Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

NGUYÊN NHÂN VIỆT NAM MẤT NƯỚC VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP (1802 - 1884)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.7 MB, 199 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐAI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------

NGUYỄN KIM TƯỜNG VY

NGUYÊN NHÂN VIỆT NAM MẤT
NƯỚC VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP
(1802 - 1884)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số 60 2254

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS .TS. NGUYỀN PHAN QUANG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2006


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
T
2
7
1

T
2
7
1


1. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................4
T
2
7
1

T
2
7
1

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài và nguồn tư liệu ..................................................................6
T
2
7
1

T
2
7
1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................13
T
2
7
1

T
2

7
1

4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................14
T
2
7
1

T
2
7
1

5. Đóng góp mới của luận văn .........................................................................................15
T
2
7
1

T
2
7
1

6. Cấu trúc luận văn .........................................................................................................16
T
2
7
1


T
2
7
1

CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX TIẾM ẨN NHỮNG NGUY CƠ MẤT NƯỚC ........................................................ 18
T
2
7
1

T
2
7
1

1.1. Xu hướng bành trướng thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và mưu đồ xâm chiếm
Việt Nam của Pháp. ..........................................................................................................18
T
2
7
1

T
2
7
1

1.2. Thực trạng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX và yêu cầu khách quan của lịch sử.

............................................................................................................................................20
T
2
7
1

T
2
7
1

1.3. Chính sách của nhà Nguyễn từ 1802 - 1858 ............................................................23
T
2
7
1

T
2
7
1

1.3.1. Chính trị - xã hội ...................................................................................................23
T
2
7
1

T
2

7
1

1.3.2. Kinh tế:..................................................................................................................28
T
2
7
1

T
2
7
1

1.3.3. Quân sự: ................................................................................................................36
T
2
7
1

T
2
7
1

1.3.4. Ngoại giao: ............................................................................................................39
T
2
7
1


T
2
7
1

CHƯƠNG 2: THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VIỆT NAM (1858 - 1884) & ĐỐI
SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN ................................................................................ 44
T
2
7
1

T
2
7
1

2.1. Quan hệ Việt Nam và Pháp trước 1858 và mưu đồ xâm lược Việt Nam của thực
dân Pháp. ...........................................................................................................................44
T
2
7
1

T
2
7
1


2.1.1. Quan hệ Việt Nam và Pháp từ cuối thế kỷ XVIII đến 1802 .................................44
T
2
7
1

T
2
7
1

2.1.2. Quan hệ Việt Nam và Pháp trong 40 năm đầu của thế kỷ XIX : ..........................45
T
2
7
1

T
2
7
1

2.1.3. Quan hệ Việt Nam và Pháp từ năm 1841 đến 1857 .............................................47
T
2
7
1

T
2

7
1

2.2. Pháp xâm lược Việt Nam (từ năm 1858 đến hòa ước 1862). .................................51
T
2
7
1

T
2
7
1

2.2.1. Tiến trình xâm lược từ Đà Nẵng đến Gia Định ....................................................52
T
2
7
1

T
2
7
1

2.2.2. Hiệp ước Nhâm Tuất (1862). ................................................................................56
T
2
7
1


T
2
7
1

2.3. Từ Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) đến Hiệp ước Giáp Tuất (1874). ........................60
T
2
7
1

T
2
7
1

2.3.1. Thực dân Pháp mở rộng xâm chiếm Việt Nam (từ 1862 đến 1873). ...................60
T
2
7
1

T
2
7
1

2.3.2.Hiệp ước Giáp Tuất (1874). ...................................................................................63
T

2
7
1

T
2
7
1

2.4. Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp. ...........................................................66
T
2
7
1

T
2
7
1

2.4.1. Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai (1883) ...................................................................66
T
2
7
1

T
2
7
1


2.4.2. Pháp tấn công cửa biển Thuận An. Các Hiệp ước Harmand (1883) và
T
2
7
1


Patenôtre(1884) ...............................................................................................................69
T
2
7
1

CHƯƠNG 3 : NGUYÊN NHÂN VIỆT NAM MẤT NƯỚC VÀO TAY THỰC
DÂN PHÁP (1858 - 1884) ......................................................................................... 73
T
2
7
1

T
2
7
1

3.1. Điểm lại một số nhận định. ......................................................................................73
T
2
7

1

T
2
7
1

3.2. Sai lầm trong quốc sách “trị nước” .........................................................................79
T
2
7
1

T
2
7
1

3.3. Sai lầm trong đường lối giữ nước .............................................................................88
T
2
7
1

T
2
7
1

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 93

T
2
7
1

T
2
7
1

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98
T
2
7
1

T
2
7
1

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 109
T
2
7
1

T
2
7

1


MỞ ĐẦU
1. Mục đích nghiên cứu
Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam có một truyền thống dựng nước và giữ nước
thật vẻ vang. Ngay từ buổi đầu dựng nước, trong suốt hơn một ngàn năm bị phương
Bắc đô hộ, người dân Việt đã thể hiện một ý chí quật cường mãnh liệt để thoát khỏi
mưu đồ đồng hóa của các đế chế người Trung Hoa. Sau chiến thắng Bạch Đằng (938)
của Ngô Quyền, quốc gia dân tộc Việt hồi sinh và tiếp tục phát triển. Những thế hệ
con cháu đã không hổ thẹn với tiền nhân, tiếp tục viết nên những trang sử vẻ vang
trong công cuộc giữ gìn, xây dựng và phát triển đất nước. Người Việt Nam có quyền
tự hào về lịch sử oai hùng của mình với những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong
quá khứ cũng như Điện Biên Phủ, Đại thắng mùa xuân 1975 ở thời hiện đại.
Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam cho đến thời Cận đại, trong quan hệ bang giao, tiếp
xúc, chúng ta chỉ biết đến một Trung Hoa hùng mạnh ỏ phương Bắc hay các lân quốc
phương Nam như Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm hoặc Lào ỏ phía Tây. Những cuộc
va chạm. tiếp xúc này đều mang tính chất địa phương, khu vực giữa người Á Châu
với nhau trong những điều kiên lịch sử xã hội có nhiều điểm tương đồng. Qua bao
thăng trầm của lịch sử, nhất là những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm cực kỳ gay
go, gian khổ, quốc gia Việt Nam xưa vẫn đứng vững và phái triển theo con đường
riêng của mình. để lại bao dấu ấn oai hùng trong khu vực.
Bước sang thế kỷ XIX, sau gần hai thế kỷ loạn lạc chiến tranh, Gia Long lên
ngôi vua lập ra triều Nguyễn. Trong quá trình khôi phục ngai vàng, vua nhà Nguyễn
đã nhờ đến sự trợ giúp của một thế lực hoàn toàn xa lạ với người Việt, đó chính là
nước Pháp. Sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Pháp đã có từ thế kỷ XVII nhưng vì sao
đến nửa sau thế kỷ XIX lại đi đến kết quả cuối cùng là Việt Nam mất nước vào tay
thực dân Pháp ?
Vì sao một quốc gia có truyền thống anh hùng, quật cường chống ngoại xâm với



