Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

LUẬN án TIẾN SĨ CHUYỂN DỊCH cơ cấu NGÀNH ở các nền KINH tế mới CÔNG NGHIỆP hóa và ở ĐÔNG Á VÀ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.64 KB, 121 trang )

TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA
VIỆN KINH TẾ HỌC
BÙI TẤT THẮNG

SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ CỦA
CÁC NỀN KINH TẾ MỚI CÔNG NGHỆP HOÁ
Ở ĐÔNG Á VÀ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC

Mã hiệu: 50201
LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

Người hướng dẫn: PTS VŨ TUẤN ANH


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lựa chọn đề tài và tên gọi của luận án:
Hơn 50 năm qua kể từ Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đến nay, công nghiệp hoá
chẳng những vẫn luôn được khẳng định là nhiệm trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ
tiến lên CNXH ở nước ta, mà còn nhiều lần được tái xác định là “đã thu được những kết
quả bước đầu quan trọng”, song lại vẫn chỉ đang ở “giai đoạn đầu” hay “chặng đường
đầu tiên”. Điều đó chứng tỏ rằng, công cuộc công nghiệp hoá mà chúng ta đang ra sức
thực hiện hết sức khó khăn phức tạp và còn chứa đựng rất nhiều vấn đề cần phải được
tiếp tục làm sáng tỏ, và hơn thế, thậm chí còn cần phải được nhận thức lại, cả về phương
diện lý luận lẫn thực tiễn, theo như tinh thần đổi mới từ Đại hội lần thứ VI của Đảng
(1986).
Một vấn đề cốt lõi nhất trong số ấy là động thái chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá
trình công nghiệp hoá, bao quát trong đó những điều kiện, xu thế, bước đi, con đường,
làm thành quá trình lịch sử thay thế nền sản xuất xã hội dựa trên phương thức truyền


thống, lấy nông nghiệp làm căn bản, bằng phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại
giữ vai trò chi phối.
Cũng trong khoảng thời gian trên, các nước đang phát triển ở khắp nơi trên thế giới
cũng dốc sức thúc đẩy việc thực hiện công nghiệp hoá bằng các hình thức khác nhau. Và
trong số ít nước được coi là thành công, nhóm các nước nằm ở khu vực Đông Bắc và
Đông Nam Châu Á, láng giềng của Việt Nam, bao gồm Hồng Kông, Đài Loan, Nam
Triều Tiên và Singapo - mà trong sách báo người ta thường gọi tắt là các “nền kinh tế
mới công nghiệp hoá (NIEs) Đông Á”- đã nổi bật lên với những thành tựu đặc biệt xuất
sắc, khiến cả thể giới phải ngưỡng mộ và xem như điều “thần kì” kinh tế sau Nhật Bản.
Do sự gần gũi về địa lý và nhiều điểm tương đồng có tính chất khu vực khác nữa, việc
nghiên cứu những bài học thành công của nhóm NIEs này và so sánh, đối chiếu với tình
hình thực hiện công nghiệp hóa ở nước ta, chắc rằng sẽ có thể rút ra được những kết luận
bổ ích và cần thiết cho việc hiểu rõ hơn con đường mà chúng ta phải tiếp tục thực hiện
quá trình công nghiếp hoá nước nhà, đặc biệt trên tinh thần “đổi mới tư duy kinh tế” hiện
nay.
Vì những lẽ trên mà tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu và xác định tên gọi của
bản luận án là: “Sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hoá của các
nền kinh tế mới công nghiệp hoá ở Đông Á và Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Có một thực tế được thừa nhận một cách phổ biến là, mặc dù đất nước đã hết sức nỗ
lực thực hiện công nghiệp hoá theo đường lối mà Đảng ta đã đề ra, song kết quả của hơn
30 năm phấn đấu gian khổ còn ít ỏi, thậm chí có những giải pháp đã đưa ra thực thi bị
lâm vào tình trạng bế tắc. Trong khi đó, một số nước khác lại rất thành công trong công
cuộc công nghiệp hoá bằng các con đường khác.


Tình hình ấy tất yếu dẫn đến việc phải xem xét lại quá trình thực hiện công nghiệp
hoá trong thời kỳ đã qua. Đồng thời, phải xem xét xem những nước thành công đã thực
thi quá trình công nghiệp hoá bằng cách tiếp cận nào, những nhân tố thúc đẩy và điều
kiện ràng buộc gì đã đem lại cho họ kết quả như vậy.

