổ chức của hợp tác xã. ông đã lưu tâm nghiên
cứu mọi hình thức cộng tác trước HTX, và phân loại cộng tác, “ một nguyên lý
cơ bản của sự sống ”, thành 5 giai đoạn phát triển từ loài vi sinh vật đến xã hội
loài người như sau:
(1) Cộng tác mang tính phản xạ.
(2) Cộng tác mang tính bản năng.
(3) Cộng tác vì mục đích sinh tồn.
(4) Cộng tác để chiến thắng trong cạnh tranh.
(5) Cộng tác vì sự tiến bộ cho toàn xã hội.
Giáo sư Bogardus đã nêu lên đặc trưng cảu các giai đoạn phát triển như dưới
đây, đồng thời nhận định rằng HTX là hình thức tổ chức có thể thực hiện được sự
cộng tác ở giai đoạn cao nhất.
Hình thức cộng tác ở giai đoạn 1 và 2 là cộng tác ở giới sinh vật. Giai đoạn 1
là cộng tác vi sinh vật. Giai đoạn 2 là cộng tác vô thức của động vật nói chung,
giai đoạn 3 là cộng tác thường thấy từ người nguyên thuỷ đến người hiện đại ở
những nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Đại đa số của biểu hiện cộng tác
trong xã hội ngày nay tập trung ở giai đoạn 4. Hình thức cộng tác ở giai đoạn này
có nhược điểm là không tránh khỏi sự ích kỷ muốn tăng lợi ích của tập thể mình
bằng sự hy sinh của cá nhân hay tập thể khác, cùng với tính kép kín, kết quả của
4

tính ích kỷ đó. Giai đoạn thứ 5 là giai đoạn hợp tác cao nhất mà con người có
thể đạt đến, và đối tượng hướng tới hình thức cộng tác này để thực hiện thành
công hơn nữa ở một mức độ nhất định chính là phong trào hợp tác xã.

II. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của các Hợp Tác xã nông nghiệp
1. Khái niệm
Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại
hình kinh tế hợp tác giản đơn. ở nhiều nước trên thế giới, hợp tác xã đã có lịch sử
hình thành và phát triển trên 100 năm. Trong Luật hợp tác xã của nhiều nước
cũng như một số tổ chức quốc tế đều có các định nghĩa về hợp tác xã.
Liên minh hợp tác xã quốc tế (International cooperative alliance - ICA) được
thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa hợp
tác xã như sau: “hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên
hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội
và văn hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ ”. Năm
1995, định nghĩa này được hoàn thiện : “hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp
mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống
của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tưởng vào ý
nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm
sóc người khác”.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “hợp tác xã là sự kết hợp của
những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên
kết nhau lại trên cở sở bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã
chuyển giao vào hợp tác xã phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết các khó
khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các
chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh
thần chung”.
Điều 1 trong Luật hợp Tác xã Việt Nam năm 1996 ghi: “Hợp tác xã là tổ
chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự
5

nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Pháp luật để phát huy
sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả
hơn các loại hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp

phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Như vậy trong luật hợp tác xã năm 1996 được định nghĩa là "tổ chức kinh
tế tự chủ", nhưng tổng kết 6 năm thi hành luật cho thấy các hợp tác xã, nhất là
hợp tác xã trong lĩnh vực Nông nghiệpvẫn còn bị các cơ quan quản lý Nhà nước
xem như các tổ chức vừa là công cụ của chính quyền cơ sở (xã, phường), vừa tổ
chức năng tính xã hội, có nghĩa vụ phục vụ chính quyền và cộng đồng theo ý
muốn chủ quan của họ. Đồng thời bản thân các xã viên hợp tác xã vẫn chưa coi
hợp tác xã là của chính mình và do chính họ lập ra, từ đó dẫn đến vẫn chưa thực
sự là chủ hợp tác xã, chưa có động lực cùng nhau xây dựng phát triển hợp tác
xã. Mặt khác, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh tế, tinh thần tự lực nâng
cao khả năng cạnh tranh của các hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường rất hạn
chế. Kết quả là sau một thời gian hoạt động theo Luật hợp tác xã bên cạnh một
bộ phận hợp tác xã đã phát triển tốt trong điều kiện mới, vẫn còn số đông hợp
tác xã chưa phát huy được khả năng, sức mạnh tập thể của các xã viên trong hợp
tác xã, do đó vẫn còn yếu kém, phụ thuộc vào sự chỉ đạo của chính quyền và bị
hành chính hoá trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, không thích ứng được với
cơ chế thị trường đang đòi hỏi ngày một khắt khe hơn đối với hợp tác xã về tính
tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ của nó.
Để khắc phục tình trạng này, Luật sửa đổi được thông qua tại kỳ họp thứ 4
Quốc hội Khoá XI vào tháng 11 năm 2003 đã quy định: "Hợp tác xã là tổ chứuc
kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung,
tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này... hợp tác xã hoạt
động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, chịu trách
nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các
nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật". Theo định nghĩa
6