một dân tộc thông minh can đảm như Việt Nam lại phải chịu cảnh nước mất nhà tan
phải đau xót chấp nhận ách thống trị của thực dân Pháp trong suốt gần một thế kỷ ?
Câu hỏi này được đặt ra bởi nỗi đau canh cánh trong lòng người dân Việt. Đã có
nhiều nhà sử học trong và ngoài nước với nhiều cách tiếp cận vấn đề khác nhau cố
công nghiên cứu để đi tìm lời giải đáp. Tuy nhiên, việc lý giải nguyên nhân Việt Nam
mất nước vào tay thực dân Pháp nửa cuối thế kỷ XIX cho đến nay vẫn là vấn đề thời
sự và còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Chỉ biết rằng, thời kỳ lịch sử đau thương
gian khổ nhưng tràn đầy khí phách anh hùng này của dân tộc Việt bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng đâu là nguyên nhân chính thì hình như
vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp thật thỏa đáng.
Thêm nữa. việc tìm hiểu vai trò của một vương triều như triều Nguyễn trong lịch
sử Việt Nam là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, đòi hỏi các nhà sử học phải tiếp tục
dày công nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài tôi mong muốn có cái nhìn tiệm cận lịch
sử hơn về vấn đề "Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp (18021884).
Không phải riêng nhà Nguyễn mà tất cả các vương triều trong lịch sử Việt Nam
đều phải chú trọng hai vấn đề dựng nước và giữ nước khi lên cầm quyền trị nước.
Tuy nhiên, khác với tất cả các triều đại trước đó trong lịch sử Việt Nam vương triều
Nguyễn được thành lập đầu thế kỷ XIX trong một bối cảnh xã hội hết sức phức tạp,
rối ren và đầy biến động. Sau một thời gian loạn lạc kéo dài hàng trăm năm, bước
sang thế kỷ XIX xu thế phát triển của xã hội Việt Nam đang có những chuyển biến
mới. Yêu cầu lịch sử đặt ra cho nhà Nguyễn không chỉ là khôi phục và phát triển kinh
tế - văn hóa mà còn là giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ quốc gia thống nhất, từng
bước củng cố tiềm lực quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại và đối phó với
nguy cơ ngoại xâm. Yêu cầu này càng trở nên cấp thiết cho các vua đầu của triều
Nguyễn như Gia Long (1802 - 1819), Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 1847), Tự Đức (1848 - 1883). Trước các yêu cầu trên của lịch sử, Nhà nước Nguyễn
trong nửa đầu thế kỷ XIX đã có những chính sách gì trong cả nội trị lẫn ngoại giao để
đáp ứng? Trong bối cảnh lịch sử Việt Nam bấy giờ, liệu có thể nào tránh được cuộc



xâm lược của thực dân Pháp? Và cuối cùng, Việt Nam có hay không hy vọng giữ
được chủ quyền dân tộc, nếu có đối sách thích hợp?
Là một giáo viên phổ thông, tôi rất quan tâm đến vấn đề tìm hiểu nguyên nhân
Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX cũng như vai trò của
vương triều Nguyễn với tư cách là thế lực cầm quyền trị nước trong sự kiện lịch sử
này. Những năm gần đây, trong không khí đổi mới và hội nhập, không ít nhà nghiên
cứu đặt lại vấn đề hoặc thay đổi trong cách nhận định, đánh giá về triều Nguyễn trong
nhiều lĩnh vực. Một giáo viên trung học, nếu không nắm vững kiến thức về vấn đề
mình đang giảng dạy, sẽ gặp không ít khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức, vì
học sinh ở cấp học này đã lớn, các em rất nhạy cảm và khá sắc bén trong nhận thức
lại cỏ điều kiện tiếp xúc với nguồn thông tin khổng lồ qua mạng Internet, nên thường
đặt nhiều câu hỏi không dễ trả lời nhất là những vấn đề liên quan đến vương triều
Nguyễn. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề trên không chỉ là nhu cầu cần
thiết đối với người viết mà còn phục vụ cho nhiệm vụ giảng dạy ở bậc phổ thông.
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích các tư liệu gốc của hai phía Việt - Pháp cũng
như kế thừa các thành quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi hy vọng có thể
góp phần làm sáng tỏ các vấn đề đã nêu.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài và nguồn tư liệu
Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam có vị trí đặc biệt vì nó tồn tai suốt
từ cuối thời trung đại sang hết thời cận đại - mội thời kỳ đầy sóng gió trong lịch sử
Việt Nam. Nhà Nguyễn là sản phẩm của hàng trăm năm lịch sử đầy thăng trầm, mở
đầu là vai trò của các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, phát triển cương vực vào phía
Nam từ thế kỷ XVI, sau đó là quá trình khôi phục ngai vàng gian nan vất vả, lập nên
vương triều Nguyễn, rồi cuối cùng là đánh mất tất cả những gì gầy dựng bao năm trời
sau khi để mất nước vào tay Pháp cuối thê kỷ XIX.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay
thực dân Pháp (1802— 1884)”, tôi có thuận lợi trong việc tiếp cận nhiều nguồn tài


liệu phong phú.

Nguồn tư liệu gốc mà chúng tôi dựa vào để nghiên cứu các vấn đề có liên quan
đến đề tài chủ yếu là các bộ sử do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn như Đại
Nam thực lục chính biên hay các bản châu phê của các vua Nguyễn, đặc biệt là Châu
bản thời Tự Đức (1848 - 1883).... , Đại Nam thực lục chính biên là bộ sử lớn về triều
đại nhà Nguyễn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Phần ghi chép về thời kỳ
nhà Nguyễn khôi phục vương triều đến giai đoạn mất nước (1802 - 1884) thuộc các
tập từ tập II đến tập XXXVII, được chia làm 4 kỷ theo 4 triều vua: đệ nhất kỷ (Gia
Long), đệ nhị kỷ (Minh Mệnh), đệ tam kỷ (Thiệu Trị), đệ tứ kỷ (Tự Đức). Do giới
hạn đề tài trong khoảng thời gian từ 1802 – 1884, nên trong quá trình tìm hiểu quốc
sách trị nước của các vua triều Nguyễn, người viếi phải quan tâm đến các vấn đề kinh
tế, chính trị. xã hội, ngoại giao... của các triều đại từ Gia Long đến Tự Đức. Với lối
viết sử biên niên, ghi chép đầy đủ các sự kiện, chiếu chỉ, sắc dụ, bộ sách này đã cung
cấp tương đối đầy đủ về các vấn đề mà người viết quan tâm.
Nguồn lư liệu quan trọng để biên soạn Đại Nam thực lục chính biên chính là các
châu bản của triều Nguyền do Nội các lưu giữ, gồm bản chính của các loại giấy tờ,
công văn, chỉ, dụ, tập tấu của các bộ gửi đi địa phương và từ các địa phương gửi về
triền đình..., đã được vua "ngự lãm" và "ngự phê" bằng bút son nên đảm bảo tính
đương thời và chân xác của sử liệu. Vua Minh Mạng đã cho xây nhà Đông các (1826)
để lưu giữ các văn thư trên. Đến triều Tự Đức, châu bản phần lớn được giao cho
Quốc sử quán giữ gìn để biên soạn các bộ sử như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt
truyện, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ... Tiếc rằng do
điều kiện chiến tranh, loạn lạc... , các châu bản thời Gia Long đến Thiệu Trị đã bị thất
lạc, hư hỏng rất nhiều, chỉ còn khoảng một phần năm so với trước, chủ yếu là các
châu bản thời Tự Đức (chiếm 352 tập trong tổng số 611 tập). Năm 1978, thành phố
Hồ Chí Minh đã thành lập một nhóm biên soạn gồm Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh
và Tạ Quang Phát, tiến hành tuyển chọn và biên soạn nội dung mội số châu bản có
giá trị viết bằng chữ Nôm và chữ Hán dưới triều Tự Đức nhằm phục vụ kịp thời cho
các chuyên đề nghiên cứu liên quan. Tập châu bản tuyển chọn này được Trung tâm



