Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Đánh giá hiệu quả của chế phẩm neoavi layer đến một số chỉ tiêu năng suất sinh sản trên gà đẻ ISA brown”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.61 KB, 64 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết
quả trình bày trong khóa luận tốt nghiệp hoàn toàn do tôi trực tiếp theo dõi,
thu thập với thái độ khách quan, trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kì công trình nghiên cứu nào.
Tôi cam đoan các thông tin trong khóa luận đều được chỉ rõ nguồn
gốc,các tài liệu đã trích dẫn của các tác giả đều được liệt kê đầy đủ, không sao
chép bất kỳ tài liệu nào mà không có trích dẫn.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận tốt nghiệp
này đã được cảm ơn.
Hà Nội , ngày 31 tháng6 năm 2016
Sinh viên

Trần Thị Thu Thảo


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gủi lời cảm ơn sâu sắc tới:
Giảng viên hướng dẫn TS. Phạm Kim Đăng - Cán bộ giảng dạy bộ môn
Sinh lý tập tính động vật - Khoa Chăn nuôi - Học viện Nông Nghiệp Việt Nam
đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện khóa luận tốt
nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo trong Bộ môn Dinh dưỡng Thức ăn, các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam đã nhiệt tình giảng dạy, đào tạo tôi cũng như các bạn sinh viên trong
khoa.
Tôi cũng xin cảm ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ của ông Hoàng Ngọc Đoàn
và toàn thể công nhân trang trại chăn nuôi gà đẻ thương phẩm của ông Hoàng
Ngọc Đoàn – Xã Tàm Xá – Huyện Đông Anh – Thành Phố Hà Nội đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.
Và cuối cùng tôi xin cảm ơn tới gia đình, bố mẹ, anh chị, bạn bè,… đã
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện và


hoàn thành khóa luận .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm 2015
Sinh viên

Tần Thị Thu Thảo


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tóm tắt trạng thái Eubiosis và Dysbiosis cùng các đặc điểm đặc
trưng của chúng
Bảng 3.1: Bố trí thí nghiệm
Bảng 3.2: Phối trộn cám ở trại
Bảng 4.1: Chương trình sử dụng vacxin cho gà hướng trứng
Bảng 4.2: Tỷ lệ gà đẻ thí nghiệm qua các ngày thí nghiệm
Bảng 4.3: Năng suất trứng của gà thí nghiệm (n = 3300)
Bảng 4.4: Khối lượng trứng của các lô theo dõi
Bảng 4.5: hiệu quả sử dụng thức ăn qua các tuần thí nghiệm
Bảng 4.6: Tiêu tốn thức ăn qua các tuần tuổi (kg TĂ/10 quả trứng)
Bảng 4.7: Chi phí thức ăn cho 1kg trứng
Bảng 4.8: Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng
Bảng 4.9: Tỷ lệ dập vỡ, dị hình của các lô từ 36 – 39 tuần tuổi (%)
Bảng 4.10: Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm
Bảng 4.11: Các chỉ tiêu trong 4 tuần theo dõi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cs: Cộng sự
ĐC: Đối chứng
ĐVT: Đơn vị tính

HHTA: hỗn hợp thức ăn
HQSDTA: Hiệu quả sử dụng thức ăn
NST: Năng suất trứng
NXB: Nhà xuất bản
TB: Trung bình
TN: Thí nghiệm
TTTA: Tiêu tốn thức ăn


PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò lớn trong việc
phát triển kinh tế ở hầu hết các nước và đặc biệt là những nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Đối với nước ta, ngành chăn nuôi là 1 trong hai lĩnh vực
kinh tế then chốt (chăn nuôi & trồng chọt). Trong đó có chăn nuôi gà là nghề sản
xuất truyền thống có từ lâu đời và chiếm vị trí quan trọng thứ hai trong ngành
chăn nuôi của Việt Nam sau chăn nuôi lợn, hằng năm cung cấp khoảng 350 –
450 ngàn tấn thịt và hơn 2,5 – 3,5 tỷ quả trứng (Cục Chăn nuôi, 2007).
Tuy nhiên, chăn nuôi gà của nước ta vẫn trong tình trạng lạc hậu, chưa
phát triển, chưa đáp ứng đủ nhu cấu của xã hội. Bình quân sản lượng thịt xẻ,
trứng trên người chỉ đạt 4,5 -5,4kg/người/năm và 35 trứng/người/năm. Ngoài ra
ngành chăn nuôi của Việt Nam còn đứng trước nhiều vấn đề lớn khi vào ngày
4/2/2016 vừa qua, Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đã được kí kết đem lại những cơ hội và thách thức không nhỏ đối với
ngành chăn nuôi trong nước. Đến khi TPP chính thức được thực hiện, thuế nhập
khẩu nông sản trong đó có sản phẩm gia cầm giảm về mức 0% thì sản phẩm từ
gà trong nước sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực lớn cạnh tranh về giá.
Chính vì những lẽ trên, để ngành chăn nuôi gà thực sự phát triển, hiệu quả
chăn nuôi cao bên cạnh các yếu tố con giống, chuồng trại,.. người chăn nuôi

phải ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào xây dựng khẩu phần ăn,
nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và giảm chi phí thức ăn để cho lợi nhuận cao.
Gia cầm có tốc độ trao đổi chất và năng lượng cao hơn so với động vật có
vú. Cường độ tiêu hóa mạnh ở gia cầmđược xác định bằng tốc độ di chuyển của
thức ăn qua ống tiêu hóa, khoảng thời gian này thường diễn ra rất nhanh nên đòi
hỏi gia cầm phải có 1 đường tiêu hóa khỏe mạnh. Hệ enzyme nội sinh ở gia cầm
thường không đủ để tiêu hóa hấp thu các thành phần dinh dưỡng trong thức ăn