này hợp tác xã được tổ chức theo nguyên tắc riêng về tính tự nguyện, dân chủ và
bình đẳng về lợi ích và trách nhiệm của mỗi đối tượng tham gia hợp tác xã,
đồng thời làm rõ bản chất hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp, có quyền tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của mình và bình đẳng với
các loại hình doanh nghiệp khác trong qua trình hoạt động. Như vậy sẽ tạo ra cơ
sở để các cơ quan quản lý nhà nước đối với hợp tác xã và chính các xã viên hợp
tác xã đổi mới nhận thức về loại hình tổ chức kinh tế này, xoá bỏ tư tưởng coi
hợp tác xã nặng nề tổ chức xã hội, là bộ phận, là cánh tay của bộ máy công
quyền (nhất là đối với các cấp chính quyền huyện, xã ở nông thôn trong quan hệ
với hợp tác xã nông nghiệp), làm cho hợp tác xã phụ thuộc vàp sự bao cấp của
Nhà nước và không được tự chủ và bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp
khác trong qua trình hoạt động của nó.
Định nghĩa mới về hợp tác xã còn xác định rõ điều kiện tồn tại và phát
triển của hợp tác xã là hợp tác xã phải biết tự khẳng định mình là tổ chức kinh tế
tự chủ, biết hoạt động nhanh nhạy, khôn ngoan như các doanh nghiệp, biết cạnh
tranh để tồn tại trong cơ chế thị trường. Hợp tác xã muốn phát triển ngày một
lớn mạnh về kinh tế, có sức hấp dẫn ngày một cao đối với xã viên của nó, thì
hợp tác xã phải ngày càng tham gia sâu rộng vào thị trường, vào các quan hệ
kinh tế với các doanh nghiệp khác, vào tìm kiếm các nguồn lực để phát triển.
2. Đặc điểm
2.1. Đặc điểm chung
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp tác xã, cũng như sự khác
nhau về đặc điểm, cơ chế tổ chức, phương thức hoạt động v.v.của các mô hình
hợp tác xã ở các nước trên thế giới, song từ các khái niệm trên đay có thể rút ra
những đặc trưng sau đây của hợp tác xã trong nông nghiệp:
Một là, hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của
những nông hộ, trang trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh
7

doanh và đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc
làm nhưng kém hiệu quả.
Hai là, cơ sở thành lập của các hợp tác xã là dựa vào việc cùng góp vốn
của các thành viên và quyền làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo

nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít
hay nhiều.
Ba là, mục đích kinh doanh của hợp tác xã trước hết là làm dịch vụ cho xã
viên, đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng
phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực
hiện mức giá và lãi xuất nội bộ thấp hơn giá thị trường.
Bốn là, hợp tác xã thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân
chủ và cùng có lợi.
Năm là, hợp tác xã là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã
viên thực sự có nhu cầu, có mong muốn không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ
liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như vậy
trong mỗi thôn, mỗi xã có thể tồn tại nhiều loại hình hợp tác xã có nội dung kinh
doanh khác nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó một số nông
hộ, trang trại đồng thời là xã viên của một số hợp tác xã.
Sáu là, nông hộ trang trại xã viên vừa là dơn vị kinh tế tự chủ trong hợp tác
xã vừa là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do
vậy, quan hệ giữa hợp tác xã và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ
vừa là quan hệ gữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Cơ chế
liên kết của hợp tác xã cần phản ánh được mối quan hệ phức tạp đó.
Bảy là, từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của hợp tác
xã là: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ, nông trại và
các cá nhân mang tính chất vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh.
8

2.2. Những đăc diểm cơ bản của hợp tác xã kiểu mới ở Việt Nam
Thứ nhất, hợp tác xã kiểu mới là tổ chức kinh tế tự chủ của những người lao
động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn , góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch
vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp

tác xã có tư cách pháp nhân, có tổ chức chặt chẽ, hạch toán độc lập, tự chịu
trách nhiệm về các hoạt động của mình và được đối xử bình đẳng như các thành
phần kinh tế khác.
Thứ hai, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã.
Khi xây dựng các hợp tác xã kiểu mới phải đảm bảo 5 nguyên tắc cơ bản
sau:
1- Tự nguyện gia nhập và ra hợp tác xã: mọi công dân Việt Nam có đủ điều
kiện theo quy định của Luật này, tán thành Điều lệ hợp tác xã đều có thể trở
thành xã viên hợp tác xã; xã viên có quyền ra hợp tác xã theo quy định của Điều
lệ hợp tác xã;
2- Quản lý dân chủ và bình đẳng: xã viên hợp tác xã có quyền tham gia quản
lý, kiểm tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết;
3- Tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: hợp tác xã tự chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; tự quyết định về phân phối thu
nhập, bảo đảm hợp tác xã và xã viên cùng có lợi;
4- Chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển của hợp tác
xã; sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi được trích một phần vào các quỹ của
hợp tác xã, một phân chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần
còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã do Đại hội
xã viên quyết định;
5- Hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải phát huy tinh thần tập thể,
nâng cao ý thức hợp tác trong hợp tác xã và trong cộng đồng xã hội; hợp tác
9

giữa các hợp tác xã với nhau ở trong nước và ngoài nước theo quy định của
pháp luật.
Thứ ba, quan hệ sở hữu và phân phối trong hợp tác xã.
Khi gia nhập hợp tác xã, mỗi xã viên bắt buộc phải góp vốn theo quy định
của Điều lệ, vốn góp có thể nhiều hơn mức tối thiểu, nhưng không được vượt
quá 30% tổng số vốn Điều lệ của hợp tác xã.