nghiên cứu Quốc học Huế xuất bản năm 2003, giúp người nghiên cứu có điều kiện
tiếp xúc với nguồn tư liệu gốc, có tính chuẩn xác cao về các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, quân sự, ngoại giao... của Việt Nam có liên quan đến thời kỳ mất nước.
Bên cạnh đó, từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, xuất hiện nhiều công trình chuyên
khảo đề cập đến vấn đề thực trạng xã hội và nguyên nhân Việt Nam mất nước vào
nửa sau thế kỷ XIX. tiêu biểu là:
Nhà sử học Trần Văn Giàu đã dày công nghiên cứu về thực trạng xã hội Việt
Nam thời Nguyễn, qua đó đề cập đến nguyên nhân mất nước với các tác phẩm:
Chống xâm lăng: Lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1898 (1956), nhà xuất bản Xây Dựng,
Hà Nội; Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1858: Sơ khảo,
nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội. 1958; Lịch sử cận đại Việt Nam (1959), tập I, nhà
xuất bản Giáo Dục, Hà Nội; Lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1898: Sự phát triển của tự
tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, Tập I: Hệ ý thức phong
kiến và sự thất bại cửa nó trước các nhiệm vụ lịch sử (1973), nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội... . Các tác phẩm trên cung cấp cho người nghiên cứu nguồn tài liệu
phong phú cũng như nhiều ý kiến xung quanh các vấn đề liên quan đến nhà Nguyễn,
từ các chính sách cai trị nước đến " một phần của loại nguyên nhân bên trong làm cho
đất nước chúng ta bị sứt mẻ một cách nghiêm trọng" vào nửa sau thế kỷ XIX. Đặc
biệt, trong Tạp chí Xưa và Nay (2003), từ số 148 đến 151, giáo sư Trần Văn Giàu đã
viết một loạt bài tiêu đề: “Luận về những nguyên nhân Viêt Nam mất nước vào tay
Pháp”. Trong bài viết, giáo sư đưa ra 10 kiến giải về những nguyên nhân khiến Việt
Nam mất nước về tay Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Đây là những ý kiến quý háu để
người viết tham khảo khi thực hiện đề tài.
Năm 1967, Nhà xuất bản Trình Bầy phát hành tác phẩm “Kỷ niệm 100 năm
ngày Pháp chiếm Nam Kỳ” nhằm tìm hiểu truyền thống dân tộc đồng thời soi sáng
cho hậu thế về nguyên nhân của thảm họa mất nước trong lịch sử Việt Nam Cận đại.
Trong tác phẩm, các tác giả như Nguyễn Khắc Ngữ lý giải những lý do khiến Pháp
can thiệp vào Việt Nam, Trần Trọng Phủ nghiền ngẫm về một giai đoạn mất nước của
Việt Nam, Lý Chánh Trung lại bày tỏ những suy nghĩ về hai chữ “mất nước”... Dù ý



kiến của các tác giả vẫn cần thêm những kiến giải khoa học nhưng cũng để lại cho
người đi sau nhiều suy nghĩ về cách tiếp cận và lý giải vấn đề.
Năm 1970, tác giả Trần Nguyên Khôi trình luận án tốt nghiệp Cao học lịch sử
tại Sài Gòn với đề tài Thực trạng xã hội Việt Nam dưới triều Tự Đức (1847 - 1883).
Trong luận án, khi tìm hiểu về giai đoạn mất nước trong lịch sử Việt Nam, Trần
Nguyên Khôi đề cập đến nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội. ngoại giao... dưới
thời Tự Đức. Tác giả cho rằng, dưới triều Tự Đức vua quan và các sĩ phu đã không
chịu làm cuộc cách mạng để đổi mới đất nước theo lối mới nên đất nước phải chịu
cảnh lạc hậu, yếu hèn, phải chấp nhận thất bại trước sức mạnh của kỹ nghệ phương
Tây. Hay nói cách khác sự trì trệ của chế đô phong kiến Việt Nam thời Nguyễn, nhất
là dưới triều Tự Đức, đã khiến tiềm lực quốc gia dân tộc suy yếu, không thể chống cự
với nền văn minh phương Tây hùng mạnh được sự hỗ trự của một nền khoa học kỹ
thuật tiên tiến. Lý giải của tác giả xét về nhiều khía cạnh cũng rất có lý và đáng để
suy ngẫm.
Ngoài ra, người viết còn được tiếp xúc và kế thừa nhiều tác phẩm của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài như Bùi Ọuang Tung (1958) với Nước
Việt Nam trên con đường suy vong (1858 - 1884). Văn hoá Á châu số ngày
03.06.Ỉ958 Paul Isoart (1961) và cuốn Hiện tượng dân tộc Việt Nam "từ nền độc lập
thống nhất đến nền độc lập bị chia cắt ". Paris: Phạm Vãn Sơn (1961 - 1962) với Việt
sử tân biên, Quyển IV: Việt Nam kháng Pháp sử, Sài Gòn: Nguyễn Thế Anh (1971)
với tác phẩm Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, nhà xuất bản
Lửa Thiêng, Sài Gòn: Phan Khoang (1971 ), Việt Nam Pháp thuộc sử (1862 - 1945),
Sài Gòn.... Qua các tác phẩm trên, người viết có điều kiện xem xét các vấn đề liên
quan đến đề tài từ nhiều khía cạnh, nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Trong điều kiện đất nước đổi mới, mối quan hệ giao lưu và hợp tác mở rộng, tôi
còn có điều kiện tiếp cận với rất nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và
ngoài nước có liên quan đến đề tài.
Năm 1990, nhà xuất bản Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tác



phẩm “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa” của giáo sư người Nhật
Yoshiharu Tsuboi. Với nguồn sử liệu phong phú ở Đông Kinh (Nhật Bản). Aix-enProvence (Pháp)..., tác giả đề cập đến một giai đoạn suy đốn trong lịch sử cận đại
Việt Nam, đặc biệt dưới triều vua Tự Đức. Thông qua mối quan hệ giữa Việt Nam
với Pháp và Trung Hoa thời cận đại cũng như tình hình xã hội Việt Nam bấy giờ dù
không trực tiếp, .nhưng tác giả cũng lý giải phần nào nguyên nhân Việt Nam mất
nước vào nửa sau thế kỷ XIX.
Năm 1997, một đề tài khoa học cấp nhà nước nghiên cứu về triều Nguyễn được
các tác giá Đỗ Bang, Nguyễn Danh Phiệt, Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân xuất
bản là Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn mai đoạn 1802 – 1884, khẳng định
mối quan tâm của giới nghiên cứu xung quanh các vấn đề nghiên cứu về nhà Nguyễn.
Trong tác phẩm, các tác giả đưa ra nhiều kiến giải về tình hình xã hội không ổn định
dưới triều Nguyễn, mở ra một hướng mới cho người nghiên cứu về thực trạng xã hội
Việt Nam thời kỳ này.
Qua các tác phẩm, có thể nhận thấy, trước đây có hai luồng ý kiến trái ngược
nhau trong việc nhận định vai trò của vương triều Nguyễn trong lịch sử:
- Thứ nhất, hết lời phê phán, xem triều Nguyễn là triều đại phản động, đi ngược
quy luật phát triển của lịch sử, dựa vào ngoại bang để tiêu diệt nhà Tây Sơn “cõng rắn
cắn gà nhà”, rồi sau đó trong quá trình chống Pháp lại “sợ dân hơn sợ giặc”, bán rẻ
đất nước cho Pháp để bảo toàn quyền lợi ngai vàng và dòng họ... Từ quan điểm có
nhiều định kiến này, các tác giả có phần thiên về khai thác những mặt tiêu cực, hạ
thấp hoặc phủ nhận những mặt tích cực của vương triều Nguyễn trong lịch sử.
- Thứ hai, cố gắng biện minh cho hành động cầu viện của Nguyễn Ánh, xem đấy
là “biện pháp tình thế” chẳng đặng đừng. Hơn thế nữa. các tác giả theo quan điểm
này có xu hướng khen ngợi nhà Nguyễn trong việc thực hiện các chính sách trị nước
tích cực trên nhiều phương diện, có tác dụng thực tiễn đối với tình hình Việt Nam
thời bấy giờ; hoặc khen vua Gia Long sáng suốt, vua Minh Mạng anh minh, vua Tự
Đức hiếu thảo...và cho rằng việc Việt Nam mất nước là "quy luật tất yếu của lịch sử"