Từ điểm xuất phát ấy, mục đích nghiên cứu của đề tài sẽ nhằm vào các vấn đề sau:
1.
Hệ thống lại một số vấn đề lý luận liên quan trực tiếp tới cơ cấu
ngành kinh tế đã được trình bày trong một số trường phái lý thuyết kinh tế chủ yếu.
2.
Phân tích quá trình dịch chuyển cơ cấu ngành trong quá trình công
nghiệp hoá của NIEs Đông Á, xem xét những nguyên nhân chi phối trong qúa trình
này và những bài học kinh nghiệm cũng như khả năng vận dụng chúng trong tình
hình mới ở Việt Nam.
3.
Phân tích quá trình nhận thức và vận động thực tiễn của quá trình
công nghiệp hóa của Việt Nam mấy chục năm qua. Kết hợp sự phân tích về mặt lý
thuyết với so sánh thực tế giữa NIEs Đông Á và Việt Nam, xem xét lại cách tiếp cận
cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích
những điều kiện ràng buộc và chi phối sự thay đổi cơ cấu ngành trong quá trình công
nghiệp hoá, nêu ra một số khuyến nghị về giải pháp cơ cấu ngành trong việc thúc đẩy
quá trình cônghiệp hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3 Đối tượng và phạ vi nghiên cứu
Đề tài có thể được phân tích trên nhiều phương diện khác nhau, nhưng ở đây, các
vấn đề được đề cập đến dưới giác độ của kinh tế chính trị học. Điều đó hàm nghĩa rằng,
trong quá trình phân tích, việc chỉ ra các xu hướng vận động vĩ mô với các điều kiện
ràng buộc và qui định các quá trình kinh tế được nhấn mạnh hơn là việc trình bày những
tài liệu phản ánh các sự kiện và tình hình nổi lên bề mặt của quá trình công nghiệp hoá.
Phạm vi vấn đề được xác định là sự chuyển dịch cơ cấu ngành – phân biệt với các loại
cơ cấu kinh tế khác.
Phạm vi thời gian được xác định là thời kỳ diễn ra quá trình công nghiệp hóa- phân
biệt với các thời kỳ hay giai đoạn phát triển kinh tế khác trong toàn bộ quá trình lịch sử
phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia.
Phạm vi không gian cũng được xác định rõ là các nền kinh tế mới công nghiệp hoá
(NIEs) Đông Á (bao gồm Nam Triều Tiên, Đài Loan, Hồng Kông và Singapo) và Việt

Nam.
Trong khuôn khổ được xác định ấy, đề tài đặt trọng tâm vào chỗ làm sáng tỏ những cơ
sở khách quan và chủ quan, những điều kiện bên trong và bên ngoài, những nhân tố kinh
tế và chính trị- xã hội... của bước chuyển đầu tiên của cơ cấu ngành khi bước vào thời kỳ
công nghiệp hoá cùng những tác nhân thúc đẩy chúng trong suốt thời kỳ đó.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trước hết, điều cần nhấn mạnh về mặt phương pháp nghiên cứu đối với đề tài này
là:


Khía cạnh lịch sử của vấn đề: Tiến trình công nghiệp hoá của bất
cứ quốc gia nào cũng đều bắt nguồn từ sự phát triển lâu dài trong lịch sử và gắn chặt
với những bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá... của tình hình trong nước và
quốc tế. Không thể lý giải nổi những bước biến thiên của toàn bộ quá trình công
nghệp hoá cũng như những thay đổi cơ cấu bộ phận nếu như không đặt nó trong mối
quan hệ rộng lớn ấy. Vì vậy đề tài chú trọng nhiều tới những hoàn cảnh lịch sử qui
định quá trình hình thành và làm thay đổi cơ cấu ngành trong qúa trình công nghiệp
hoá của NIEs Đông Á và Việt Nam.
Dựa trên nền tảng các dữ kiện lịch sử, đề tài đặc biệt chú ý đến
việc sử dụng phương pháp so sánh, là một trong số những phương pháp rất quan
trọng và được dùng phổ biến trong nghiên cứu kinh tế hiện nay. Mặc dù việc tiến
hành nghiên cứu so sánh ở đây gặp nhiều khó khăn do những sai biệt về thể chế, cơ
sở dữ liệu, mức độ hoàn thiện của hệ thống thống kê và cả những tài liệu có thể có
được, nhưng dẫu sao, đó là vấn đề chung mà hầu như mọi quá trình nghiên cứu so
sánh nào cũng gặp phải.Không thể tránh được tất cả mọi sự khập khiễng trong so
sánh. Và dường như chính bởi sự “khập khiễng” ấy lại càng cần tới sự phân tích so
sánh. Do vậy, đề tài tập trung vào những điểm giống và khác nhau của cả mô hình lý
thuyết và thực tế lẫn quá trình vận động hiện thực cùng những điều kiện khách quan,
các nhân tố ràng buộc và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình công
nghiệp hoá giữa NIEs Đông Á và Việt Nam. Đồng thời, đề tài cũng quan tâm nhiều

hơn tới giai đoạn đầu tiên tiến hành công nghiệp hoá là giai đoạn được coi là khó
khăn hơn cả- (“vạn sự khởi đầu nan”) - mà NIEs Đông Á đã qua, do đó mà có những
bài học thực tế, còn ở Việt Nam thì mấy chục năm đã qua, nhưng chưa nhích lên xa
hơn được bao nhiêu và vẫn còn đang “gặp khó khăn” của buổi “ban đầu”. Làm như
vậy là bởi hy vọng rằng, từ những so sánh đó, có thể có thêm được những căn cứ cho
những kết luận rút ra, góp lời bàn về các giải pháp cơ cấu ngành trong quá trình công
nghiệp hoá trong những năm cuối cùng của thế kỉ XX ở nước ta.
Ngoài ra, đề tài cũng chú trọng tới các phương pháp hệ thống, phương pháp lôgic,
phương pháp phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch và các phương pháp nghiên
cứu khác đang được vận dụng trong khoa học kinh tế.
5. Đề tài đã nghiên cứu đến đâu?
Vấn đề chuyển đổi cơ cấu ngành trong thời kì công nghiệp hoá từ lâu đã thu hút sự
chú ý rộng rãi của những nhà kinh tế ở cả các cơ quan làm công tác nghiên cứu lý luận
lẫn các cơ quan chỉ đạo thực tiễn. Vì thế, đã có khá nhiều các bài viết đăng tải trên các
tạp chí chuyên ngành (như tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tạp chí Kế hoạch hoá, tạp chí
Thống kê v.v..), đề cập tới khía cạnh này hay khía cạnh khác ở các mức độ khác nhau.
Thường thì trong các công trình nghiên cứu về công nghiệp hoá nói chung, các vấn đề
cơ cấu ngành chiếm một nội dung quan trọng.
Trong số những công trình đã xuất bản, liên quan trực tiếp tới phần về lý luận và thực
tiễn Việt Nam của đề tài phải kể đến các công trình:


1.
“Xây dựng cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta” – Tác
giả tập thể, do Viện kinh tế học, UBHKVH Việt Nam xuất bản năm 1986.
2.
“Cơ cấu công nông nghiệp hợp lý”- Tác giả tập thể, Nhà xuất bản
Thông tin lý luận ấn hành năm 1986.
3.
“Sự hình thành cơ cấu kinh tế trong chặng đường đầu của thời kì

quá độ”- của tác giả Trần Ngọc Hiên- Nhà xuất bản Sự thật, ấn hành năm 1987.
Những công trình nghiên cứu về NIEs do các tác giả Việt Nam thực hiện đáng chú ý
nhất là:
1.
Đỗ Đức Đinh- Lê Hồng Phục: “Các mô hình công nghiệp hoá:
Singapo, Nam Triều Tiên, Ấn Độ”- Viện KTTG, Hà Nội 1988.
2.
Đỗ Đức Định- Hoàng Thanh Nhàn- Minh Phong: “Các nước công
nghiệp mới châu Á”- Nxb KHXH, Hà Nội 1989.
Ngoài ra, trong số khá nhiều công trình nghiên cứu, ít nhiều liên quan tới đề tài này do
các tác giả nước ngoài thực hiện, và nhất là gần đây, một số đã được dịch sang tiếng
Việt, phải kể đến là:
1.
“Kinh tế học của sự phát triển” gồm 2 tập do các nhà khoa học
của Trường Đại học Harvard và Duke biên soạn, xuất bản lần đầu năm 1983, tái bản
năm 1987. Được dịch sang tiếng Việt và do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương ấn hành năm 1990.
2.
“Tăng trưởng kinh tế ở Châu Á gió mùa” – gồm 3 tập, Tác giả
Harry T.Oshima-University of Tokyo press 1987. Đã được dịch ra tiếng Việt và Viện
Châu Á và Thái Bình Dương- UBKHXH Việt Nam xuất bản năm 1989.
Và một số công trình khác.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh lý luận và thực
tiễn của quá trình công nghiệp hoá nói chung và vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong
thời kì công nghiệp hoá ở Việt Nam cũng như NIEs Đông Á nói riêng, vì vậy mà đã có
một số đóng góp cho việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. Mặc dầu vậy, như tất cả mọi
người đều biết, cho đến nay (và chắc chắn rằng còn phải nhiều năm tiếp theo nữa) thực
tiễn công nghiệp hoá nước ta và nhiều nước khác trên thế giới vẫn tiếp tục đặt ra những
vấn đề đòi hỏi phải được nghiên cứu sâu sắc hơn nữa từ nhiều góc độ tiếp cận khác
nhau. Và điều quan trọng hơn cả là đối với nước ta, cuộc tranh luận trên phương diện

học thuật đang còn tập trung vào giải quyết các vấn đề của “sự khởi đầu” của cuộc hành
trình công nghiệp hoá trong điều kiện quá độ sang kinh tế thị trường.
Đặc biệt là trong số này, chưa có công trình nào trực tiếp đặt vấn đề nghiên cứu so
sánh một cách có hệ thống từ cách tiếp cận vấn đề cho đến nội dung của các bước
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá giữa NIEs Đông Á và
Việt Nam, nhất là lại đặt nó trong khuôn khổ của quá trình thực hiện đổi mới kinh tế
hiện nay.
6.
Đóng góp mới của luận án:


a)
Trước hết là đóng góp mới dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu: Cho
tới nay, trong các công trình nghiên cứu về công nghiệp hoá, vấn đề cơ cấu ngành ở
nước ta đều chủ yếu khai thác các yếu tố “đồng tuyến” trong hệ thống các nước
XHCN (cũ). Cũng có những công trình lại thiên về việc giải thích các luận điểm
trong đường lối công nghiệp hóa qua các thời kì đại hội Đảng, coi đó là nhiệm vụ
chính yếu nhất. Nhìn chung, yếu tố ngoài hệ thống và khu vực ít được quan tâm chú
ý. Do vậy, việc trực tiếp đặt ra mối tương quan so sánh giữa nhóm NIEs Đông Á với
Việt Nam vốn thuộc hai hệ thống kinh tế khác nhau, có thể được coi là một đóng góp
mới xét trên khía cạnh mở rộng các góc độ tiếp cận một số vấn đề nghiên cứu.
b)
Trên phương diện lý luận, so sánh các cách tiếp cận vấn đề dịch
chuyển cơ cấu ngành trong thời kì công nghiệp hoá giữa một số trường phải lý thuyết
chủ yếu.
c)
Phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của
NIEs, chỉ ra những nhân tố thúc đẩy và ràng buộc quá trình này trên cơ sở đó, liên hệ
tới tình hình hiện tại ở Việt Nam. Kết hợp với việc đánh giá những diễn biến của qúa
trình công nghiệp hoá mấy chục năm qua, tác giả đề xuất một cách nhìn nhận vấn đề