Cùng với vốn góp của xã viên, vốn hoạt động của hợp tác xã còn bao gồm
vốn được tích luỹ trong quá trình hoạt động và các nguồn vốn khác, như giá trị
tài sản được cho, biếu tặng v.v...
Phần vốn góp của xã viên thuộc sở hữu của từng thành viên. Các nguồn
vốn khác thuộc sở hữu chung của hợp tác xã, quyền sử dụng toàn bộ tài sản
thuộc về hợp tác xã. Sau khi làm song nghĩa vụ nộp thuế, lãi của hợp tác xã
được phân phối như sau: thanh toán các khoản bù lỗ; trích lập các quỹ hợp tác
xã; chia lãi theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên có tính đến mức đọ
sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.
Thứ tư, xã viên hợp tác xã.
Xã viên hợp tác xã có thể là cá nhân, hoặc hộ gia đình, mỗi xã viên có thể
đồng thời là thành viên của nhiều hợp tác xã, không phân biệt ngành, nghề, địa
giới hành chính.
Mỗi xã viên đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ bao gồm: quyền làm
việc, hưởng lãi, tiếp nhận thông tin, đào tạo bồi dưỡng, hưởng phúc lợicủa hợp
tác xã, được phép chuyển quyền lợi và nghĩa vụ của mình cho người khác và xin
ra khỏi hợp tác xã, được trả lại vốn góp và các quyền lợi khác khi ra khỏi hợp
tác xã. Mỗi xã viên có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Điều lệ
như: góp vốn vào hợp tác xãvà chia sẻ mọi rủi ro của hợp tác xã theo mức vốn
đóng góp. Thực hiện các cam kết kinh tế với hợp tác xã v.v...
Thứ năm, quan hệ giữa hợp tác xã và xã viên.
10

Quan hệ giữa hợp tác xã và xã viên được xây dựng chủ yếu trên cơ sở quan
hệ kinh tế. Nó được xác lập từ nhu cầu phát triển sản xuất, tăng thu nhập của các
thành viên hợp tác xã. Hợp tác xã tôn trọng quyền độc lập tự chủ kinh tế của xã
viên. Trong hợp tác xã nông nghiệp, xã viên là hộ, trang trại gia đình, hoặc đại
diện hộ, đó là những đơn vị kinh tế tự chủ tham gia vào hợp tác xã với trách
nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích theo Điều lệ quy định. Sự hình thành và phát triển
hợp tác xã nông nghiệp không phá vỡ tính độc lập tự chủ của kinh tế hộ, trang

trại gia đinh. Nó có tác dụng tạo điều kiện phát triển tăng thu nhập cho kinh tế
của các hộ xã viên. Trên cơ sở đó mà thúc đẩy kinh tế của các hợp tác xã.
Thứ sáu, điều kiện thành lập, hoạt động và giải thể hợp tác xã.
Khi thành lập hợp tác xã cần phải có điều lệ, phương án sản xuất - kinh
doanh cụ thể có tính khả thi, được đại hội xã viên thông qua và cơ quan có trách
nhiệm phê duyệt.
Trong trường hợp giải thể tự nguyện theo nghị quyết đại hội xã viên, hoặc bị
buộc phải giải thể theo quyết định cảu pháp luật, hợp tác xã phải thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ với cơ quan có thẩm quyền.
Đại hội xã viên hoặc đạihội đại biểu xã viên có quyền quyết định cao nhất
đối với mọi hoạt động của hợp tác xã.
Hợp tác xã có quyền thiết lập quan hệ hựop tác với các hợp tác xã khác ở
trong nước và ngoài nước, than gia tổ chức Liên minh hợp tác xã Việt Nam theo
quy định cảu pháp luật.
Thứ bảy, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế do các thành viên có nhu cầu tự
nguyện lập ra, nó không phải là một tổ chức xã hội.
Hợp tác xã hoạt động theo luật pháp quy định trước hết vì mục tiêu kinh tế.
Hợp tác xã chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ xã hội đối với các xã viên của
chính hợp tác xã, không thể biến hợp tác xã thành tổ chức xã hội, hoặc bắt buộc
hợp tác xã làm việc như một tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị của địa
phương.
11