nên chúng ta cần có giải pháp hỗ trợ hệ tiêu hóa cho gia cầm. Một hệ quả khác
của việc giảm sức khỏe đường ruột do thức ăn, nước uống, stress, môi trường,..
gây ra vấn đề viêm ruột tiêu chảy dẫn đến hiện tượng phân ướt, không tiêu hóa
triệt để thức ăn, gia cầm giảm tăng trọng, kéo theo mùi hôi chuồng nuôi và có
thể giảm tỷ lệ đẻ, năng suất chất lượng trứng. Bên cạnh đó vấn đề sử dụng
kháng sinh thường xuyên trong thức ăn chăn nuôi đẻ phòng bệnh và kích thích
tăng trưởng sẽ làm giảm quần thể vi sinh vật có lợi trong đường ruột của gia
cầm, gây mất cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, gây rối loạn tiêu hóa.
Để giải quyết các vấn đề trên thì hiện nay ở các nước chăn nuôi phát triển
trên thế giới thường sử dụng probiotic bacillus vào trong khẩu phần với mục
đích ổn định sức khỏe đường ruột, tăng khả năng tiêu hóa thức ăn, nâng cao tỷ lệ
tiêu hóa năng lượng, protein và các thành phần dinh dưỡng khác từ đó cải thiện
khả năng tăng trọng, giảm chi phí thức ăn tăng năng suất và chất lượng sản
phẩm và đặc biệt để nhằm hạn chế sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi thì chế
phẩm sinh học là một giả pháp tối ưu để thực hiện mục đích này. Vì thế mà các
nhà chăn nuôi đã rất chú ý đến việc sử dụng chế phẩm sinh học.
Chế phẩm sinh học có chứa những vi sinh vật sống có lợi, người ta chọn
lọc những vi sinh vật có lợi, có tính đối kháng cao để đưa vào đường ruột tạo ra
sự cân bằng có lợi cho hệ sinh vật đường ruột. Ngoài ra chế phẩm sinh học còn
cải thiện lượng thức ăn ăn vào, khả ngăng tiêu hóa, cung cấp chất dinh dưỡng,..
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều các chế phẩm sinh học ra đời phục

vụ cho chăn nuôi, và chế phẩm Neoavi Layer của công ty cổ phần Công Nghệ
Sinh Học Mùa Xuân là một trong số đó. Với sự hướng dẫn của TS. Phạm Kim
Đăng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả của chế phẩm
Neoavi Layer đến một số chỉ tiêu năng suất sinh sản trên gà đẻ ISA Brown”.


1.2. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA.
1.2.1. Mục đích của đề tài
- Tìm hiểu quy trình chăn nuôi và vệ sinh phòng bệnh tại trang trại ông
Hoàng Ngọc Đoàn, xã Tàm Xá - huyện Đông Anh - TP Hà Nội.
- Xác định hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm Neoavi Layer trong khẩu
phần ăn của gà đẻ trứng thương phẩm.
- Xác định hiệu quả kinh tế của việc bổ sung Neoavi Layer.
1.2.2. Ý nghĩa
- Cung cấp thêm thông tin cho các cơ sở sản xuất, các nhà chăn nuôi
trong việc xây dựng khẩu phần ăn cho gà đẻ đặc biệt là gà đẻ trứng thương
phẩm.


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẶC ĐIỂM TIÊU HÓA THỨC ĂN GIA CẦM
Gia cầm có tốc độ trao đổi chất và năng lượng cao hơn so với động vật có
vú. Cường độ tiêu hóa mạnh ở gia cầm được xác định bằng tốc độ di chuyển của
thức ăn qua ống tiêu hóa. Ở gà con, tốc độ là 30 - 39cm/giờ; ở gà lớn hơn là 32 40cm/giờ và ở gà trưởng thành là 40 - 42cm/giờ. Chiều dài của ống tiêu hóa gia
cầm không lớn, thời gian mà khối thức ăn được giữ lại trong đó không vượt quá
2 - 4 giờ, ngắn hơn rất nhiều so với động vật khác.
Mỏ và khoang miệng
Mỏ chia ra làm ba phần: đầu mỏ, thân mỏ, gốc mỏ. Đường vành mỏ trên
có thêm gờ sừng hình răng cưa. Mỏ dùng để lấy thức ăn

Phần trên khoang miệng có vòm miệng cứng ngắn, được phủ lớp màng
nhầy, phần dưới có lưỡi. Lưỡi nhỏ nằm ở đáy khoang miệng, có hình dạng và kích
thước phù hợp với mỏ. Trên bề mặt phía trên của lưỡi có những gai rất nhỏ hóa
sừng hướng về phía sau có tác dụng giữ khối thức ăn và đẩy chúng về thực quản.
Tuyến nước bọt không phát triển, nước bọt gà rất ít men, chủ yếu là dịch
nhầy để thấm ướt thức ăn thuận lợi cho việc nuốt.
Thực quản
Nằm song song với khí quản, là một ống có 2 lớp cơ đàn hồi, niêm mạc có các
tuyến tiết dịch nhầy có chức năng vận chuyển thức ăn từ khoang miệng xuống diều.
Diều
Diều là phần phình ra của thực quản nằm bên phải chỗ vào khoang ngực
ngay trước hai xương đòn phải trái, là nơi dự trữ, làm mềm và lên men thức ăn
để cung cấp xuống dạ dày.
Thực quản dưới diều
Là một ống ngắn dẫn thức ăn xuống dạ dày tuyến.


Dạ dày tuyến
Có dạng ống ngắn, vách dày, được nối với dạ dày cơ bằng một eo nhỏ.
Vách dạ dày tuyến cấu tạo gồm màng nhày, cơ và mô liên kết. Bề mặt của màng
nhày có những nếp gấp dễ thấy, đậm và liên tục. Ở đáy màng nhày có những
tuyến hình túi với các lỗ đổ ra của chất tiết. Dịch dạ dày được tiêt vào trong
khoang của dạ dày tuyến gồm HCl, men Pepsin, men và Muxin.
Dạ dày cơ
Có dạng hình đĩa, hơi bị bóp ở phía cạnh, nằm ở phía sau thùy trái của
gan và lệch về phía trái của khoang bụng. Lối vào, lối ra của dạ dày cơ rất gần
nhau, nhờ vậy thức ăn được giữ lại ở đây lâu hơn, chúng sẽ bị nghiền nát cơ học,
trộn lẫn với men và được tiêu hóa dưới tàc dụng của các dịch dạ dày cũng như
enzym và chất tiết của vi khuẩn. Dịch tiêu hóa không được tiết ở dạ dày cơ.
Niêm mạc của dạ dày cơ rất dày và được cấu tạo từ hai lớp: biểu bì cùng

với lớp màng bằng sừng và một lớp nhầy đặc chắc từ mô liên kết. Thành dày
gồm các lớp cơ chắc, khỏe. Niêm mạc sừng hóa bảo vệ cơ học khi co bóp
nghiền nát thức ăn.
Ruột
Đoạn trước ruột ngắn, giống như ruột non của gia súc, có nhiều tuyến,
nhiều lông nhung làm tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng. Mặt khác, do tuyến
ngoại tiết tương đối phát triển nên khả năng tiêu hóa tốt.
Đoạn cuối ruột có hai manh nang, là cơ quan tiêu hóa xơ chính của gà nhờ
vào sự hoạt động của vi sinh vật. Phần cuối ruột đổ ra ổ nhớp, là nơi đi ra của
phân và nước tiểu.
2.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH SẢN CỦA GÀ MÁI ĐẺ
Cấu tạo hệ sinh dục cái
Buồng trứng.
Gà có một buồng trứng ở phía trái của khoang bụng, là nơi tạo ra các tế
bào trứng ( lòng đỏ trứng). Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào


trạng thái chức năng và tuổi gia cầm. Ở gà mái con 1 ngày tuổi, buồng trứng có
dạng phiến mỏng, 4 tháng tuổi phiến hình thoi. Gà trong thời kỳ đẻ trứng, buồng
trứng có dạng hình chùm nho. Trong buồng trứng có miền vỏ và miền tủy. Ỏ
miền vỏ của buồng trứng gồm nhiều tế bào trứng ở các giai đoạn khác nhau. Ở
miền tủy của buồng trứng được cấu tạo từ mô liên kết, có nhiều mạch máu và
dây thần kinh. Trong chất tủy có những khoang được phủ bằng mô dẹt và mô
thần kinh.
Ống dẫn trứng.
Có hình ống, ở đó xảy ra việc thụ tinh và hình thành vỏ trứng. Kích
thước ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và tình trạng hoạt động của hệ sinh
dục. Khi bắt đầu thành thục sinh dục, ống dẫn trứng là một ống trơn, thẳng, có
đường kính như nhau trên toàn bộ ống. Sau khi đẻ quả trứng đầu tiên, ống dẫn
trứng của gà có chiều dài khoảng 68 cm, khối lượng 77 g. Vào thời kỳ đẻ trứng

mạnh chiều dài của nó tăng tới 86 cm, còn đường kính đến 10 cm. Ở gà không
đẻ trứng, chiều dài ống dẫn trứng giảm đến 11 - 18cm, đường kính 0,4 - 0,7 cm.
Thời kỳ thay lông, chiều dài là 17 cm.
Ống dẫn trứng chia làm 5 phần: loa kèn (phễu), phần tạo lòng trắng, cổ,
tử cung và âm đạo.
Tế bào sinh dục cái
Tế bào sinh dục cái của gà chính là trứng, kích thước lớn hơn so
với các lớp động vật khác. Trứng được bảo vệ bằng lớp vỏ trứng cứng, bao
bên ngoài. Trong trứng có chứa phôi, chất dinh dưỡng và chất khoáng.
Chất dinh dưỡng và chất khoáng đủ đẻ đáp ứng cho nhu cầu sinh trưởng, phát
triển một cách bình thường của bào thai.
Tùy theo giống gà và tuổi đẻ, khối lượng trứng khác nhau, trung bình
khoảng 56 - 64 gram. Trứng được hình thành và tạo ra từ buồng trứng và ống
dẫn trứng. Theo Bùi Hữu Đoàn và cs (2006), trứng gà được cấu tạo bởi các
thành phần và tỷ lệ như sau: vỏ trứng: 11,6%; lòng đỏ: 31,6%; lòng trắng:


56,8% (lớp ngoài lòng trắng lỏng 23,2%, lớp giữa lòng trắng đặc chiếm 57,3%,
lớp trong lòng trắng lỏng 16,8%, lớp trong cùng lòng trắng xoắn đặc 2,7%).
Thành phần hóa học của trứng ổn định gồm: nước (66%), vật chất khô
(43%), protein (12%), lipit (10%), hydratcacbon (1%) và khoáng (11%). Trên vỏ
trứng có nhiều lỗ thông khí, có tới 7600 - 7800 lỗ phôi trôi nổi trên bề mặt lòng
đỏ, đây chính là hợp tử do tinh trùng kết hợp với tế bào trứng tạo nên. Ở nhiệt
độ 37,5 0C, ẩm độ 60 - 70%, điều kiện thoáng khí, các trứng được thụ tinh sẽ
tạo phôi tiếp tục phát triển, sử dụng chất dinh dưỡng cân đối trong trứng để hình
thành gà con sau 490 - 528 giờ (khoảng 17,5 - 22 ngày),
Hiện tượng rụng trứng và quá trình hình thành trứng
Hiện tượng rụng trứng và sự hình thành trứng ở gà mái gắn liền với sự
hình thành các chất dinh dưỡng để nuôi bào thai. Quá trình thoát khỏi buồng
trứng của tế bào trứng chín gọi là sự rụng trứng. Tế bào trứng chín rơi vào túi

lòng đỏ và nằm trên bề mặt lòng đỏ đạt độ chín trong phạm vi 9 - 10 ngày.
Theo Melekhin và Niagridin (1989) (dẫn theo Ngô Giản Luyện,
1994), sự rụng trứng ở gà xảy ra một lần trong ngày, thường là 30 phút
sau khi đẻ trứng. Nếu trứng đẻ sau 16 giờ thì sự rụng trứng sẽ
chuyển đến đầu hôm sau. Trứng bị giữ lại trong ống dẫn trứng làm ngừng sự
rụng trứng tiếp theo. Nếu lấy trứng ra khỏi ống dẫn trứng thì không làm tăng
nhanh sự rụng trứng được.
Khối lượng trứng tăng 16 lần trong thời gian 7 ngày ở thời kỳ trước
rụng trứng (Nguyễn Tất Thắng, 2008). Hormon FSH, LH điều chỉnh theo
một trình tự chặt chẽ trong quá trình phát triển và vỏ bao noãn. Thùy trước
tuyến yên tiết ra hormon FSH và LH là tác nhân kích thích bao noãn phát
triển, vỡ ra và chín để giải phóng trứng. Trứng sau khi rụng được rơi vào
trong phễu (loa kèn) của ống dẫn trứng và phễu nhu ñộng liên tục. Tế bào
trứng rơi vào phễu dừng lại ở đây 20 phút, nếu có tinh trùng thì việc thụ tinh
tế bào trứng sẽ xảy ra ở trên thành phễu.


Thành thục sinh dục
Tuổi thành thục sinh dục là một yếu tố quyết định năng suất. Tuổi đẻ
trứng đầu được xác định bằng số ngày tuổi kể từ khi gà nở đến lúc đẻ quả trứng
đầu tiên (với con mái) và khả năng thụ tinh với con trống. Trong một đàn gà mái
chỉ tiêu này được xác định bằng tuổi đẻ 5% số cá thể trong đàn, tuổi đẻ quả
trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng, thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy
gia cầm đẻ sớm.
Theo Siegel (1962) khối lượng cơ thể và cấu trúc thành phần cơ thể là
những nhân tố ảnh hưởng đến tính thành thục ở gà màu.
Kết quả nghiên cứu của Vũ Quang Ninh (2002) cho biết tuổi đẻ quả trứng
đầu của gà Ác Thái Hòa 152- 158 ngày; đạt tỷ lệ 50% lúc 195 – 198 ngày. Phùng
Đức Tiến (2004) chỉ ra rằng tuổi đẻ đạt tỷ lệ 5% của gà Ai Cập 145 – 160 ngày.
Nguyễn Thị Khanh và cs (2001), tuổi thành thục sinh dục của gà Tam