chuyển dịch cơ cấu ngành và đưa ra một hình dung định hướng sơ bộ về kết cấu giữa
các ngành trong giai đoạn trước mắt ở Việt Nam.
7.
Kết cấu của luận án:
Bản luận án gồm 3 chương :
Chương I: Một số vấn đề lý luận về cơ cấu ngành kinh tế quốc dân.
Chương II: Sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá ở các nền kinh tế
mới công nghiệp hoá ở Đông Á.
Chương III: Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong qúa trình công nghiệp hoá ở Việt
Nam.
Để tiện cho việc xem xét và tra cứu các nguồn tài liệu đã sử dụng, phần ghi chú được
tác giả sắp xếp theo phương thức hai số trong ngoặc đơn: Số thứ nhất là số thứ tự tài liệu
tham khảo (ở phần phụ lục), số thứ hai là số trang trong tài liệu tham khảo. Trường hợp
không ghi số trang là tác giả tổng hợp tình hình hay trích ý hoặc giới thiệu tham khảo tài
liệu đó.
Sau đây là nội dung các chương của luận án.


Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ QUỐC DÂN

1.1– Khái niệm
Có một vài khái niệm cần được thống nhất để làm việc là:
- Cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu ( hay kết cấu) là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ
cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan
hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như là một thuộc tính
của sự vật, hiện tượng, và biến đổi cùng với sự biến đổi sự vật, hiện tượng. Như vậy, có
thể thấy có rất nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu của các khách thể và các hệ

thống (128; tr. 269-270).
Cũng như vậy, đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ thống phức tạp thì
có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp thành của chúng, tuỳ theo cách
mà chúng ta tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống ấy. Đặc biệt, sự vận động và phát triển của
nền kinh tết theo thời gian luôn bao hàm trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng
như sự thay đổi bản thân các bộ phận của các kiểu cơ cấu. Cho nên, dù có xem xét dưới
bất kì góc độ nào, cũng có thể thấy rằng “cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể
những mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu thành đó trong một
thời gian và trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định” (4).
Mỗi một loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận và các cách mà
chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Chẳng hạn, trên
bình diện vĩ mô, có một số loại cơ cấu sau:
+ Cơ cấu các quan hệ sản xuất trong nền kinh tế:
Loại cơ cấu này phản ánh các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất xã hội, trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ về sở hữu đối với các tư
liệu sản xuất. Xã hội loài người đã từng phát triển qua các hình thái kinh tế- xã hội lần
lượt từ thấp đến cao và trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội đều có các quan hệ sản xuất
khác nhau. Ở một số nước, những hình thức sở hữu cổ xưa không còn nữa; ở một số
nước khác, do những hoàn cảnh lịch sử khác, có sự đan xen của nhiều loại hình sở hữu
cùng tồn tại. Các mối quan hệ này biểu hiện ra bên ngoài bề mặt xã hội với tư cách là
các thành phần kinh tế khác nhau. Do vậy, người ta còn gọi cơ cấu các quan hệ sản xuất
là cơ cấu các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu cơ cấu
các quan hệ sản xuất của nền kinh tế quốc dân sẽ cho thấy các xu hướng vận động của
từng loại thành phần kinh tế trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội.
+ Cơ cấu tái sản xuất xã hội:
Loại cơ cấu này phản ánh mối quan hệ của các bộ phận cấu thành quá trình tái sản
xuất xã hội, bao gồm nhiều yếu tố, nhiều quá trình. Đó là các mối quan hệ của:


- Các yếu tố (đầu vào) của sản xuất: sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao

động;
- Các khâu trong vòng tuần hoàn: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Nếu cơ cấu các quan hệ sản xuất phản ánh mặt xã hội, thì cơ cấu tái sản xuất phản
ánh mặt vật chất, kĩ thuật của quá trình hoạt động kinh tế. Và nếu giả định rằng
trong những điều kiện xã hội về cơ bản là như nhau thì cơ cấu tái sản xuất (với
chất lượng và số lượng của các yếu tố sản xuất hay các khâu của chu trình sản
xuất) sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế.
+ Cơ cấu tổ chức- quản lý nền kinh tế quốc dân:
Loại cơ cấu này phản ánh mối quan hệ của các hình thức tổ chức quản lý cả ở tầm vĩ
mô lẫn vi mô của các hoạt động kinh tế. Nó bao gồm tập hợp các cấp quản lý, các cơ chế
vận hành, các biện pháp tổ chức và quản lý nền kinh tế. Như vậy, đối tượng của nó trước
hết thuộc về bộ môn khoa học quản lý kinh tế. Nghiên cứu cơ cấu tổ chức- quản lý nền
kinh tế thường thông qua các chỉ tiêu tổng hợp để vạch ra một hệ thống tổ chức và quản
lý kinh tế một cách hợp lý cho mỗi giai đoạn phát triển.
+ Cơ cấu vùng- lãnh thổ:
Loại cơ cấu này phản ánh những mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ của một
đất nước trong hoạt động kinh tế. Thường người ta phân tích những thế mạnh hiện thực
và tiềm năng của từng vùng để từ đó hình thành nên tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản
xuất nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh kinh tế của từng vùng và toàn bộ nền
kinh tế. Ngoài các vấn đề kinh tế, nó thường gợi ý về việc đẩy nhanh sự phát triển xã hội
ở những vùng nào đó bị lạc hậu trong mối tương quan với các vùng khác để nâng cao
hơn mức độ đồng đều và phát triển kinh tế và xã hội của cả nước.
+ Cơ cấu ngành kinh tế:
Sự phát triển nền sản xuất xã hội từ kinh tế tự nhiên tới kinh tế hàng hoá cũng có
nghĩa là xuất hiện những ngành sản xuất độc lập với nhau, dựa trên những đối tượng sản
xuất khác nhau. Sản xuất càng phát triển thì tập hợp ngành của nền kinh tế quốc dân
càng trở nên phức tạp và đa dạng. Ở đây, cơ cấu ngành kinh tế biểu hiện ra dưới các hình
thức ngành lớn ( ngành cấp I): nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; các phân ngành
( ngành cấp II): chăn nuôi, trồng trọt... trong nông nghiệp; cơ khí; cơ khí, luyện kim,
năng lượng... trong công nghiệp...; ngành cấp III (lúa, màu...) trong trồng trọt v.v... Sự

vận động của các ngành kinh tế và các mối liên hệ của nó vừa tuân theo những đặc điểm
chung của sự phát triến sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc thù của mỗi giai
đoạn và mỗi quốc gia.
Vì vậy, nghiên cứu loại cơ cấu này là nhằm tìm ra những cách thức duy trì tính tỉ lệ
hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn của quốc
gia trong mỗi thời kỳ đặng thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một
cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Việc phân chia 5 loại cơ cấu kinh tế này không phải là cách phân chia duy nhất, lại
càng không phải chỉ có từng ấy loại cơ cấu kinh tế. Thực tế, như đã nói, tuỳ theo mục


tiêu nghiên cứu mà người ta có thể phân chia theo những cách khác nhau (ít hoặc nhiều
hơn), và trong mỗi loại cơ cấu này, đến lượt nó lại bao hàm nhiều kiểu cơ cấu khác nữa.
Song, trong chừng mực cần thiết đối với đề tài này, chúng tôi cho rằng sự phân chia như
vậy cũng đã đủ để giới hạn vấn đề, rằng ở đây, đối tượng chính của nó sẽ là cơ cấu
ngành kinh tế ở cấp vĩ mô chứ không phải các loại cơ cấu khác. Tự nhiên, sự phân tích
không loại trừ việc ít nhiều đề cập đến các vấn đề của các loại cơ cấu khác khi chúng
liên quan trực tiếp tới các vấn đề cơ cấu ngành. Điều đó không những chỉ là sự cần thiết
trong phân tích, mà còn được qui định bởi tính chất phức tạp của các vấn đề, luôn có sự
giao cắt nhau cho dù tiếp cận từ bất cứ cách phân chia nào.
- Công nghiệp hoá:
Từ nhiều năm nay, công nghiệp hoá đã được giới kinh tế trong và ngoài nước hết sức
quan tâm nghiên cứu và tranh luận sôi nổi. Nhưng trong khi tính tất yếu của nó được
thừa nhận một cách phổ biến, thì trên thực tế, bản thân khái niệm “công nghiệp hoá” lại
chưa được hiểu một cách thống nhất. Chính sự không thống nhất về cách hiểu mà suốt
nhiều thập niên qua, ở nhiều nước khác nhau đã có những chính sách thực hiện công
nghiệp hoá rất không giống nhau. Nhiều người đã quan niệm công nghiệp hoá đồng
nghĩa với sự phát triển công nghiệp, tách biệt hoặc thậm chí đối lập với sự phát triển
nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Theo họ, công nghiệp hoá là quá trình làm cho
công nghiệp chiếm tỷ trọng áp đảo trong kết quả hoạt động của nền kinh tế, còn cơ cấu