Chính phủ thống nhất thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hợp tác
xã trong phạm vi cả nước theo các bội dung sau: xây dựng và thực hiện chỉ đạo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hợp tác xã; ban hành Điều lệ mẫu cho
các loại hình hợp tác xã; ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ tạo điều kiện hoạt
động cho hợp tác xã, liên minh các hợp tác xã, quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các bộ, ngành, các cấp chính quyền, hội đồng nhân dân đối với
hợp tác xã; thực hiện chức năng thanh tra , kiểm soát hợp tác xã theo quy định

của pháp luật.
3. Phân loại
Từ các tiêu thức phân loại khác nhau đã hình thành nhiều loại hình hợp tác
xã với những đặc điểm về nội dung hoạt động, cơ cấu tổ chức, vai trò tác dụng,
và tên gọi khác nhau tương ứng với những điều kiện cụ thể của từng loại hình
hợp tác xã.
ở nhiều nước, người ta thường phân loại hợp tác xã theo mục đích, chức
năng hoạt động, theo đặc điểm về quy mô, tính chất và hình thức pháp lý. Trong
điều kiện hiện nay ở Việt Nam, để phân loại hợp tác xã, thường căn cứ vào:
chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hoá, quy mô và đặc điểm hình
thành hợp tác xã. Theo cách phân loại đó thì ở nước ta có các laọi hình hợp tác
xã sau:
- Hợp tác xã dịch vụ: bao gồm ba loại: hợp tác xã dịch vụ từng khâu.
Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp đa chức năng và hợp tác xã dịch vụ “đơn
mục đích” hay hợp tác xã “chuyên ngành”.
+ Hợp tác xã dịch vụ từng khâu còn gọi là hợp tác xã dịch vụ chuyên khâu
có nội dung hoạt động tập chung ở từng lĩnh vực trong quá trình sản xuất hoặc
tững khâu công việc trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất. Thí dụ,
hợp tác xã tín dung, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã dịch vụ đầu vào, hợp tác xã
dịch vụ đầu ra, hợp tác xã chuyên dịch vụ về tưới tiêu, hợp tác xã chuyên phòng
trừ sâu bệnh v.v...
12

+ Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp đa chức năng có nội dung hoạt động đa
dạng, gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ
sản phẩm (đầu ra), dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu,v.v...Tuỳ thuộc
đặc điểm, điều kiện, trình độ phát triển sản xuất và tập quán ở từng vùng mà nhu
cầu của nông hộ đối với từg loai hình dịch vụ có khác nhau. Thí dụ, ở những
vùng đồng bằng trồng lúa nước, hợp tác xã có thể thực hiện những khâu dịch vụ
sau: xây dựng, điều hành kế hoạch, bố trí cơ cấu mùa vụ, lịch thời vụ sản xuất,

cung ứng vật tư, giống, tưới tiêu theo quy trình kỹ thuật thâm canh, phòng trừ
sâu bệnh, bảo về các sản phẩm ngoài đồng ruộng để tránh hao hụt. Với những
vùng có mức bình quân ruộng đất và mức độ cơ giới hoá cao, nông hộ cần thêm
khâu dịch vụ làm đất, thu hoạch, sửa chữa cơ khí, vận chuyển sản phẩm đến nơi
tiêu thụ v.v...
+ Hợp tác xã dịch vụ "đơn mục đích" hay hợp tác xã "chuyên ngành". Hợp
tác xã loại này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất -
kinh doanh một loại hàng hoá đặc trưng, hoặc cùng làm một nghề giống nhau
(hợp tác xã trồng rừng, hợp tác xã trồng mía, hợp tác xã trồng chè v.v..). Hợp
tác xã thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộnhư chọn giống, cung ứng vật
tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại
diện các hộ thành viên quan hệ với cơ sở chế biến, ngân hàng v.v..
- Hợp tác xã sản xuất kết hợp dịch vụ
Hợp tác xã loại này có đặc điểm: nội dung hoạt động sản xuất là chủ yếu,
dịch vụ là kết hợp.
Mô hình hợp tác xã loại này phù hợp trong các ngành tiểu thủ công nghiệp,
xây dựng, nghề đánh cá, nghề làm muối ( trừ ngành trồng trọt và chăn nuôi).
ở một số nơi, hợp tác xã được hình thành trong quá trình chuyển đổi hợp
tác xã kiểu cũ theo Luật hợp tác xã năm 1996, tuy mang tên hợp tác xãnông
nghiệp nhưng về bản chất chúng là hợp tác xã dịch vụ đơn thuần, hoặc hợp tác
xã dịch vụ kết hợp sản xuất mở mang ngành nghề. Cùng với kinh tế hợp tác xã,
13

kinh tế nông hộ được duy trì với tư cách là những đơn vị thành viên của hợp tác
xã.
- Hợp tác xã sản xuất - kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện
Đặc điểm cơ bản của mô hình hợp tác xã loại này là:
+ Cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch toán,
kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc của hợp tác xã kiểu mới và tương
tự một "doanh nghiệp" tập thể.

+ Sở hữu tài sản trong hợp tác xã gồm hai phần: sở hữu tập thể và sở hữu
cổ phần. Xã viên hợp tác xã tham gia lao động trong hợp tác xã được hưởng
lương theo nguyên tắc phân phối theo lao động và hưởng lãi cổ phần (ngoài
phúc lợi tập thể của hợp tác xã).
+ Hợp tác xã hoạt động sản xuất - kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhằm
phát triển kinh tế hợp tác xã và đem lại lợi ích cho xã viên.
+ Hợp tác xã loại này thích hợp với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng, khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, nuôi trồng thuỷ sản, nghề làm muối,
đánh cá.
ở các địa phương, mô hình hợp tác xã kiểu này thường gặp trên địa bàn thị
trấn, thị xã, các vùng ven sông, ven biển, những nơi phù hợp với nghề khai thác
tài nguyên và ở nhiều nơi khác khi có đủ điều kiện cần thiết.
4. Vai trò
Từ khái niệm và đặc điểm của các hợp tác xã đã nêu ở trên ta có thể thấy
rằng hợp tác xã có một số vai trò cơ bản như sau:
Thứ nhất, giúp đỡ các xã viên trong hợp tác xã phát triển sản xuất của mình
thông qua việc cung ứng các dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất, đảm bảo
sản xuất đúng thời vụ
Thứ hai, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông
thôn, cải thiện đời sống nông thôn.
14