chứ không phải do lỗi của triều Nguyễn.
Trong những năm gần đây, do tác động của nhiều yếu tố, một số nhà nghiên cứu
trước đây từng nặng lời phê phán triều Nguyễn nay đã thay đổi quan niệm nhận thức,
chuyển sang phê phán hoặc khen ngợi có cân nhắc trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn
tư liệu phong phú, hoặc đề cao quá mức những thành tựu của vương triều Nguyễn
theo trào lưu chung.
Bên cạnh các luồng ý kiến trên còn xuất hiện luồng ý kiến thứ ba dựa trên những
tư liệu lịch sử mới đáng tin cậy, đã cho thấy những quan điểm mới xung quanh việc
đánh giá, nhìn nhận về vương triều Nguyễn. Các tác giả trên, do nhiều điều kiện khác
nhau, đã tiếp xúc được nhiều nguồn tài liệu mới, đáng tin cậy từ các kho lưu trữ ở
Việt Nam và Pháp, cung cấp cho người nghiên cứu nguồn sử liệu phong phú. Do
quan điểm lịch sử khác nhau. mỗi tác giá có cách nhận định, lý giải khác nhau về các
sự kiện lịch sử", nhưng nguồn tài liệu do họ cung cấp là hết sức quý giá và đáng tin
cậy. Đáng kể là:
- Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ và tác phẩm Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thông
thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858 - 1897) do chính tác giả dịch từ nguyên bản Les
débuts de 1'installation du système colonial franscais au Viet Nam (1858 -1897). Tác
giả Nguyễn Xuân Thọ là tiến sĩ văn chương đại học Sorbonne, Paris, là cựu viên chức
ngành ngoại giao, từng làm việc trong các cơ quan trung ương của Bộ ngoại giao
Pháp (Quai d' Orsay, Paris), tại Tòa đại sứ quán Pháp ỏ Tây Ban Nha. ở Madrid... Do
điều kiện sinh sống và làm việc, tác giả có điều kiện tiếp xúc với nguồn tư liệu khổng
lồ và quý giá, trong đó có nhiều tư liệu quý chưa từng được công bố khai thác từ kho
tư liệu của Bộ ngoại giao Pháp, Bộ Ngoại Vụ Tây Ban Nha, các Bộ Hải Quân, Bộ
Thuộc Địa Pháp cũng như các sử liệu hiếm hoi về Việt Nam mà người Pháp đang lưu
trữ rải rác khắp các kho lưu trữ trên đất Pháp. Từ nguồn tài liệu trên, năm 1956, tác
giả đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Sorbonne với đề tài “Cuộc viễn chinh Pháp Tây Ban Nha tại Nam bộ Việt Nam năm 1858 - 1862”và được xếp hạng “Tối ưu”
(Très Honorable). Sau đó, tác giả tiếp tục dày công nghiên cứu để dựng lại giai đoạn
lịch sử bi tráng của Việt Nam từ 1858 - 1897. Từ tác phẩm này, qua các sử liệu quý,



tác giả đã giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa Pháp và Việt Nam ở
thế kỷ XIX, cũng như hiểu rõ hơn về tấn thảm kịch đã xảy ra trên mảnh đất quê
hương trên cả hai bình diện chính trị và tôn giáo.
- Giáo sư Nguyễn Phan Quang với tác phẩm Việt Nam thế kỷ XIX (1802 -1884),
nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2002. Vì có điều kiện tiếp xúc với
nguồn tư liệu gốc trong các kho lưu trữ ở Paris, Aix-en-Provence..., kết hợp với
nguồn tư liệu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh), tác giả đã
cung cấp cho người nghiên cứu một nguồn tài liệu phong phú và bổ ích. Bên cạnh
việc nghiên cứu sử liệu gốc, để thực hiện tác phẩm, tác giả còn dành nhiều năm thu
thập các nguồn tư liệu thư tịch và các tư liệu điền dã khắp từ bắc đến nam. Nhờ đó,
tác giả đã có những bổ sung, đính chính quan trọng từ các nguồn tư liệu địa phương.
Qua tác phẩm, tác giả đã có ý thức để các sử liệu “tự lên tiếng”, tránh đưa ra các nhận
định áp đặt. Vì thế, người nghiên cứu có thể tiếp cận các nguồn sử liệu phong phú của
tác phẩm để có cái nhìn tiệm cận hơn về các vấn đề lịch sử xã hội Việl Nan) nửa cuối
thê kỷ XIX..
- Năm 2001, tác giả Thái Hồn Sĩ đã đạt giải thưởng Trần Văn Giàu với công
trình nghiên cứu Nguyễn Tri Phương (1800 - 1873), tác phẩm được nhà xuất bản Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cùng năm. Sau 10 năm dày công
nghiên cứu nhiều tài liệu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến cuộc
đời và sự nghiệp Nguyễn Tri Phương, đặc biệt là các báo cáo phúc trình và thư từ của
các viên tướng Pháp trực tiếp điều khiển cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lúc bấy
giờ, tác phẩm có thể giúp người nghiên cứu hiểu rõ thêm về Nguyễn Tri Phương nói
riêng và triều Nguyễn nói chung trong giai đoạn lịch sử có liên quan đến đề tài.
Năm 2003, Nhà xuất bản Tôn giáo (Hà Nội) xuất bán tác phẩm: “Giáo sĩ thừa
sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam ( 1857-1914)”của tác giả Cao Huy
Thuần. Tác phẩm là một luận án tiến sĩ quốc gia đệ trình trước Đại học Paris năm
1969 (Christianisme et colonialisme au Vict Nam, 1857- 1914). Trước đây tác phẩm
đã được dịch và phổ biến ở Việt Nam và Hoa Kỳ nhưng bản dịch còn nhiều sai sót,
ngoài tầm hay biết của tác giả. Được sự bảo trợ của Đại học Yale, năm 1990, tác giả



xuất bản tác phẩm nguyên văn bằng tiếng Pháp với nhan đề “Les missionnaires et la
politique coloniale francaise au Viet Nam, 1857- 1914”. Năm 1999, Nguyên Thuận
đã dịch tác phẩm trên sang tiếng Việt và nhà xuất bản Tôn giáo đã cho phát hành tác
phẩm vào năm 2003. Dù ra đời cách nay hơn 30 năm nhưng tác phẩm vẫn mang tính
thời sự vì chứa đựng trong nó một kho tàng tài liệu lịch sử phong phú. nhất là trong
việc nghiên cứu lịch sử mất chủ quyền của Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX..
- Cũng trong năm 2003, Viện Khoa học xã hội Việt Nam xuất bản tác phẩm
Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1897, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là
một tác phẩm nghiên cứu chi tiết về lịch sử Việt Nam trong quá trình mất nước vào
tay thực dân Pháp. Trong tập sách, các tác giá đã cố gắng khai thác các nguồn tư liệu
mới đồng thời đưa ra những nhận định mới về cuộc đụng độ đầu tiên giữa Việt Nam
với một kẻ thù phương Tây, nhằm góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn
từ 1859 đến 1896.
Vấn đề “Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp (1802 1884)” là một khía cạnh hẹp, chuyên sâu vào một lĩnh vực cụ thể nhưng chứa đựng
nhiều nội dung đan xen phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu phải hết sức thận trọng
trong việc tìm hiểu các mối dây liên hệ giữa các sự kiện lịch sử để làm sáng tỏ vấn
đề. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của những người đi trước và tiếp xúc
với các tư liệu gốc của phía Việt Nam cũng như các tư liệu mới đáng tin cậy trong
kho lưu trữ của Pháp, hy vọng bản luận văn sẽ góp phần hệ thống các nguồn tư liệu
phong phú, giúp người nghiên cứu nhìn nhận một cách tương đối khách quan về đề
tài, làm cơ sở cho việc đi sâu nghiên cứu vấn đề trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp (1802 -1884)”
là lĩnh vực nhỏ, chuyên biệt trong việc nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn. Bản thân vấn
đề đã tạo sự giới hạn nhất định cho đề tài, do mốc thời gian 1802 đánh dấu thời kỳ
Vương triều Nguyễn chính thức thành lập và cai trị trên toàn cõi Việi Nam, đến năm
1884, khi triều Nguyễn kết thúc thời kỳ thống trị nhà nước độc lập, tự chủ. phải chấp