hay loại hình đó như thế nào thì không phải là vấn hàng đầu. Một số người khác lại sử
dụng khái niệm “công nghiệp hoá” với ý nghĩa cơ bản là xây dựng và mở rộng lĩnh vực
các ngành công nghiệp chế biến. Những người khác nữa lại quan niệm công nghiệp hoá
có nội dung chủ yếu là phát triển nền công nghiệp nặng chứ không phải bất cứ loại công
nghiệp nào. Lại có hai cách hiểu về công nghiệp hoá nhìn từ góc độ kinh tế – kỹ thuật và
kinh tế – xã hội. Ở cách hiểu thứ nhất, người ta nhấn mạnh sự chuyển biến kỹ thuật của
nền sản xuất xã hội từ thủ công lên cơ khí; còn với cách hiểu kia thì khía cạnh chính trị –
xã hội của vấn đề được coi trọng hơn. Và ở mọi cách hiểu, việc coi nó là một quá trình
liên tục không ngừng hay chỉ là một giai đoạn lịch sử nhất định lại phân chia sự khác
biệt trong quan niệm về công nghiệp hoá giữa họ với nhau một lần nữa.
Thật ra, các cách hiểu công nghiệp hoá nêu trên không phải hoàn toàn vô lý bởi nó
luôn xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, nhằm giải quyết những mục tiêu
cụ thể khác nhau trước một đối tượng cực kỳ phức tạp và bao quát những phạm vi hết
sức rộng lớn. Có lẽ vì vậy mà không phải ngẫu nhiên, Tổ chức phát triển công nghiệp
của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) sau nhiều vòng tranh luận đưa ra một định nghĩa để làm ít
nhiều phản ánh sự dung hoà của các loại quan điểm khác nhau về công nghiệp hoá như
sau: “Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn
lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với
công nghệ hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo
một nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã
hội” (53; tr. 79). Một quan niệm hiểu theo nghĩa rộng như vậy cho phép bao quát trong


đó quá trình hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành công nghiệp
và đổi mới quy trình công nghệ sản xuất theo kiểu công nghiệp ở mọi lĩnh vực. Nó cũng
không phải bao gồm sự tăng trưởng công nghiệp hay nền kinh tế nói chung mà là sự
phát triển, bao gồm sự chuyển biến cơ cấu kinh tế và xã hội, một sự thay đổi không chỉ
giản đơn về lượng mà còn về chất của đời sống kinh tế. Chia sẻ quan điểm này, chúng
tôi không dám chắc có thể thoả mãn được mọi vấn đề chi tiết đặt ra, song nó định vị
được tính chất của một giai đoạn mang nét đặc thù, phân biệt với các nền sản xuất cổ

xưa hay hiện đại, ở đó thực hiện bước chuyển từ trạng thái nọ sang trạng thái kia và bao
hàm trong đó cả sự thay đổi về lượng lẫn về chất mà sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo
hướng công nghiệp hoá là một trong những biểu hiện rõ rệt nhất.
Với các khái niệm được xác định một cách sơ bộ như vậy, chúng tôi xin lần lượt đi
vào các vấn đề mà một số học thuyết kinh tế chủ yếu đề cập tới sự chuyển dịch cơ cấu
ngành trong quá trình công nghiệp hoá.
1.2- Vấn đề cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hoá trong một số
trường phái lý thuyết kinh tế chủ yếu:
Việc sắp xếp và phân loại các lý thuyết kinh tế theo những trường phái nào đó là vấn
đề không đơn giản. Một mặt thì do bản chất của khoa học luôn bao hàm sự kế thừa lẫn
nhau trong quá trình phát triển, mặt khác thì do sự phát triển đa dạng của hiện thực kinh
tế mà xuất hiện ngày càng nhiều các lý thuyết kinh tế với những sự khác biệt ở các mức
độ nhiều ít vô cùng khác nhau. Để giúp cho việc hệ thống hoá và trong chừng mực nào
đó, có thể so sánh những sự khác biệt giữa các trường phái lý thuyết này, chúng tôi chọn
cách thức phân loại thường gặp trên các sách báo kinh tế hiện hành, cũng như dựa trên
tình hình thực tiễn sau đây để phân thành ba loại trường phái chủ yếu khi khảo cứu đề tài
này.
- Trường phái kinh tế học Macxít, với ảnh hưởng của nó trong hệ thống kinh tế của
các nước (đã từng là hoặc đang xây dựng) XHCN.
- Trường phái kinh tế học theo trào lưu chính hiện đại, với ảnh hưởng của nó đối
với các nước tư bản công nghiệp phát triển.
- Kinh tế học của sự phát triển, giành cho việc nghiên cứu những vấn đề phát triển
của các nước thế giới thứ ba (còn gọi là các nước chậm phát triển, đang phát triển
hay kém phát triển).
Trong phần hệ thống hoá về mặt lý luận của vấn đề cơ cấu ngành giữa các trường phái
lý thuyết này, chúng tôi sẽ đề cập nhiều hơn đến kinh tế học Mác xít vì đây là hệ thống
lý luận kinh điển quen thuộc với chúng ta. Hơn nữa có những vấn đề mới bắt nguồn từ
thực tế như sự khủng hoảng và tan vỡ của hệ thống kinh tế XHCN; quá trình thực hiện
đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay..., mà việc khảo cứu kỹ càng hơn học thuyết này sẽ
soi sáng hơn cho một số vấn đề được đề cập đến ở chương III, nói về sự chuyển dịch cơ

cấu ngành kinh tế của Việt Nam. Các lý thuyết phát triển cũng được quan tâm thích đáng
bởi đối tượng của NIEs trước đây cũng như ở Việt Nam hiện nay nhất định sẽ gặp phải,
cho dù sự hiểu biết về chúng còn rất nhiều hạn chế, do chỗ hầu như mãi đến gần đây,