Thứ ba, tiếp thu những tiến bộ khoa học mới vào sản xuất giúp tăng năng
suất lao động, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn
Thứ tư, hợp tác xã là một trong các thành phần của kinh tế tập thể, nó giúp
phát triển nền kinh tế của đất nước nói chung và của nông nghiệp nông thôn nói
riêng.
Trên đây là một số vai trò của hợp tác xã trong quá trình hoạt động của
mình. Đó là những vai trò rất tốt đẹp của hợp tác xã và cần thiết phải được phát

huy để từng bước góp phần xây dựng nông thôn mới.
III. Vốn và sử dụng vốn trong Hợp tác xã Nông nghiệp
1. Khái niệm, phân loại, vai trò của vốn
1.1. Khái niệm
Cũng như nhiều thuật ngữ kinh tế khác, vốn cũng có nhiều cách tiếp cận và
hiểu khác nhau. Theo quan điểm của những nhà quản trị kinh doanh:
Vốn hiểu theo nghĩa rộng là tiềm năng phục vụ sản xuất gồm: tư liệu sản
xuất, lao động, trí thức, khả năng tổ chức, điều kiện tự nhiên...
Trong sản xuất kinh doanh vốn được hiểu là giá trị của các yếu tố đầu vào.
Đó là điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất kinh doanh.
1.2. Phân loại
Có nhiều cách phân loại vốn khác nhau, tuy nhiên có thể phân loại vốn ở hai
khía cạnh:
1.2.1. Căn cứ vào nguồn hình thành
+ Vốn chủ sở hữu:
- Vốn điều lệ của hợp tác xã là tổng số vốn do các xã viên đóng góp và
được ghi vào Điều lệ hợp tác xã.. Tuỳ từng hợp tác xã mà số vốn đóng góp của
các xã viên là khác nhau. Theo Luật hợp tác xã mới thì mỗi xã viên không được
góp quá 30% vốn điều lệ hợp tác xã.
15

- Vốn tích luỹ từ sau khi chuyển đổi: là vốn được các hợp tác xã tích luỹ từ
hoạt động sản xuất kinh doanh từ sau khi chuyển đổi theo Luật hợp tác xã.
Nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh
của hợp tác xã.
+ Vốn vay: là vốn mà các hợp tác xã đi vay của các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng hoặc của các hợp tác xã khác...
+ Vốn từ hợp tác xã cũ:
- UBND xã nhận để giao (cho thuê) hợp tác xã mới
- Chuyển từ hợp tác xã cũ sang

+ Vốn từ ngân sách nhà nước cấp, giao: để khuyến khích hoạt động của các
hợp tác xã, Nhà nước ta có nguồn vốn hỗ trợ cho hoạt động của các hợp tác xã.
Đây là nguồn vốn quan trọng giúp các hợp tác xã ổn định sản xuất, mua sắm các
thiết bị cần thiết... đòi hỏi các hợp tác xã phải có kế hoạch sử dụng nguồn vốn này
sao cho hợp lý.
1.2.2. Căn cứ vào tác dụng và đặc điểm chu chuyển vốn trong quá trình sản
xuất, vốn của hợp tác xã được chia làm hai loại:
+ Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản cố định, nó tham gia
vào nhiều chu kỳ sản xuất, giá trị của nó được chuyển dần từng phần vào giá trị sản
phẩm sau mỗi chu kỳ kinh doanh và được vù đắp dưới hình thức khấu hao.
Tài sản cố định theo luật kế toán hiện hành là những tài sản có giá trị lớn hơn
5 triệu và thời gian sử dụng lớn hơn 1 năm. Như vậy, trong hợp tác xã ngoài giá trị
cảu công trình, máy móc, thiết bị...vốn cố định còn bao hàm giá trị của một số đối
tượng lao động như gia súc sinh sản, vườn cây lâu năm.
+ Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Vốn lưu động
thường cuyên vận động, thay đổi hình thái biểu hiện và tồn tại ở ba lĩnh vực dự trữ,
sản xuất và lưu thông. Đó là quá trình chuyển hoá vốn từ hình thái này sang hình
thái khác đến khi nó trở lại hình thái ban đầu gọi là sự tuần hoàn của vốn
16

Quá trình sản xuất kinh doanh của hợp tác xã được tiến hành liên tục không
ngừng, vì thế vốn lưu động cũng tuần hoàn liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu
chuyển dưới các hình thức khác nhau: tiền tệ, vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang,
thành phẩm. Giá trị vốn lưu động được chuyển một lần và bù đắp hoàn toàn sau
mỗi chu kỳ sản xuất.
1.3. Vai trò của vốn
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, nông nghiệp
nói riêng. Nó là điều kiện cần thiết và không thể thiếu được để thực hiện quá trình
sản xuất kinh doanh của mọi ngành trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Vì vậy,
vai trò của vốn là hết sức quan trọng, điều đó được biểu hiện:

Thứ nhất, có được vốn chúng ta có thể xây dựng các cơ sở hạ tầng (cầu cống,
đường xá, kênh mương…) phục vụ cho quá trình sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, nó giúp quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và duy trì mọi
hoạt động trong quá trình sản xuất.
Thứ ba, giúp nâng cao đời sống của người dân ở nông thôn nói riêng và ở trên
đất nước nói chung.
Thứ tư, giúp chúng ta thực hiện được các hoạt động xã hội như xoá đói giảm
nghèo, ưu đãi những người có công…
Thứ năm, giúp chúng ta thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái.
Nói tóm lại, vốn có vai cho vô cùng quan trọng trong tất cả các hoạt động của
con người. Do vậy, cần phải có biện pháp sử dụng vốn một cách có hiệu quả, tránh
lãng phí.
2. Nội dung quản lý sử dụng vốn
2.1. Xác định nhu cầu về vốn của hợp tác xã Nông nghiệp
Nhu cầu về vốn của hợp tác xã chủ yếu được xác định từ chi phí các kế hoạch
biện pháp của các lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã. Theo nguyên tắc kết hợp các
17

yếu tố đầu vào, nói chung hợp tác xã chỉ vay vốn cho đến diểm mà tại đó chi phí
biên của vốn bằng giá trị sản phẩm biên của vốn để đảm bảo lợi nhuận tối đa.
2.2. Huy động vốn
Dựa vào nhu cầu vốn, các hợp tác xã phải tìm mọi biện pháp để huy động vốn
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn. Các nguồn huy động vốn có thể là:
+ Vốn tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã: Sau mỗi chu
kỳ sản xuất, phần lãi thu được một phần được đưa vào quỹ mở rộng sản xuất, một
phần để đáp ứng các hoạt động khác. Phần vốn ở quỹ mở rộng sản xuất có thể sẽ
được huy động vào quá trình sản xuất ở chu kỳ sau.
+ Vốn vay: Hợp tác xã có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng, của
các hợp tác xã khác... để dùng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Tuy
nhiên các hợp tác xã cần phải đảm bảo việc vay vốn sẽ thu được phần lợi nhuận

nhất định sau khi hoàn trả lại vốn và phần lãi của vốn vay. Thực tế cho thấy việc
các hợp tác xã vay vốn còn rất hạn chế, điều này sẽ được đề cập đến ở chương sau.
+ Vốn tài trợ, trợ cấp của nhà nước và các tổ chức khác: Nhà nước và một
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của hợp tác xã, có thể sử dụng một
số chỉ tiêu sau: số tổ chức như FAO... có nguồn vốn hỗ trợ cho các hợp tác xã. Các
hợp tác xã cần biết tận dụng nguồn vốn này và sử dụng chúng một cách hiệu quả.
Trong thực tế việc huy động vốn có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu, nhưng cũng
có trường hợp không đáp ứng được hoặc đáp ứng vượt nhu cầu. Đối với trường
hợp không đáp ứng được nhu cầu hoặc đáp ứng vượt nhu cầu, hợp tác xã cần phải
tìm các biện pháp sử lý và việc sử lý đó phải tuỳ theo từng tình huống cụ thể.
2.3. Sử dụng vốn cố định:
Vốn cố định là bộ phận chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản
xuất. Do tính chất sử dụng của nó, cần chú ý phân loại vốn cố định dùng vào sản
xuất hay không dùng vào sản xuất. Biện pháp chủ yếu để sử dụng hợp lý vốn cố
định.
18

+ Đầu tư và trang bị đồng bộ, tập trung dứt điểm, ưu tiên cho khâu chủ yếu
của sản xuất.
+ Trong đầu tư xây dựng cơ bản phải điều tra, quy hoạch, thiết kế đầy đủ để
không gây lãng phí vốn cố định.
+ Rút ngắn thời gian thi công xây dựng lắp đặt, nhanh chóng đưa máy móc,
công trình vào hoạt động để thu hồi vốn sản xuất.
+ Khai thác tối đa công suất và thời gian làm việc của công trình, máy móc
thiết bị.
+ Thực hiện chế độ kiểm kê định kỳ, thực hiện khấu hao đầy đủ.
2.4. Sử dụng vốn lưu động:
Vốn lưu động trong hợp tác xã chia làm hai loại: vốn lưu động định mức và
vốn lưu động không định mức.
+ Vốn lưu động định mức là vốn hợp tác xã thường xuyên chiếm dụng ở mức

tối thiểu để tiến hành sản xuất bình thường. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất của từng
loại mà vốn lưu động định mức cho sản xuất có khác nhau: ngành trồgn trọt căn cứ
vào chi phí vốn bình quân các vụ, ngành chăn nuôi căn cứ vào quý IV của năm
trước...
+ Vốn lưu động không định mức chủ yếu là các khoản vốn trong thanh toán,
vốn tiền tệ...Đây là những khoản vốn sử dụng tạm thời. Quản lý và sửu dụng vốn
lưu động thực chất là việc định mức vốn lưu động cho sản xuất. Định mức vốn lưu
động hợp lý có ý nghĩa to lớn, nó là căn cứ để xác định nhu cầu về vốn nhằm đảm
bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá được bình thường,
giúp các hợp tác xã cải tiến các hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn.
3. Hiệu quả sử dụng vốn
Xuất phát từ vai trò của vốn như trên, để có biện pháp thích hợp nhằm nâng
cao hiệu quả của việc sử dụng vốn, chúng ta nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn như sau:
19