nhận sự "bảo hộ" của Pháp. Thông qua mốc giới hạn thời gian này, người viết muốn
xem xét vấn đề trong bối cảnh vương triều Nguyền thực sự nắm quyền trên toàn lãnh
thổ Việt Nam và có điều kiện thực hiện ý định chủ quan của họ trên nhiều lĩnh vực
nhằm đối phó với các thách thức của thời đại ở nửa sau thế kỷ XIX..
Luận văn chủ yếu tập trung giải quyết các nội dung chính!
1. Bối cảnh thế giới và khu vực nửa sau thế kỷ XIX trong xu hướng bành trướng
của chủ nghĩa thực dân. Chủ thể nghiên cứu là vương triều Nguyễn với các chính
sách nhằm củng cố và phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử có
nhiều biến đổi với những nguy cơ mất nước đang tiềm ẩn.
2. Tiến trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Thông qua tổng hòa những mối
quan hệ giữa các sự kiện lịch sử, các chính sách của vương triều Nguyễn, các mối
quan hệ Việt Nam - Pháp, các hiệp ước được ký kết từ khi Pháp xâm lược Việt Nam
đến khi Việl Nam mất nước vào tay thực dân Pháp để làm sáng tỏ vấn đề.
3. Thử lý giải nguyên nhân Việt Nam mất nước cuối thế kỷ XIX trên cơ sở
nghiên cứu và phân tích các tư liệu gốc của hai phía Việt - Pháp cũng như kế thừa các
thành quả nghiên cứu của người đi trước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tôi
sử dụng hai phương pháp cơ bản trong nghiên cứu lịch sử là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic, đồng thời vận dụng phương pháp liên ngành, nhằm phối hợp kiến
thức của các ngành khoa học có liên quan đến đề tài như triết học, quân sự, kinh tế,
xã hội...
Từ nguồn tư liệu có liên quan, chúng tôi xác định đề tài theo quan niệm tư liệu
quyết định nội dung nghiên cứu, thực trạng tư liệu đã quy định trực tiếp cách hình
thành bố cục và các lập luận. Chủ đề chính của luận văn là thông qua thực
trạng xã hội Việt Nam trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực nhằm tìm


hiểu nguyên nhân mất nước cuối thế kỷ XIX.
Trong tiến trình khai thác và xử lý tư liệu, chúng tôi vận dụng phương pháp

nghiên cứu lịch sử tiếp cận hệ thống : Đặt triều Nguyễn trong bối cảnh lịch sử thế kỷ
XIX để nghiên cứu. Nhà Nguyễn thiết lập vương triều trong bối cánh tình hình thế
giới và khu vực có nhiều biến động. Đây là thế kỷ chủ nghĩa thực dân bành trướng
khắp thê giới theo quy luật phát triển của chủ nghĩa đế quốc, các quốc gia trong khu
vực đều đứng trước nguy cơ mất nước. Hơn thế nữa, trong quá trình khôi phục ngai
vàng, họ Nguyễn đã có sự tiếp xúc để lại nhiều hệ lụy phức tạp với người Pháp. Vì
thế, khi nghiên cứu vấn đề, không thể không xem xét chủ thể vương triều Nguyễn
trong bối cảnh lịch sử cụ thể của khu vực châu Á và Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX và
việc thực thi “quốc sách” cai trị nhằm đối đầu với các thách thức của thời đại.
Để xác định nguyên nhân mất nước, bên cạnh phương pháp lịch sử, chúng tôi sử
dụng phương pháp logic, là phương pháp xem xét vấn đề theo quan điểm vận động.
phát triển theo quy luật nội tại của nó, trong mối liên hệ phổ biến với các vấn đề khác
nhằm làm sáng tỏ vấn đề muốn nghiên cứu. Thông qua các chính sách đối

nội và

đối ngoại của vương triều Nguyễn từ 1802 đến 1884, xác định xem trong hoàn cảnh
lịch sử cụ thể bấy giờ, việc mất nước phải chăng là hậu quả của một quá trình cai trị
với các chính sách chưa phù hợp với yêu cầu lịch sử hay do nguyên nhân nào khác.
Tuy nhiên, giữa mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu và năng lực thực tế của cá
nhân tôi còn có một khoảng cách không nhỏ, đề tài nghiên cứu của tôi chắc chắn sẽ
tồn tại không ít sai sót. kính mong quý Thầy cô và các bạn đồng học góp ý xây dựng.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Tập hợp sử liệu có giá trị để nghiên cứu một cách hệ thống về thực trạng và
nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay Pháp (1802 - 1884), một đề tài đến nay vẫn
là vấn đề thời sự của các nhà nghiên cứu sử học.
- Khai thác, phân tích các sử liệu gốc cũng như kế thừa những thành quả của
người đi trước, luận văn cố gắng tiệm cận với chân lý lịch sử và có những nhận định



khách quan hơn về nội dung đề tài.
- Trong quá trình thực hiện đề tài, với nhiều cách tiếp cận tài liệu khác nhau, đặc
hiệt là những nguồn tư liêu mới của các học giả trong và ngoài nước, luận văn đã làm
phong phú thêm về mặt tư liệu, tranh ảnh, bản đồ liên quan đến đề tài, từ đó có những
kiến giải tiệm cận hơn với chân lý lịch sử về nguyên nhân Việt Nam mất nước vào
tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, 3 chương nội dung, phần kết luận, tài liệu tham
khảo và phụ lục.
MỞ ĐẦU gồm :
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài và nguồn tư liệu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp mới của luận văn.
6. Cấu trúc luận vãn
NỘI DUNG : gồm ba chương
- Chương 1: Thực trạng xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX – tiềm ẩn những
nguy cơ mất nước
Trong chương này, tác giả luận văn chủ yếu đề cập đến bối cảnh lịch sử - xã hội
Việt Nam ở thế kỷ XIX cùng những thách thức của lịch sử. Thông qua việc phác họa
“quốc sách” trị nước của triều Nguyễn, tìm hiểu xem với những chính sách đối nội
đối ngoai của mình. Nhà nước Nguyễn đã đáp ứng như thế nào trước nguy cơ mất


nước nhằm củng cố và phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc, qua đó có thể bảo vệ
vững chắc an ninh quốc phòng của tổ quốc.
- Chương 2: Thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam (1858 - 1884)
Nội dung chính của chương này đề cập đến giai đoạn lịch sử mất nước của Việt
Nam. Thông qua thái độ và biện pháp đối phó với ngoại xâm của triều Nguyễn để lý

giải nguyên nhân mất nước cũng như trách nhiệm của vương triều Nguyễn với tư cách thế lực cầm quyền trị nước - trong việc để mất chủ quyền dân tộc vào tay
Pháp.
- Chương 3: Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay Pháp.
Đây là chương trọng tâm của đề tài. Một mặt tác giả điểm lại những nhận định,
kiến giải của những người đi trước có liên quan đến đề tài, mặt khác, trên cơ sở các
sử liệu khoa học đã nêu, trình bày những nhận định chủ quan của riêng mình trong
việc giải quyết đề tài. Hy vọng bản Luận văn của tôi trên cơ sở kế thừa các thành tựu
nghiên cứu trước đây và cập nhật một số tư liệu mới, có thể đóng góp thêm một số
nhận định mới xung quanh việc giải quyết đề tài.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1. Các hiệp ước 1789, 1862, 1874. 1883, 1884
2. Bản đồ và tranh ảnh minh họa


CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ
KỶ XIX - TIẾM ẨN NHỮNG NGUY CƠ MẤT NƯỚC

1.1. Xu hướng bành trướng thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và mưu đồ xâm
chiếm Việt Nam của Pháp.
Vào đầu thế kỷ XVI, đa số các nước tư bản phương Tây trên bước đường phát
triển mạnh từ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhu cầu
về thị trường, thuộc địa và cơ sở thương mại tăng cao, đều đẩy mạnh các cuộc chiến
tranh xâm lược khắp nơi trên thế giới, trong đó vùng châu Á đông dân nhiều của
không thể là một ngoai lệ. Trong trào lưu mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân từ Tây
sang Đông, đa số các nước châu Á lúc này đang chìm đắm trong quan hệ sản xuất
phong kiến lỗi thời, không muốn mở cửa bang giao với phương Tây. Chính sách “bế
quan tỏa cảng”, từ chối thông thương và “cấm đạo”của đa số các nước châu Á không
thể làm các nước châu Âu thỏa mãn tham vọng mở rộng thị trường. Đây chính là

nguyên cớ của nhiều cuộc chiến tranh xâm lược mà thực dân phương Tây tiến hành ở
châu Á. Trong cuộc chiến này, không ít các nước trong khu vực, kể cả các quốc gia
lớn mạnh có nền văn minh văn hóa cao như Ấn Độ, Trung Hoa...đã lần lượt gánh
chịu thất bại, trở thành thuộc địa của các nước đế quốc trong những chừng mực khác
nhau. Tuy nhiên, trước xu thế bành trướng của chủ nghĩa thực dân-đế quốc vẫn có
một vài nước không những thoát khỏi số phận bị lệ thuộc mà còn phái triển mạnh về
mọi mặt, trở thành một cường quốc thế giới, như hiện tượng Nhật Bản. Điều này
chứng tỏ rằng, việc một nước có bị rơi vào vòng lệ thuộc hay không là do nhiều
nguyên nhân khác nhau trong những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể, do các tác
động qua lại giữa từng nước với khu vực và thế giới.
Giữa lúc tình hình quốc tế và khu vực có nhiều chuyển biến thì Việt Nam, một
quốc gia có tiềm năng kinh tế và vị trí địa lý chiến lược quan trọng không thể tránh
khỏi bị phương Tây dòm ngó. Nhà cầm quyền Việt Nam bấy giờ đã có biện pháp gì
để đối phó với tình thế nguy hiểm này, nhất là khi họ đã sớm biết sức mạnh của các


quốc gia phương Tây thông qua nước Pháp?
Sau cách mạng Pháp 1789 – 1794, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp phát
triển nhanh chóng cùng với việc xác lập chế độ tư bản. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ
XIX. nước Pháp vươn lên vị trí thứ hai thế giwois về kinh tế (sau Anh). Sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa kéo theo nhu cầu gia tăng về thuộc địa
cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa. Từ xu hướng bành trướng
thương mại và kinh tế đến cuộc xâm lược và đô hộ về chính trị không xa. Trước xu
thế này, vùng đất phương Đông huyền ảo giàu có vàng bạc, ngọc ngà, tơ lụa, hương
liệu... có sức cuốn hút mạnh mẽ, trở thành mục tiêu chinh phục quan trọng của các
nước đế quốc (Anh. Pháp, Tây Ban Nha. Hà Lan). Trong cuộc chạy đua đến phương
Đông, Anh là nước đi đầu, có thế lực và ảnh hưởng mạnh ở châu Ả. còn Pháp cu ne
không hề muốn cố vị thế quá kém ở khu vực này.
Sang nửa đầu thế kỷ XIX, nước Pháp đang từng bước phát triển sang chủ nghĩa
tư bản độc quyền, nhưng sức mạnh kinh tế của Pháp trong hệ thống các nước tư bản

chủ nghĩa đã tụt xuống hàng thứ tư. Chính vì vậy, nhu cầu tìm kiếm thuộc địa, mở
rộng thị trường và phát triển các cơ sở thương mại của Pháp ngày một tăng cao. Lúc
này Pháp đã có một số thuộc địa ở Bắc Phi nhưng đa số là đất xấu. dân ít và đói khổ,
không phải là thị trường hứa hẹn nhiều tiềm năng.
Sau chiến tranh Crimé, ảnh hưởng của Pháp đã rộng hơn ở Trung Đông và
Balkans nhưng Pháp vẫn gặp nhiều khó khăn với người Thổ Nhĩ Kỳ. Syriè và Lyban
cũng nổi lên chống Pháp. Vì vậy, Pháp phải hướng về châu Á và Thái Bình Dương,
Việt Nam. với người Pháp, vừa là một thị trường hứa hẹn vừa giúp Pháp mở đường
thông thương sang Hoa Nam (Trung Quốc), Lào, Campuchia và Thái Lan. Trong
cuộc chạy đua với các thế lực tư bản phương Tây, thực dân Pháp cuối cùng đã bám
sâu vào Việt Nam. thông qua các quan hệ cũ và đặc biệt là các hoạt động của Hội
truyền giáo nước ngoài của Pháp. Âm mưu xâm lược của Pháp đối với nước ta đã có
từ lâu. Hòa ước Versailles (1787) đã tạo cớ cho nước Pháp dòm ngó Việt Nam. Trong
âm mưu này, người ta thấy có sự can dự của các thương nhân và giáo sĩ thừa sai. Các
giáo sĩ thừa sai Pháp hoạt động ở Việt Nam trong giai đoạn này đã từng bước thiết


lập những cơ sở thuận tiện cho bước chân xâm lược của thực dân Pháp sau này.
Đến giữa thế kỷ XIX. khi có đủ điều kiện thuận lợi, người Pháp bắt đầu chú ý
đến Việt Nam, vùng đất có vị trí chiến lược về thương mại và thị trường ở khu vực
Đông Nam Á. Chiếm Việt Nam, Pháp có thể tìm đường sang Hoa Nam, Lào, Cao
Miên, Thái Lan.... đồng thời có thể dùng nơi đây làm trạm trung chuyển của tàu
thuyền từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Nguy cơ bị phương Tây xâm lược là có thực
nhưng có nhất thiết là có nguy cơ thì ắt sẽ bị xâm lược và cứ bị xâm lược ắt sẽ trở
thành thuộc địa? Từ nguy cơ đến hiện thực không phải là một khoảng cách ngắn,
khoảng cách này có bị thu hẹp hay không phụ thuộc vào tiềm lực kháng cự của mỗi
dân tộc. Tiềm lực này có hiệu quả hay không phải xem xét đến đường lối trị nước của
các lực lượng thống trị của mỗi nước? Thực tế lịch sử đã chứng minh, một số nước
châu Á như Nhật Bản hay Xiêm cũng đứng trước nguy cơ bị xâm lược như Việt Nam
nhưng với những đối sách thích hợp họ đã từng bước thoát khỏi số phận thuộc địa,