Hoàng dòng 882 và Jaangcun lúc 154 và 157 ngày.
Khối lượng gà mái thành thục và khối lượng trứng gà tăng dần qua từng
thời điểm đẻ 5% và đẻ đỉnh cao.
2.3. NGUỒN GỐC ĐẶC ĐIỂM TÍNH NĂNG SẢN SUẤT GÀ ISA BROWN
Gà ISA Brown là giống gà chuyên trứng cao ản của Mỹ. giống gà này là
giống gà lai, hình thành do việc lai tạo giữa giống gà Rohde Đỏ với gà Rohde
Trắng do công ty Hubbard ISA của Mỹ vì thế nó còn có tên gọi là gà Hubbard.
Gà này nắm trong dòng gà ISA của hãng Hubbard-ISA. Đây là giống gà hướng
trứng được nuôi phổ biến trên thế giới. Chúng là gà xuất khẩu của Hoa Kỳ. Ở
Việt Nam chúng được xếp vào nhóm gà siêu trứng cho năng suất cao.
Gà mái lúc mới bắt đầu đẻ có khối lượng khoảng 1,6 – 1,7kg/con, tỷ lệ đẻ
cao 93,9% khoảng 144 ngày đạt tỷ lệ đẻ 50%, đến 76 tuần tuổi sản lượng trứng
đạt 329 quả/mái, khối lượng trứng trung bình 62,7g/quả, vỏ trứng màu nâu. Tiêu
tốn thức ăn cho 10 quả trứng là. 1,5 – 1,6 kg. Chu kỳ đẻ kéo dài có thể trên 12
tháng, giai đoạn đẻ cao cũng kéo dài từ 32 – 45 tuần tuổi với tỷ lệ đẻ 85 – 90%,


là đặc điểm hơn hẳn các giống gà trứng khác. Tỷ lệ nuôi sống từ 1 ngày đến 20
tuần tuổi là 98% và từ 20 tuần tuổi đến 78 tuần tuổi là 93,3%. Sản lượng trứng
thay đổi qua các tuần tuổi từ 20 tuần tuổi đến 78 tuần tuổi là 93,3%. Sản lượng
trứng thay đổi qua các tuần tuổi từ 20 – 72 tuần tuổi là 303 quả/năm và từ 20 –
72 tuần tuổi là 320,6 quả/năm.
Khối lượng trứng cũng thay đổi qua các tuần tuổi, vào tuần tuổi thứ 24 là
56g/quả, tuần tuổi thứ 35 là 62g/quả và tuần 72 tuần tuổi là 65g/quả.
Gà bắt đầu đẻ bói vào tuần tuổi thứ 19, đẻ 50% vào tuần thứ 21, tỷ lệ đạt
đỉnh cao 93% tuần thứ 26 – 33 và tuần 76 là 73% (Võ Bá Thọ, 1996).
2.4. PROBIOTIC
Khái niệm probiotic
Theo ngôn ngữ Hi Lạp, probiotic có nghĩa là “vì sự sống”. Thuật ngữ
probiotic được Parker đề nghị sử dụng đầu tiên vào năm 1947 để chỉ “những vi

sinh vật và những chất làm cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột” (Fuller, 1989).
Từ đó đến nay thuật ngữ probiotic đã được cả thế giới sử dụng để chỉ những chế
phẩm vi sinh vật sống hữu ích khi đcược đưa vào cơ thể động vật thông qua thức
ăn hoặc nước uống tạo nên những ảnh hưởng có lợi cho vật chủ.
Kể từ khi xuất hiện khái niệm probiotic vẫn chưa có một định nghĩa thống
nhất. Tuy nhiên, hiện có hai định nghĩa được cho là phản ánh khá đầy đủ bản
chất của probiotic và được sử dụng nhiều trong các ấn phẩm khoa học: theo
Fuller (1989), probiotic là :”chất bổ sung vi sinh vật sống vào thức ăn giúp cải
thiên cân bằng của hệ vi sinh vật đường tiêu hóa theo hướng có lợi cho vật chủ”;
theo tổ chức y tế thế giới (WHO, 2001), probiotic là “các vi sinh vật sống khi
đưa vào cơ thể theo đường tiêu hóa với một số lượng đủ sẽ đem lại sức khỏe tốt
cho vật chủ”.


Hệ vi sinh vật đường ruột và tác động của hệ vi sinh vật đến sức khỏe của
vật nuôi
Bên cạnh sự hấp thụ các chất dinh dưỡng, đường tiêu hóa còn đóng vai trò
quan trọng như là cơ quan miễn dịch lớn nhất trong cơ thể. Do đó, nó là hệ
thống bảo vệ và là hàng rào quan trọng chống lại các tác nhân gây bệnh xâm
nhiễm. Thêm vào các cơ chế bảo vệ nói chung, hệ thống miễn dịch, với các phản
ứng đặc hiệu và không đặc hiệu, giúp chống lại các vi sinh vật gây bệnh. Hệ vi
sinh vật đường ruột cũng được coi là một trong các yếu tố chống lại các tác nhân
gây bệnh.
Khi còn ở trong bào thai, đường tiêu hoá của vật nuôi ở trạng thái vô
trùng, nhưng chỉ vài giờ sau khi sinh các vi sinh vật đã bắt đầu cư trú và trở
thành những “cư dân” bình thường trong đường tiêu hoá (WHO, 2001). Theo
thời gian, do tiếp xúc trực tiếp với môi trường, đặc biệt là qua thức ăn và nước
uống, số lượng và tính đa dạng sinh học của các vi sinh vật cộng sinh không
ngừng tăng lên. Số lượng tế bào vi sinh vật cư trú trong đường tiêu hóa của vật
nuôi có thể cao gấp mười lần số lượng tế bào cấu tạo nên cơ thể chúng (Fonty,

1995). Số lượng loài có thể lên tới từ 400-500 (Tannock, 1999). Tuy nhiên, mật
độ vi sinh vật ở các phân đoạn khác nhau của đường tiêu hóa (dạ dày; tá tràng;
ruột non và ruột già) ở loài động vật dạ dày đơn rất khác nhau (khoảng 10 1-103;
101-104; 105-108 và 109-1012 cfu/ml chất chứa tương ứng) (Jans, 2005).
Sức khỏe của vật nuôi phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: trạng thái sinh lý của
vật chủ, khẩu phần thức ăn và hệ vi sinh vật. Các yếu tố này chịu tác động của
môi trường, của các stress và tác động qua lại lẫn nhau. Trong số các nhân tố trên,
hệ vi sinh vật đường tiêu hóa đóng vai trò trung tâm, chỉ một biến động bất lợi
của một trong hai yếu tố còn lại cũng ảnh hưởng xấu tới hệ vi sinh vật (Conway,
1994). Sự cộng sinh của các loài vi sinh vật trong đường tiêu hoá của vật nuôi
(chủ yếu là trong ruột) tạo nên một hệ sinh thái mở và mối cân bằng của quần thể
vi sinh vật được xác lập chỉ một thời gian rất ngắn sau khi sinh (Jans, 2005).