3.1 Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Hiệu quả kinh tế là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa kết quả sản lượng sản
phẩm thu được với lượng vốn đã bỏ ra. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
biểu hiện ở mỗi đơn vị vốn bỏ ra nhận được lượng kết quả lớn hơn hoặc với lượng
kết quả như thế nhưng cần lượng vốn ít hơn. Vì vậy, hiệu quả sản xuất nông nghiệp
gắn liền với hiệu quả sử dụng ruộng đất - trên một đơn vị diện tích sản xuất được
nhiều sản phẩm với chi phí thấp hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm. Hiệu quả sử dụng
vốn cố định là một bộ phận của hiệu quả sản xuất nông nghiệp được biểu hiện
thông qua mối quan hệ của lượng sản phẩm thu được trên một đồng vốn đã bỏ ra.
+ Hiệu suất sử dụng vốn cố định theo giá trị sản lượng (H
SL
).
CD

SL
SL
V
G
H =

Trong đó:
Gsl: giá trị sản lượng của kỳ kinh doanh.
V

: là số vốn cố định trong kỳ.
Hệ số này cho biết một đồng vốn cố định bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng
giá trị sản lượng.
+ Hiệu suất sử dụng vốn cố định theo lợi nhuận (H
p
)
CD
P
V
P
H =
Trong đó:
P: lợi nhuận của kỳ kinh doanh
Hệ số này cho biết khi bỏ ra một đồng vốn cố định sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
+ Hệ số chiếm dụng vốn cố định hay còn gọi là dung lượng vốn cố định (H

)
20


SL
CD
CD
G
V
H =
Là lượng vốn cố định cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản lượng.
Việc hạ thấp mức vốn cố định để sản xuất ra một đơn vị giá trị sản lượng là
biểu hiện sự tăng lên của hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các hợp tác xã.
Để đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản có thể sử dụng các chỉ tiêu
sau:
+ Tổng thu nhập tăng tính trên một đơn vị vốn đầu tư xây dựng cơ bản (B):
01
01
DtDt
BB
B


=

Trong đó:
B
1
: tổng thu nhập sau khi đầu tư.
B
0
: tổng thu nhập trước khi đầu tư.
Dt
1

: vốn đầu tư xây dựng cơ bản sau khi đầu tư mới.
Dt
0
: vốn đầu tư xây dựng cơ bản trước khi đầu tư mới.
+ Thời gian hoàn vốn đầu tư (Th) tình bằng năm:
h
t
KM
D
Th
+
=
Trong đó:
D
t
: giá trị vốn đầu tư tăng thêm (đ)
M: mức lãi hàng năm tăng thêm (đ)
K
h
: mức khấu hao hàng năm tăng thêm (đ)
Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh giá trị được tăng lên, do vậy trong sản
xuất phải tính giá trị vốn trong tương lai hay để có số vốn trong thời gian tới thì
hiện tại cần bao nhiêu vốn
Ngoài các chỉ tiêu trên còn một số chỉ tiêu như:
21

+ Năng suất lao động:
T
P
N

=
N: Năng suất lao động
P: Giá trị sản xuất (theo giá cố định)
T: số lượng lao động bình quân trong năm
Giữa năng suất lao động và mức vốn trang bị cho lao động (vốn cố định tính
bình quân cho một lao động nông nghiệp) và dung lượng vốn cố định có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng lên chừng nào
mức tăng năng suất lao động nhanh hơn mức vốn trang bị cho lao động và mức
tăng giá trị sản xuất tính trên đồng vốn cố định.
+ Năng suất ruộng đất: Là mối quan hệ giữa giá trị sản xuất nông nghiệp tính
cho một đơn vị diện tích ruộng đất, có thể tính theo công thức:
Năng suất ruộng đất =
P
S
Trong đó:
S: Diện tích ruộng đất
Năng suất ruộng đất có quan hệ mật thiết với mức bảo đảm vốn cho đơn vị
diện tích (vốn cố định tính b1ình quân cho một đơn vị diện tích) và dung lượng
vốn cố định. Năng suất ruộng đất tăng lên phụ thuộc vào hai yếu tố : Tăng mức
bảo đảm vốn cho đơn vị diện tích và hạ thấp vốn cố định để sản xuất ra một đơn
vị giá trị sản xuất.
3.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Trong hợp tác xã, vốn lưu động đảm bảo tính không ngừng của quá trình tái
sản xuất, nó nhằm thực hiện sự tiết kiệm lớn nhất về vốn và chi phí tối thiểu về
tài sản lưu động.
Vốn lưu động khi tham gia trong quá trình sản xuất đã thực hiện vòng tuần
hoàn không ngừng. Nó liên tục trải qua các giai đoạn khác nhau của vòng tuần
22