thậm chí còn trở thành một quốc gia hùng mạnh như trường hợp Nhật Bản. Riêng
tình hình Việt Nam đầu thế kỷ XIX ra sao ?
1.2. Thực trạng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX và yêu cầu khách quan của lịch
sử.
Cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, các nước thực dân phương Tây đã bắt đầu
quan tâm đến việc xâchiếm và thiết lập thuộc địa ở phương Đông, trong đó Bồ Đào
Nha là nước đi tiên phong. Tuy nhiên, những bước đi của người Bồ Đào Nha khá
thận trọng do gặp phải sự phản kháng quyết liệt của người địa phương cũng như sự
cạnh tranh gay gắt của các cường quốc khác. Vì thế, cuộc xâm chiếm của phương
Tây ở phương Đông lúc này mang tính thăm dò vì mục tiêu thương mại là chính, nên
các nước trong khu vực vẫn chưa ý thức được hiểm nguy đang rình rập.
Sang thê kỷ XVIII, sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy
cuộc chạy đua tranh giành thị trường, thuộc địa. Trong cuộc chạy đua tìm kiếm thuộc
địa ở châu Á, người Anh và người Pháp dần dần xác lập vị trí hàng đầu, loại bỏ các
đối thủ kỳ cựu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan ra khỏi cuộc đua các nước


này chỉ còn chiếm giữ một ít thuộc địa. Sự bành trướng thuộc địa của các nước thực
dân đế quốc ở châu Á đẩy các nước trong khu vực đứng trước nguy cơ bị mất chủ
quyền. Có thể nói Việt Nam cũng như châu Á đang đứng trước những thách thức của
thời đại:
- Đa số các nước trong khu vực đều là các quốc gia phong kiến với trình độ văn
minh nông nghiệp lạc hậu so với nền văn minh công nghiệp. Chế độ phong kiến cai
trị nhân dân hà khắc nên mâu thuẫn giữa hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ
ngày càng gia tăng. Nhiều sử gia nhận định thế kỷ XVII - XVIII ở nhiều nước của
châu Á là thế kỷ của những cuộc khởi nghĩa nông dân quy mô lớn (ở Việt Nam có
hàng trăm cuộc khởi nghĩa, đỉnh cao là phong trào nông dân Tây Sơn, đánh bại quân
xâm lược Xiêm và Thanh, lật đổ các thế lực phong kiến cát cứ, đặt cớ sở cho đất
nước thông nhất; ở Trung Quốc có phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở Quảng Tây,
lan rộng khắp 18 tỉnh, kéo dài 14 năm, đánh bại chính quyền Mãn Thanh ở nhiều nơi;

ở Nhật Bán, Miến Điện cũng có hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra, đòi các
quyền lợi kinh tế, chính trị). Tuy các phong trào nông dân đa số cuối cùng đều thất
bại nhưng đã góp phần làm cho chế độ phong kiến bị lung lay.
- Chính quyền phong kiến ở các nước châu Á đang đứng trước những thách thức
của thời đại: nếu muốn thoái khỏi sự đe dọa đến từ phương Tây, phải thi hành những
chính sách cố kết nhân tâm, phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc, giữ vững an ninh
quốc phòng. Xu thế canh tân đất nước đã xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau từ
trong lòng chế độ phong kiến nhưng tồn tại và phát triển rất khó khăn do sự cản trở
của các thế lực phong kiến. Điều này không khó hiểu vì giai cấp phong kiến ở các
nước không dễ gì chấp nhận sự thay đổi theo lối mới khi nó phương hại đến quyền lợi
của họ. Dù vậy, xu thế canh tân đất nước vẫn là xu thế chung của nhiều nước phương
Đông, nhất là trong những thập niên đầu của thế kỷ XIX. Xu thế này có trở thành
hiện thực hay không còn tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử khách quan cũng như
những ứng xử chủ quan của từng nước. Có quốc gia đã thực hiện thành công cuộc
canh tân, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và vươn lên thành một đếc hùng
mạnh như Nhật Bản. Hay như Xiêm-la, một quốc gia nhỏ trong khu vực Đông Nam


Á với những cải cách phù hợp và đường lối ngoại giao khôn khéo cùng đã tránh được
hoạ ngoai xâm. Ngược lại, các nước lớn như Ấn Độ, Trung Quốc lại phải cúi mình
dưới ách xâm lược của ngoại bang.
Ở Việt Nam, từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến lâm vào
tình trạng khủng hoảng sâu sắc với nhiều cuộc nội chiến, phân tranh ác liệt, đe dọa sự
tồn vong của quốc gia dân tộc thống nhất. Trong thời gian này, trên danh nghĩa quốc
gia Việt Nam vẫn tồn tại nhưng thực tế bị phân tranh, phân liệt hết bởi Nam - Bắc
triều đến Trịnh - Nguyễn rồi Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn. Tình hình này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến tiềm lực quốc gia và ý thức dân tộc.
Bước sang thế kỷ XIX, xu thế phát triển của xã hội Việt Nam có những chuyển
biến mới. Triều Nguyễn thành lập (1802) sau gần hai thế kỷ nội chiến, đã thống trị
một quốc gia thống nhất, rộng lớn nhất trong lịch sử dân tộc. Chưa có thời kỳ nào đất

nước Việt Nam được mở rộng và trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, Hà Tiên,
Phú Quốc... như thời Nguyễn. Ngoài ra còn phải kể đến khu vực thềm lục địa và vùng
lãnh hải Đông và Đông Nam mà các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn đã tạo dựng
cho nước ta những tiền đề vững chắc trong việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của chúng ta ngày nay.
Cũng như tất cả các vương triều phong kiến khác, nhiệm vụ đặt ra cho nhà
Nguyễn là vừa phải bảo vệ quốc gia thống nhất, giữ vững an ninh chính trị, vừa phải
lo phát triển kinh tế - văn hóa củng cố và phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc nhằm
bảo vệ độc lập dân tộc, qua đó củng cố quyền thống trị của dòng họ. Tuy nhiên, ở thế
kỷ XIX, cùng với nhiệm vụ dựng nước và giữ nước nhưng hoàn cảnh lịch sử đã đặt ra
cho triều Nguyễn nhiều thách thức mới cần giải quyết để đưa đất nước phát triển theo
đúng xu thế của thời đại. Đó là “... vừa phải đáp ứng những yêu cầu hồi sinh đất nước
trên cơ sở phát huy sức sống dân tộc, vừa phải đối phó với những bất trắc có thế xuất
hiện từ những nước láng giềng, nhưng nguy hiểm hơn vẫn là ý đồ can thiệp, xâm
lược của các nước tư bản thực dân phương Tây, chủ yếu là thực dân Pháp” |41,tr.7]
Trước đó, vào nửa cuối thế kỷ XVIII, vương triều Tây Sơn đã có nhiều chủ


trương và biện pháp tích cực để hé mở cánh cửa phát triển đất nước theo xu hướng
mới, nhất là trong lĩnh vực thương nghiệp, nhưng do thời gian tồn tại của vương triều
này quá ngắn nên kết quả chưa rõ nét. Nhà Nguyễn lật đổ Tây Sơn sau một cuộc
chiến tranh ác liệt, liệu có muốn và có nên tiếp tục kế thừa con đường mà Tây Sơn đã
hé mở hay không? Sau khi khôi phục quyền lực, việc khôi phục và phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội cũng như xây dựng đất nước về mọi mặt gắn chặt với yêu cầu xây
dựng và củng cố sự vững mạnh của vương triều Nguyễn. Hơn ai hết, các vua Nguyễn
mà trước tiên là Gia Long ắt hẳn ý thức rất rõ điều này nhằm xác lập một quốc sách
trị nước phù hợp với yêu cầu trên.
Thiết lập vương triều vào đầu thế kỷ XIX. thực tế lịch sử đòi hỏi nhà Nguyễn
phải “mở cửa” giao lưu cho đất nước vươn ra bên ngoài, kích thích sản xuất hàng hóa
và giao lưu trong nước, tiếp thu và vận dụng những luồng tư tưởng mới vào thực tiễn