Có nhiều quan điểm khác nhau về mối tương quan cân bằng của hệ vi sinh
vật ruột. Theo Jans (2005), để đánh giá trạng thái cân bằng, các vi sinh vật ruột
được chia thành 3 nhóm (1) nhóm chủ yếu (main flora) gồm các loài vi khuẩn kị
khí (Clostridium; Lactobacillus; Bifidobacteria; Bacteroides, Eubacteria); (2)
nhóm vệ tinh (Satellite flora), gồm chủ yếu là Enterococcus và E. coli, và (3)
nhóm còn lại (Residual flora) gồm các vi sinh vật có hại như Proteus,
Staphylococcus và Pseudomonas… Một quần thể vi sinh vật được coi là cân
bằng khi tỷ lệ của các nhóm dao động trong khoảng 90; 1,0 và 0,01% tương
ứng. Trạng thái mà các nhóm này hình thành một tỷ lệ 90:1:0,01 được gọi là
trạng thái “eubiosis” (tiếng Hy Lạp có nghĩa là sự chung sống có lợi giữa các vi
khuẩn với nhau và với vật chủ). Ở trạng thái “eubiosis”, vật chủ cung cấp các
điều kiện sống lý tưởng như nhiệt độ ổn định, pH trung tính, dinh dưỡng và sự
đào thải các chất chuyển hóa. Đổi lại, hệ vi sinh vật sẽ mang lại lợi ích cho vật
chủ thông qua tăng cường tiêu hóa các chất dinh dưỡng, giải độc, tổng hợp các
vitamin nhóm B và vitamin K, loại trừ các vi sinh vật có hại, tăng cường đáp
ứng miễn dịch của vật chủ. Sự cân bằng của hệ vi sinh vật trong đường tiêu hóa

bị tác động bởi một số nhân tố vô sinh và hữu sinh như: sinh lý vật chủ, khẩu
phần thức ăn và cơ cấu nội tại của bản thân hệ vi sinh vật. Thức ăn là nền dinh
dưỡng cơ bản của vi sinh vật, bởi vậy sự thay đổi thành phần khẩu phần, thức ăn
không đảm bảo vệ sinh, phương pháp cho ăn không hợp lý... đều làm tổn hại đến
trạng thái cân bằng hệ vi sinh vật ruột. Tương tự như vậy, các chất bài tiết của
hệ tiêu hóa (dịch mật, các enzym, chất đệm và chất nhầy...) cũng như kiểu và tần
số nhu động ruột cũng tác động trực tiếp đến hệ vi sinh vật. Kiểu và tần số nhu
động ruột bị tác động rất lớn bởi các stress (sinh đẻ, cai sữa, dồn chuồng, vận
chuyển...). Khi quan hệ cân bằng của hệ vi sinh vật ruột bị phá vỡ sẽ tạo nên
trạng thái “dysbiosis” (trạng thái “chung sống có hại”). Biểu hiện của trạng thái
“dysbiosis” ở vật chủ thường là thể tạng kém, sinh trưởng chậm và mắc các
bệnh đường tiêu hóa như tiêu chảy, viêm ruột hoại tử... (tóm tắt trạng thái


eubiosis và dysbiosis có trong bảng 2.1). Để cải thiện quan hệ cân bằng của hệ
vi sinh vật ruột ở vật nuôi, một phương pháp thường được áp dụng là bổ sung
vào khẩu phần thức ăn một số loại kháng sinh liều thấp như những chất kích
thích sinh trưởng. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi
một cách không có kiểm soát đã và đang gây ra những hậu quả đáng lo ngại về
vệ sinh an toàn thực phẩm và đặc biệt là gây nên tình trạng kháng thuốc ngày
càng gia tăng của các vi khuẩn gây bệnh trên người và vật nuôi. Hiện nay, khối
liên minh châu Âu (EU) đã cấm sử dụng kháng sinh để bổ sung vào thức ăn như
chất kích thích sinh trưởng từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Việc cấm sử dụng
kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi cũng đặt ra những thách thức lớn về kỹ
thuật, đặc biệt đối với chăn nuôi gia súc, gia cầm non hoặc trong điều kiện vệ
sinh kém và vật nuôi chịu nhiều stress. Để vượt qua những thách thức đó, đã có
rất nhiều những nghiên cứu nhằm tìm ra tác nhân để thay thế kháng sinh nhưng
an toàn với vật nuôi. Một trong những tác nhân tìm ra đó là probiotic.
Bảng 2.1: Tóm tắt trạng thái Eubiosis và Dysbiosis cùng các đặc điểm đặc
trưng của chúng

Trạng thái Eubiosis
- Sự cùng tồn tại giữa vật chủ và hệ vi
sinh vật đường ruột – Sự cộng sinh
- Sự bảo vệ bề mặt của đường tiêu
hóa chống lại các vi sinh vật xâm
nhiễm.

Trạng thái Dysbiosis
- Sự không cùng tồn tại giữa vật chủ và
hệ vi sinh vật đường ruột.
- Sự phá hủy biểu mô đường ruột, làm
cho thành đường ruột mỏng đi dẫn đến
giảm sự hấp thụ các chất dinh dưỡng.
- Sinh ra các cơ chất gây độc (NH3, chất
- Kích thích hệ miễn dịch của vật chủ. độc…)
- Tiêu hóa các chất dinh dưỡng.
- Phân hủy, tăng sản sinh khí gas (CH 4,
- Tổng hợp protein.
H2S, CO2).
- Tổng hợp các vitamin
- Làm yếu hệ thống miễn dịch
- Làm tăng chu trình tế bào, cần nhiều
năng lượng
Vai trò và cơ chế tác dụng probiotic