hoàn với những sự thay đổi về hình thức tiền tệ, hình thức sản xuất và hình thức

hàng hoá. Sau khi kết thúc vòng tuần hoàn thứ nhất, lại bắt đầu vòng tuần hoàn
thứ hai và tiếp theo. Mỗi vòng tuần hoàn là một vòng chu chuyển hoặc một
vòng quay của vốn lưu độnglà vận động không ngừng.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của hợp tác xã có thể thông qua
một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Tốc độ chu chuyển của vố lưu động được thể hiện bằng hai chỉ tiêu:
∗ Số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ kinh doanh (còn gọi là vòng
quay của vốn hay hệ số luân chuyển), tính theo công thức:
LD
V
M
L =
Trong đó:
L: số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ.
M: tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kỳ.
V

: số vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ so sánh hai đại lượng: tổng mức luân chuyển
vốn lưu động trong kỳ và số vốn lưu động bình quân trong kỳ, số vòng quay
càng lớn càng tốt.
∗ Số ngày một lần luân chuyển của vốn lưu động, tính theo công thức:
L
N
T
=
Trong đó:
T: số ngày một lần luân chuyển.
N: số ngày của kỳ kinh doanh.
Trong quá trình sử dụng vốn lưu động, nếu số vòng quay của vốn tăng lên,

độ dài thời gian của mỗi vòng quay ngắn thì vốn lưu động được giải phóng
nhanh, tức là hiệu quả sử dụng vốn lưu động được tăng lên.
23

+ Hiệu suất hoàn trả vốn lưu động, tính theo công thức:
LD
SL
V
G
H =
Trong đó:
H: hiệu suất hoàn trả vốn lưu động trong kỳ.
G
sl
: giá trị sản lượng của doanh nghiệp trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho ta biết nếu bỏ ra một đồng vốn lưu động thì sẽ thu lại được
bao nhiêu đồng giá trị sản lượng.
+ Hệ số chiếm dụng vốn lưu động được tính theo công thức:
Hệ số chiếm dụng vốn =
V

G
SL
Trong các chỉ tiêu trên thì tốc độ chu chuyển vốn lưu động là chỉ tiêu trực
tiếp. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động phải tăng tốc độ chu chuuyển
của vốn lưu động mà biện pháp chủ yếu là: dự trữ hợp lý, tránh dự trữ thừa hoặc
không có dự trữ cho sản xuất, không để ứ đọng vốn, đảm bảo sản xuất bình
thường. Tiêu thụ sản phẩm nhanh và rút ngắn chu kỳ sản xuất để tăng tốc độ
quay vòng vốn lưu động
24


Chương II: Nguồn lực phát triển nông nghiệp của huyện Gia lâm
và ảnh hưởng của nó đối với sử dụng vốn của Hợp Tác Xã
I. Về điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý:
Huyện Gia Lâm nằm ở cửa ngõ Đông Bắc Thủ đô Hà Nội, dân số trung bình
toàn huyện 349.949 người với trên 84 ngàn hộ trong đó có 273.452 nhân khẩu ở
nông thôn phân bố trên địa bàn 31 xã và 4 thị trấn. Trình độ dân trí tương đối đồng
đều.
Gia Lâm là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng: đường thuỷ
có: sông Hồng, sông Đuống; đường bộ, đường sắt có: quốc lộ 5 đi Hải Phòng,
Quốc lộ 1 nối với các tỉnh phía Bắc; đường hàng không có sân bay Gia Lâm và
nhiều tuyến đường khác.
Trên địa bàn huyện có trên 200 cơ quan, doanh nghiệp của Trung ương và Hà
Nội đặt trụ sở, chi nhánh; gần 700 công ty TNHH và Doanh nghiệp tư nhân; 30
hợp tác xã Công, Thương mại, 31 HTX dịch vụ nông nghiệp (trong đó có 2 HTX
ngành nghề là HTX Bò sữa và HTX Dâu tằm Phù Đổng) và hàng nghìn hộ sản
xuất kinh doanh công thương nghiệp.
Gia Lâm có nhiều làng nghề truyền thống như; gốm sứ Bát Tràng, dát vàng
bạc, may da Kiêu Kỵ; Chế biến dược liệu Ninh Hiệp và những làng nghề mới Kim
Lan sản xuất sứ gốm, Đình Xuyên sản xuất diêm... nhiều khu công nghiệp được
hình thành trong những năm gần đây: khu công nghiệp Sài Đồng B, khu công
nghiệp Đài Tư, khu công nghiệp cừa và nhỏ Phú Thị... thu hút nhiều doanh nghiệp
trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
2. Về đất đai:
Huyện Gia Lâm có diện tích đất tự nhiên 17.432 ha, trong đó có 9.128,8 ha
đất nông nghiệp chiếm gần 52.4% diện tích đất toàn huyện, đất lâm nghiệp là
58,5 ha. Đất ở đây có chất lượng tương đối tốt, đất ở đây chủ yếu là đất vàng,
25

×