chúng ta mới bắt đầu làm quen với trường phái lý thuyết này. Cũng có những hạn chế
tương tự đối với ngành trong thời kỳ công nghiệp hoá, nên chúng tôi không có đủ điều
kiện để phân tích chúng một cách cặn kẽ hơn.
1.2.1 – Sự trình bày kinh tế học Mác xít:
Để hiểu được những vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành nói riêng cũng như các vấn đề
khác trong kinh tế học Macxít, điều cần thiết trước tiên là phải đứng vững trên cách tiếp
cận đối tượng và phương pháp nghiên cứu của học thuyết kinh tế này.
Trong “Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất” của bộ “Tư bản” K.Marx viết rằng:
“đối tượng nghiên cứu của tôi là phương thức sản xuất TBCN và những quan hệ sản
xuất và trao đổi thích ứng với phương thức ấy” (61; tr.13-14).
Như vậy, chỉ có thể hiểu là mọi vấn đề kinh tế Marx phân tích và rút ra kết luận đều
“thích ứng với phương thức ấy”, tức là gắn liền với tính chất TBCN trong quan hệ giữa
con người trong quá trình sản xuất.
Cũng trong “Lời tựa...” này, Marx chỉ rõ phương pháp nghiên cứu là sự trừu tượng
hoá, nghĩa là nói đến cái “phương thức sản xuất TBCN” nói chung, trừu tượng chứ
không phải ở một nước cụ thể nào cả. Trường hợp nước Anh chỉ là một ví dụ minh hoạ,
bởi nó là nước cổ điển của phương thức sản xuất này mà thôi.
Vậy, cần phải lưu ý tới những điều kiện giả định sau:
- Tính chất xã hội của nền sản xuất: ở đây chỉ nghiên cứu nền sản xuất dựa trên các
quan hệ có tính chất TBCN.
- Nền sản xuất ấy là trừu tượng, nói chung, nên các quan hệ kinh tế giữa các quốc
gia đã bị gạt sang một bên, nghĩa là không có ngoại thương.
- Nền sản xuất xã hội chỉ bao gồm có các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất
(không tính tới dịch vụ).
Mọi sự xem xét đều trước hết nhằm vào một nền kinh tế được trừu tượng hoá cao độ

như vậy.
Trong lý thuyết kinh tế học Macxit, vấn đề cơ cấu ngành có thể nói tập trung chủ yếu
trong hai học thuyết: học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết về tái sản
xuất tư bản xã hội. Vì vậy, chúng ta lần lượt điểm qua các vấn đề được trình bày trong
hai học thuyết đó.
1.1.1.1 – Phân công lao động xã hội và sự hình thành các ngành kinh tế quốc dân:
Khi tìm hiểu những điều kiện của sản xuất và trao đổi hàng hoá, Marx đã nhận thấy
rằng chính sự phân công lao động đã làm “cơ sở chung” của mọi nền sản xuất hàng hoá.
Việc tiếp tục đi sâu vào tìm hiểu sự phân công lao động đã cho phép Marx phân chia
thành ba loại: phân công lao động chung [im Allgemeinen] thành những ngành lớn như
nông nghiệp, công nghiệp v.v...; phân công lao động đặc thù [im Besondenren] (loại và
thứ); và phân công lao động cá biệt [im Einzelnen] trong xưởng thợ (61; tr.446).
V.I. Lênin khi bàn đến vấn đề này trong tác phẩm “Sự phát triển của CNTB ở Nga”
(1896-1899) đã xác định thêm rằng, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, sự


phân công lao động đặc thù còn được “chia ra thành nhiều loại nhỏ và phân loại
nhỏ"”(55; tr.21-23).
Từ những điều trình bày trên, ta thấy:
1. Phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng hoá là cơ sở của sự hình
thành nên các ngành kinh tế khác nhau, tách rời nhau và độc lập đối với nhau.
2. Nếu như Marx mới đề cập đến hai cấp độ ngành của nền kinh tế quốc dân
thông qua việc xác định “sự phân công lao động chung” tạo thành “những ngành lớn
như nông nghiệp, công nghiệp v.v...” mà nay ta có thể gọi là phân ngành cấp I, và “sự
phân công lao động đặc thù” phân chia những ngành lớn thành loại và thứ- phân
ngành cấp II, chẳng hạn nông nghiệp thì được chia thành trồng trọt, chăn nuôi..., còn
công nghiệp thì chia thành công nghiệp năng lượng, cơ khí, luyện kim, hoá chất, thực
phẩm...; thì V.I. Lênin đã tiếp tục phát triển thêm cái phân ngành cấp II (loại và thứ)
thành những phân ngành nhỏ hơ nữa- có thể coi là cấp III, cấp IV v.v... do quá trình
phát triển của kinh tế hàng hoá.