Vai trò của probiotic
Từ khi kháng sinh bị cấm sử dụng như chất kích thích sinh trưởng trong
thức ăn chăn nuoi ở một số nước thuộc khối liên minh châu Âu thì probiotic
được coi là một trong những nguồn thay thế có triển vọng nhất vì có nhiều đặc

tính ưu việt. Trên cơ sở các kết của nghiên cứu của nhiều tác giả, Patterson
(2003) đã tổng kết các ảnh hưởng có lợi của probiotic đối với đời sống động vật
thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thay đổi cấu trúc quần thể vi sinh vaath đường ruột theo chiều hướng
có lợi cho vật chủ.
- Tăng cường khả năng miễn dịch.
- Giảm phản ứng viêm.
- Ngăn cản sự xâm nhập và ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh.
- Tăng sản xuất các axit béo bay hơi.
- Tăng cường quá trình sinh tổng hợp các vitamin nhóm B.
- Tăng hấp thu chất khoáng
- Làm giảm cholesterol huyết thanh.
- Làm tăng năng suất vật nuôi.
- Làm giảm lượng amoniac và uree trong chất thải.
Ngoài ra probiotic còn rất an toàn với động vật và thân thiện với môi
trường vì là chất bổ sung vi sinh vật sống hữu ích, việc sử dụng probiotic sẽ
không tạo ra các chất tồn dư trong sản phẩm chăn nuôi gây hại cho sức khỏe
người tiêu dùng.
Cơ chế tác động
Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về cơ chế tác động của probiotic,
nhưng phần lớn các tài liệu về probiotic đề cạp đến 3 khía cạnh: cạnh tranh loại
trừ; đối kháng vi khuẩn và điều chỉnh miễn dịch.
- Cạnh tranh loại trừ: Là đặc tính đấu tranh sinh tồn điển hình của các vi
sinh vật. Hình thức cạnh tranh loại trừ thường thấy ở các vi sinh vật ruột là cạnh
tranh vị trí bám dính. Các vi sinh vật probiotic cư ngụ và nhân lên trong ruột,
khóa chặt các vị trí thụ cảm và ngăn chặn sự bám dính của các vi sinh vật khác
như E. coli, Salmonella… Một số nấm men probiotic (Saccharomyces cereviese,
S.boulardii) không chỉ cạnh tranh vị trí bám dính của các vi khuẩn khác mà còn



gắn kết các vi khuẩn có roi ( phần lớn là những vi khuẩn có hại) thông qua các
cơ quan thụ cảm mannose và đẩy chúng ra vị trí bám dính ở niêm mạc
ruột(Czerucka và Rampal, 2002). Tuy nhiên cạnh tranh dinh dưỡng là phương
thức cạnh tranh khốc liệt nhất vì sự sinh sôi với số lượng lớn của một loài sinh
vật nào đó là một đe dọa nghiêm trọng đối với các loài khác về nguồn cơ chất
cho phát triển.
- Đối kháng vi khuẩn: Các vi sinh vật probiotic sản sinh ra các chất kìm
hãm vi khuẩn như lactoferrin, lysozym, hydrogen peroxide cũng như một số
axits hữu cơ khác. Các chất này tác động bất lợi lên vi khuẩn có hại chủa yếu là
do sự giảm thấp pH trong ruột (Conway, 1996).
- Điều chỉnh hệ miễn dịch: Ruột là cơ quan miễn dịch lớn nhất ở động vật
có vú. Giữa hệ vi sinh vật ruột và hệ thống miễn dịch có mối tương tác đặc thù.
Năng lực miễn dịch thể dịch và miễn dịch tế bào của hệ thống miễn dịch đường
ruột bị ảnh hưởng rất lớn bởi sự cân bằng của hệ vi sinh vật ruột (Cebra, 1999).
Thông qua tương tác với hệ thống miễn dịch ruột các probiotic có thể điều chỉnh
cả miễn dịch thụ động và chủ động hoặc cả hai. Tác động điều chỉnh miễn dịch
đặc hiệu của probiotic phụ thuộc vào chủng giống hoặc các loài vi khuẩn
probiotic (Dugas và ctv, 1999). Tuy nhiên, cơ chế tác động của probiotic đối với
việc nâng cao chức năng miễn dịch vẫn còn chưa được hiểu biết đầy đủ.
Tiêu chuẩn lựa chọn các chủng probiotic
Việc lựa chọn các chủng vi sinh vật đầu tiên là phải an toàn cho quá trình
sản xuất và ứng dụng, có khả năng chiếm lĩnh và sống ót trong đường tiêu hóa
vật chủ. Các chủng vi sinh vật probiotic được lựa chọn theo các tiêu chuẩn chủ
yếu sau:
- Tính bám dính trên bề mặt đường tiêu hóa hoặc các tế bào biểu mô: Các
chủng probiotic phải bám dính được vào thành ruột non, khu chú tốt trong
đường tiêu hóa và sinh sôi nảy nở. khả năng bám dính được xem là một yêu cầu
quan trọng để tăng khả năng ức chế vi sinh vật gây bệnh, bảo vệ biểu mô và tăng



khả năng miễn dịch của vật chủ. Đặc tính này làm tăng khả năng cạnh tranh của
các chủng probiotic với các vi sinh vật bất lợi khác.
- Hoạt tính kháng khuẩn chống lại các vi khuẩn gây bệnh: Lựa chọn các
chủng vi sinh vật có khả năng sản sinh ra các chất kháng khuẩn là đặc tính quan
trọng nhất trong phát triển probiotic.
- Khả năng tồn tại trong môi trường axit dạ dày: Khoang miệng và dạ dày
của vật chủ là nơi có môi trường axit pH từ 2-3 và có mặt các enzym tiêu hóa
(amylaza, proteaza, lysozym…). Các chủng vi sinh vật probiotic phải tồn tại
được trong điều kiện này.
- Khả năng chịu muối mật: Thông thường, muối mật trong dịch tiêu hóa
của động vật dao động 1-3%. Để tồn tại và phát triển, các chủng probiotic phải
có khả năng tồn tại và phát triển với nồng độ muối mật ≥ 2%.
Các chỉ tiêu đánh giá chế phẩm
- Số lượng vi khuẩn probiotic trong 1g chế phẩm, số lượng này phải đạt ít
nhất 105 trở lên.
- Vi khuẩn probiotic còn sống và hoạt động sau khi bảo quản hàng tháng
(tỷ lệ sống đạt >90% sau 12 tháng bảo quản).
- Hiệu quả phòng trị bệnh và tăng cường sức khoẻ của của động vật nuôi
phải được đánh giá chặt chẽ.
2.5. Giới thiệu về chế phẩm Neoavi Layer
Neoavi Layer chứa mật số cao 1×1012 CFU/kg tổ hợp các chủng bacillus
bào tử độc quyền từ giáo sư Silmon Culting, ĐH Hoàng Gia - Anh Quốc:
Bào tử Bacillus subtilis HU58…....... ≥ 3x1011 CFU/kg
Bào tử Bacillus licheniformis……… ≥ 2x1011 CFU/kg
Bào tử Bacillus coagulans……..….. ≥ 1x1011 CFU/kg
Bào tử Bacillus indicus.……………. ≥ 4x1011 CFU/kg
Chất mang đặc biệt vừa đủ 1kg
Vi khuẩn Bacillus
Bacillus: Là tên một chi gồm các vi khuẩn hình que, gram dương hiếu khí
thuộc họ Bacillacase trong Firmicutes, chngs còn có tên gọi là khuẩn que hay

trực khuẩn. Trực khuẩn có mọi nơi ở trong tự nhiên và khi điều kiện sống gay
go , chúng có khả năng tạo ra bào tử gần như hình cầu, để tồn tại trong trạng thái


“ngủ đông” trong thời gian dài. Loại sinh vật này có nhiều loài khác nhau.