Việt Nam mới có thể đáp ứng yêu cầu thời đại và đối phó hữu hiệu với nguy cơ ngoại
xâm. Vấn đề là nhà Nguyễn có nhận thức được yêu cầu này và thức hiện một “quốc
sách” như thế nào để phát triển tiềm lực quốc gia, qua đó bảo tồn độc lập dân tộc và
giữ vững quyền lợi của dòng họ hay không? Tìm hiểu “quốc sách” chi phối mọi
chính sách của nhà Nguyễn trong lịch sử, chúng ta sẽ có lời giải đáp cho vấn đề.
1.3. Chính sách của nhà Nguyễn từ 1802 - 1858
Nếu quan niệm lịch sử Cận đại Việt Nam bắt đầu từ năm 1858 với sự kiện thực
dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta ở Đà Nẵng thì trước đó, nhà Nguyễn đã có hơn
nửa thế kỷ thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt trong điều kiện
hòa bình, thống nhất trên một lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đến lúc
bây giờ. Trước khi Pháp nổ súng xâm lược, Việt Nam đang là một quốc gia có độc
lập, thống nhất, có chủ quyền và đạt nhiều thành tựu nhất định về kinh tế, văn hóa, xã
hội với một vị thế đáng nể trong khu vực Đông Nam Á.
1.3.1. Chính trị - xã hội

* Chính tri - tư tưởng


Nhà Nguyễn hết sức chú trọng tổ chức một bộ máy chính quyền tập trung cốhiệu
quả hơn bất kỳ một triều đình nào trước đó, thiết lập nhà nước quân chủ chuyên chế,
quyền hành tập trung trong tay vua nhằm thực hiện ý chí “trường tồn” của dòng họ.
Không chỉ ở đồng bằng mà ngay cả các vùng rừng núi cũng vậy. Ở vùng rừng núi,
các vùng dân tộc thiểu số, triều đình một mặt vẫn dựa vào các tù trưởng để cai trị
nhưng mặt khác lại đặt các “chiêu thảo sứ” (còn gọi là “lưu quan”) để vừa giảm bớt
quyền lực của tù trưởng vừa kiểm soát các việc lớn trong vùng. Không có trung gian
nào giữa các tỉnh, các vùng dân tộc thiểu số cũng như đồng bằng. Từ ải Nam Quan
đến mũi Cà Mau, tất cả đều quy về một mối. Nước Việt Nam chưa lúc nào có lãnh
thổ rộng mở bằng lúc này, và việc quản trị nhà nước không lúc nào chặt chẽ bằng lúc
này. Vì sao nhà Nguyễn thống trị một lãnh thổ rộng lớn thống nhất với một chính
quyền duy nhất nhưng vẫn không thực hiện được vấn đề “an dân”?

Thực tế lịch sử cho thấy, các vua Nguyễn nắm rất vững triết lý Khổng Mạnh
nhưng nguyên tắc quan trọng nhất để trị nước mà Mạnh Tử đã dạy “dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh” thì họ đã không thực hiện được khi xây dựng một chế độ
chuyên chế, lấy oai để trị dân (thể hiện rõ qua việc truy sát, trả thù những người theo
Tây Sơn, giết hại công thần, thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân...). Có
thể lấy các cuộc khởi nghĩa nông dân từ thời Gia Long đến Tự Đức làm thước đo
lòng dân đối với triều Nguyễn trong bối cảnh nước nhà đang bị các nước thực dân
phương Tây đe dọa xâm lược. Vương triều Nguyễn tồn tại chỉ hơn nửa thế kỷ nhưng
đã chứng kiến hơn 400 cuộc khởi nghĩa (đời Gia Long 33 cuộc; đời Minh Mạng 234
cuộc; đời Thiệu Trị 58 cuộc; đời Tự Đức - tính đến 1862- là 40 cuộc).
Vì sao có quá nhiều cuộc nổi dậy vũ trang chống triều đình như vậy? Chính sử
sách của nhà Nguyễn đã ghi nhận phần nào tình trạng cơ hàn thống khổ của nhân dân.
Do sưu cao thuế nặng, ruộng đất bị địa chủ quan lại kiêm tính nặng nề, đa số nông
dân lâm vào cảnh bần cùng không lối thoát, phải liên tục nổi dậy để tìm đường sống.
Lịch sử cũng ghi nhận không chỉ nông dân mà mội số nho sĩ trí thức, thậm chí cả
người trong hoàng tộc cũng nổi dậy chống triều đình (như loạn Hồng Tập, Hồng Bảo,
giặc Chày Vôi, giặc Châu Chấu...)


Bên cạnh đó, do hoàn cảnh thành lập vương triều đầy gian lao, vất vả, các vua
Nguyễn chủ trương tôn Nho giáo thành tư tưởng trị nước vì họ tìm thấy ở đó chỗ dựa
cho quyền lợi của vương triều và dòng họ. Các vua Nguyễn đã khéo léo kết hợp tư
tưởng Khổng giáo tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam với phong tục thờ cúng tổ
tiên của dân tộc Việt nhằm tạo ra mối quan hệ gắn bó giữa vua và thần dân, vừa
khẳng định được ý thức hệ chính thống của vương triều mới mà không xa rời bản sắc
dân tộc. Chính sách này vừa phù hợp với đặc điểm dân tộc vừa phù hợp với chính
sách đề cao tư tưởng Nho giáo của nhà Nguyễn nhằm củng cố chế độ. Thực tế xã hội
Việt Nam đầu thê kỷ XIX là xã hội nông nghiệp, chưa có điều kiện kinh tế-xã hội để
xa rời đạo Khổng nhằm tìm đến một học thuyết khác mới hơn, vấn đề quan trọng lúc
này là liệu nhà Nguyễn cố tìm tòi, suy nghĩ, khai thác những nội dung tích cực trong

Khổng giáo để phục vụ có hiệu quả cho việc củng cố vương quyền trước một hoàn
cảnh lịch sử mới có nhiều biến động, nhằm đáp ứng xu thế phái triển của thời đại hay
không? Thực tế lịch sử cho thấy, các vua Nguyễn nỗ lực phục hưng Nho giáo song lại
bị chính học thuyết này cầm tù tư tưởng, giam hãm đầu óc trong vòng luẩn quẩn, trì
trệ, không lối thoát. Vì vậy, dù rất cố gắng, họ đã không thể thực hiện được các chính
sách hữu hiệu nhằm củng cố an ninh đất nước và phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc.
Việc tiếp tục duy trì lối học tầm chương trích cú là nhằm đào tạo hệ thống quan
lại phục vụ bộ máy cai trị chứ không vì mục tiêu phát triển đất nước, quay lưng lại
với những tiến bộ khoa học kỹ thuật (nhất là từ thời Tự Đức). Nho sĩ sau khi thi đậu
ra làm quan thì không biết làm gì để phát huy sở học vì học một đàng làm quan một
nẻo, nhiều người học hành thông thái nhưng không biết cách làm quan, nói chi đến
viêc phát triển canh nông, kỹ nghệ, thương mại đất nước theo kịp thời đại. Các vua
Nguyễn, cụ thể là Minh Mạng không phải không biết đến thực trạng này nhưng
không có cách gì để thay đổi. Giáo dục như thế làm sao nói đến canh tân phái triển
đất nước, bồi dưỡng tiềm lực quốc gia ? Vì vậy, dù có biết đến mọi Minh Trị duy tân,
dù có nhiều sĩ phu, trí thức yêu nước muốn cải cách canh tân đất nước nhưng chính
quan niệm Nho giáo bảo thủ đã ngăn chặn vua quan nhà Nguyễn tiến hành cải cách
để đưa đất nước Việt Nam thoát khỏi cảnh suy đồi, rệu rã.


×