Hình 2.1: Bào tử Bacillus
Bacillus subtilis
Bacillus subtilis, còn được gọi là trực khuẩn cỏ khô hoặc trực khuẩn cỏ, là
một loại vi khuẩn gram dương, catalase dương tính. Thuộc chi Bacillus, Bacillus
subtilis là trực khuẩn hình que, có khả năng tạo bào tử, có khả năng chịu đựng
các điều kiện môi trường khắc nghiệt. Mặc dù loài này thường được tìm thấy
trong đất, tuy nhiên nhiều bằng chứng cho thấy B. subtilis cũng tồn tại trong
ruột người, động vật . Nghiên cứu gần đây so sánh số lượng bào tử được thực
hiện bởi đất (~106 bào tử/g) so với mức được tìm thấy trong phân người (~
104 bào tử /g).
B. subtilis có thể phân chia đối xứng để tạo thành hai tế bào con (nhị
phân phân hạch), hoặc không đối xứng, tạo bào tử trong điều kiện môi trường


bất lợi như hạn hán, độ mặn, bức xạ cực cao, pH và dung môi, môi trường nghèo
dinh dưỡng. Trong môi trường sống khắc nghiệt, trước giai đoạn hình thành bào
tử, các tế bào vi khuẩn có thể tự tạo ra các chất đề kháng (kháng sinh), hoặc giết
chết đồng loại để tìm kiếm dinh dưỡng. Tính ổn định cao của B. subtilis trong
điều kiện môi trường khắc nghiệt làm cho vi sinh vật trở thành một trong những
ứng cử viên hoàn hảo cho các ứng dụng chế phẩm sinh học hoặc trong thực
phẩm, đồ uống , khử trùng. Cụ thể:
- B. subtilis có khả năng sản sinh nhiều enzyme, nhưng quan trọng nhất là
amylase và protease, 2 loại enzyme thuộc hệ thống men tiêu hóa.
B.subtilis có khả năng sinh tổng hợp một số chất kháng sinh có tác dụng

ức chế sinh trưởng hoặc tiêu diệt một số vi sinh vật khác, tác dụng lên cả vi
khuẩn Gram(-), Gram(+) và nấm gây bệnh.
B. subtilis thường tồn tại trong sản phẩm ở trạng thái bào tử, nhờ vậy khi
uống vào dạ dày, nó không bị acid cũng như các men tiêu hóa ở dịch vị phá hủy.
Ở ruột, bào tử nẩy mầm và phát triển thành thể hoạt động giúp cân bằng hệ vi
sinh có ích trong đường ruột, cải thiện hệ thống tiêu hóa, nhất là sau khi sử dụng
kháng sinh kéo dài.
Bacillus licheniformis
Bacillus licheiformis : là vi khuẩn gram dương , hình que, ưa nhiệt .
Nhiệt độ tăng trưởng tối ưu khoảng 30 ° C, tuy nhiên nó có thể tồn tại ở nhiệt độ
cao hơn nhiều. Nhiệt độ tối ưu để sản sinh enzyme là 37 ° C. Trong điều kiện
môi trường khắc nghiệt, nghèo dinh dưỡng, đặc biệt trong đất, nó có khả năng
tạo bào tử. Những bào tử này là khá chịu nhiệt, lạnh, bức xạ, và các áp lực môi
trường khác. Dưới những điều kiện tốt, các bào tử nảy mầm trở thành tế bào vi
khuẩn.
B. licheniformis là nguồn nguyên liệu mà từ đó các Bacitracin kháng sinh
được sản xuất. Như một probiotic B. licheniformis được sử dụng để thực hện
các chức năng tương tự như trong Bacitracin để ngăn chặn sự tăng trưởng của vi
khuẩn có hại. Vi khuẩn tích cực này còn có tác dụng thúc đẩy chức năng miễn
dịch tốt hơn, và nó sản xuất ra protease, một enzym cần thiết cho sức khỏe


đường ruột thích hợp. Enzym protease sản xuất bởi B. licheniformis trực khuẩn
rất ổn định và hiệu quả, nó là một enzym cần thiết để phá vỡ đường thành các
hợp chất dơn giản. Bằng cách làm này vi khuẩn probiotic có thể dễ dàng hấp thu
và chuyển các chất dinh dưỡng vào người lính trong cuộc chiến tranh chống lại
sự phát triển của vi khuẩn xấu. Chính vì vậy mà người ta sử dụng nó để sản xuất
các enzym, kháng sinh và các chất chuyển hóa nhỏ trong công nghiệp.
Bacillus coagulans
Bacillus Coagulans là một loài vi khuẩn sinh axit lactic thuộc

chi Bacillus . Sinh vật lần đầu tiên được phân lập và mô tả như là coagulans
Bacillus vào năm 1915 bởi BW Hammer tại Trạm thí nghiệm nông nghiệp. Đến
năm 1935, vi khuẩn này được mô tả như Lactobacillus sporogenes trong ấn bản
thứ năm của hướng dẫn sử dụng của Bergey, nó thể hiện đặc điểm điển hình của
chi Lactobacillus, Bacillus
B. coagulans là vi khuẩn Gram dương , dạng que di động, kích thước
3.0μm tới 5.0μm), hình thành bào tử, có thể cử động dể dàng , tùy ý yếm khí .
Nhiệt độ phát triển tối ưu từ 35- 50 ° C, pH thích hợp từ 5.5-6.5.
Coagulans Bacillus đã được Cục Quản lý dược và Thực phẩn Hoa Kỳ,
Liên Minh Châu Âu phê duyệt cho các mục đích thú y. Nó được sử dụng như là
một vi sinh vật ăn trực tiếp trong sản xuất chăn nuôi, đặc biệt là một probiotic ở
lợn, gia súc, gia cầm và tôm, cá.
Bacillus coagulans sản sinh ra các axit lactic tạo môi trường pH cho
đường ruột và coagulans có khả năng ngăn ngừa sụ phát triển của các vi khuẩn
có hại gây thối rữa (Hyronimus và đồng sự, 1998). Ngoài ra Bacillus coagulans
cũng có khả năng sinh sản các men tiêu hóa như amylase và protease, có tác
dụng tăng cường miễn dịch, phòng trống lây nghiễm virus (Baron và đồng sự,
2009), phòng ngừa và phối hợp điều trị rối loạn tiêu hóa cấp và mãn tính ở trẻ
em (Mandel và đồng sự, 2010)
Các nghiên cứu từ trước tới nay chỉ ra rằng Bacillus coagulans là loài vi
khuẩ hiếu khí có khả năng tạo bào tử và sản sinh L(+) – (dextrorotatory) lactic
acid có lợi cho hệ tiêu hóa (Andres và đồng sự, 2009(. Dạng bào tử bền vững


trong môi trường acide của dạ dày và vì thế sẽ đi qua dạ dày một cách an toàn
đến ruột, nảy mầm thành vi khuẩn có lợi cho hệ tiêu hóa.
Bacillus indicus
Bào tử bền nhiệt với độ tinh khiết >95%. Là chủng lợi khuẩn sản sinh
lượng lớn carotenoids tạo nên màu vàng cam bao gồm lycopene, axtaxanthin,
beta-carotene, and lutein. Nhóm carotenoids có rất nhiều lợi ích về sức khỏe và

thẩm mỹ đối với con người, động vật và thủy sản. Carotenoids không bị phân
hủy ở dạ dày như hầu hết các caroten có nguồn gốc thực vật khác.
Là chủng lợi khuẩn có tác dụng chống oxy hóa hiệu quả nhất, giúp loại bỏ
các gốc tự do ở võng mạc nên giúp ngăn ngừa sự tấn công của chúng đối với đôi
mắt, giúp chống thoái hóa hoàng điểm, là nguyên nhân chính gây mù lòa. Tính
chất chống oxy hóa của carotenoids có thể giúp phòng chống ung thư. Đối với
con người, carotenoids làm cho làn da sáng, mịn màng và hồng hào.Đối với
động vật, carotenoids làm cho da hồng, lông mượt, đặc biệt với gia cầm cải thiện
chất lượng trứng và màu sắc lòng đỏ. Ngoài ra nó còn kích thích miễn dịch tự
nhiên, ổn đinh hệ vi sinh vật đường ruột, tăng cường chức năng tiêu hóa, hấp thu
thức ăn.


2.6. Hiệu quả sử dụng thức ăn chăn nuôi trong chăn nuôi gia cầm
Theo Chamber và cs (1984), hiệu quả sử dụng thức ăn (HQSDTA) được
định nghĩa là mức độ tiêu tốn thức ăn cho một đơn vị sản phẩm, Từ mức độ tiêu
tốn thức ăn (TTTA) người ta tính được chi phí thức ăn.
Chi phí thức ăn thường chiếm đến 70% giá thành sản phẩm của chăn nuôi.
Chính vì vậy, HQSDTA là một chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng, nó quyết
định đến giá thành chăn nuôi và là mối quan tâm lớn nhất của các nhà chăn nuôi.
Không những thế, đây còn là chỉ tiêu quan trọng trong công tác giống vật nuôi
nói chung và gia cầm nói riêng. Việc chọn lọc về tốc độ tăng trọng thường kèm
theo sự cải tiến HQSDTA. Theo Chamber và cs (1984) xác định hệ số tương
quan di truyền giữa khối lượng cơ thể và tốc độ tăng trọng với lượng thức ăn
tiêu thụ là rất cao (0,5 - 0,9) còn hệ số tương quan di truyền giữa tốc độ sinh
trưởng và HQSDTA có giá trị âm và biến động từ - 0,2 đến - 0,8.
Theo Phùng Đức Tiến (1996), gà broiler Ross 208 nuôi chung trống, mái
đến 63 ngày tuổi tiêu tốn là 2,29 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng. Nuôi riêng gà
trống tiêu tốn 2,19 kg và gà mái tiêu tốn 2,39 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng.
Như vậy, gà trống tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng thấp hơn gà mái, nghĩa là

gà trống có HQSDTA tốt hơn gà mái. HQSDTA phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khác nhau. Đoàn Xuân Trúc và cs (1999) cho biết TTTA cho 1 đơn vị sản phẩm
phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của từng dòng, giống gia cầm. Bùi Đức Lũng,
Lê Hồng Mận (1993) cho biết nuôi gà broiler đến 9 tuần tuổi tiêu tốn 2,39 - 2,41
kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng và
cs (1994), HQSDTA có liên quan chặt chẽ với tốc độ sinh trưởng của gà. Trong
cùng một chế độ dinh dưỡng, cùng một giống, tại một thời điểm, những lô gà có
tốc độ sinh trưởng cao hơn thì hiệu quả sử dụng thức ăn cũng tốt hơn.
Proudman và cs (1970), Pym và cs (1979), cho biết gà có tốc độ tăng
trọng cao thì hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn, bởi vì ở gà một phần năng lượng


cho duy trì, còn một phần cho tăng trọng. Cá thể nào có tốc độ tăng trọng nhanh
sẽ cần ít năng lượng cho duy trì hơn.
Hiệu quả sử dụng thức ăn không những phụ thuộc vào đặc điểm di truyền
của từng dòng, giống gia cầm mà nó còn phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng.
Nguyễn Thị Mai (2009) cho biết, các mức năng lượng khác nhau trong thức ăn
cũng ảnh hưởng đến HQSDTA với P<0,05. Tác giả cho biết cùng hàm lượng
protein, khi tăng mức năng lượng trong 1kg thức ăn từ 2900 đến 3200 kcal đã
làm tăng HQSDTA. Nói cách khác đã làm giảm tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng
khối lượng cơ thể gà broiler ở 7 tuần tuổi từ 2,41 xuống 2,15 kg.
Hàm lượng protein trong thức ăn cũng ảnh hưởng đến HQSDTA. Cùng
mức năng lượng, sử dụng hàm lượng protein là 25 - 23 và 21 % tương ứng với 3
giai đoạn nuôi thì hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn mức 23 - 21 và 19%
protein. Giảm tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng khối lượng cơ thể từ 2,4 xuống 2,21
kg, Sự khác nhau là có ý nghĩa nghĩa thống kê với P<0,05 (Nguyễn Thị Mai,
2009).
Nghiên cứu mối quan hệ giữa mức năng lượng và hàm lượng protein
trong khẩu phần với HQSDTA, Hopf (1973) cho biết khi tăng mức năng lượng
từ 2800 đến 3300 kcal, đồng thời tăng tương ứng hàm lượng protein từ 21,0 lên

24,8% cho gà broiler đã làm tăng HQSDTA , giảm tiêu tốn thức ăn cho 1 kg
tăng khối lượng cơ thể từ 2,0 xuống 1,7 kg, Summer (1974) cho biết cùng mức
năng lượng là 3050 kcal, sử dụng khẩu phần có 10 và 26% protein đã làm tiêu
tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng cơ thể từ 3,43 xuống 1,67 kg.
Nhìn chung, HQSDTA là chỉ tiêu có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả
trong chăn nuôi. Do vậy để nâng cao HQSDTA cần cho gia cầm ăn theo nhu cầu
và phù hợp với đặc điểm sinh lý ở mỗi giai đoạn khác nhau.
2.7. một số yếu tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của gia cầm
Sức đẻ trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, mỗi
yếu tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng ở mức độ nhất định. Một số yếu tố chính ảnh


×