3. Sự phân công lao động xã hội theo đúng nghĩa của nó chỉ có thể diễn ra trong
quá trình hình thành và phát triển của sản xuất hàng hoá, rằng sự phân công lao động
xã hội mà trong đó diễn ra quá trình tách rời công nghiệp khỏi nông nghiệp phải gắn
liền với việc bản thân ngành nông nghiệp phải phát triển thành một “ngành công
nghiệp” trên phương diện sản xuất ra những sản phẩm hàng hóa chuyên để bán. Như
vậy, ngành nông nghiệp được xem đạt tới trình độ của sản xuất công nghiệp khi nó là
một ngành sản xuất hàng hoá.
Chúng tôi cho rằng, việc lưu ý tới điểm này sẽ hết sức quan trọng khi ta phân tích sự
chuyển dịch cơ cấu ngành trong nền kinh tế quốc dân, bởi chỗ ở trình độ sản xuất hàng
hoá, khi công nghiệp và nông nghiệp tách rời nhau để tạo nên mối tương quan mới về
chất, đã đánh dấu một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của sản xuất xã hội được
thực hiện vào thời kì công nghiệp TBCN. Ý nghĩa này càng đặc biệt rõ ràng khi so sánh
với thời kì tiền công nghiệp hoá, như V.I . Lênin đã nhận xét: “Một nước mà kinh tế
hàng hoá ít phát triển (hoặc hoàn toàn không phát triển) thì hầu như toàn chỉ là nhân
khẩu nông nghiệp; tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là dân cư chỉ chuyên làm nghề
nông, mà chỉ có nghĩa là dân cư làm nghề nông đã tự mình chế biến lấy nông sản; là
trong dân cư đó, sự trao đổi và phân công hầu như không có” (55; tr.25).
Sau những dòng mô tả có tính chất nhận diện các ngành khác nhau của nền kinh tế
quốc dân cùng cơ sở của sự xuất hiện các ngành đó trong quá trình phát triển của sản
xuất hàng hoá, các nhà kinh điển của kinh tế học Macxít đã đi vào giải thích chính cái
“cơ sở chung” của sự hình thành các ngành- là sự phân công lao động xã hội với những
tiền đề khách quan như sau: “ Sự phân công lao động xã hội và việc hạn chế một cách
tương ứng những cá nhân vào một lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù, cũng giống như sự
phân công lao động trong công trường thủ công, đều phát triển từ những điểm xuất phát
đối lập”; rằng “sự phân công lao động xã hội phát sinh từ sự trao đổi giữa lĩnh vực sản
xuất vốn từ đầu đã khác nhau nhưng không phụ thuộc vào nhau” (61; tr.446-447).


Một cách cụ thể hơn, những tiền đề ấy là:
- Sự tách rời giữa thành thị và nông thôn;

- Số lượng dân cư và mật độ dân số;
- Sự phát triển của phân công lao động trong công trường thủ công, cho phép
“nhân sự phân công lao động xã hội lên” (K.Marx); và
- Cuối cùng, có thể xem là tiền đề tổng quát, có ý nghĩa chi phối và quyết định
chung, là sự phát triển của bản thân ngành nông nghiệp, là sự nâng cao năng suất lao
động trong nghành nông nghiệp chưa làm ra đủ (hoặc chỉ vừa đủ) sản phẩm để nuôi
chính họ thì chưa thể nói đến việc có một lượng dân cư chuyển sang làm ngành khác
được.
Tóm lại, bằng việc phân tích các tiền đề nêu trên của sự phân công lao động xã hội,
các nhà kinh điển của kinh tế học Mác-xít đã chỉ rõ quá trình hình thành nên các ngành
kinh tế khác nhau của nền kinh tế quốc dân sản xuất hàng hoá TBCN. Việc nhấn mạnh
tính chất TBCN của sản xuất hàng hoá trong quá trình hình thành các ngành kinh tế ở
đây hàm ý rằng nó đúng với cái khuôn khổ được Marx giả định. Mọi xã hội vận động
ngoài khuôn khổ đó, cho dù có thể chỉ là một sự phân định hết sức tương đối, không phải
là đối tượng trực tiếp trong nghiên cứu của Marx. Vì vậy, cũng dễ hiểu là ở chỗ này hay
chỗ khác, việc ông đề cập đến chúng chủ yếu chỉ là nhằm làm nổi bật thêm điều mà ông
định trình bày về nền kinh tế sản xuất hàng hoá TBCN. Một trong những trình bày như
vậy có liên quan đến đề tài này là việc ông đề cập tới hình thức mà sự phân công lao
động diễn ra trong xã hội cổ xưa- cái xã hội mà sau này trở thành một trong những vấn
đề tranh luận gay go và kéo dài dưới tên gọi “phương thức sản xuất châu Á”. Ở đây,
chúng tôi chỉ muốn nói đến một khía cạnh đơn giản là Marx có đem ra so sánh để làm rõ
sự phân công lao động trong điều kiện phát triển của nền sản xuất hàng hoá TBCN, thì
cho đến nay, có lẽ dường như vẫn còn là điều “bảo lưu”.
Trên cái ranh giới “tương đối” của nền kinh tế của xã hội cổ xưa với kiểu phân công
lao động như sự trình bày của Marx và nền sản xuất hàng hoá TBCN có một trong
những điều kiện đặc biệt, mà nếu thiếu nó, sự phân công lao động xã hội để hình thành
nên nền kinh tế hàng hoá TBCN không thể có được. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đó chính là
một quan hệ mới- quan hệ cạnh tranh với nhau- của những người lao động đã được phân
công. “Trong sự phát triển lịch sử của CNTB, có hai nhân tố quan trọng: 1) Sự chuyển
hoá nền kinh tế tự nhiên của những người trực tiếp sản xuất thành nền kinh tế hàng hoá,

và 2) Sự chuyển hoá nền kinh tế hàng hoá thành nền kinh tế TBCN. Sự chuyển hoá thứ
nhất xảy ra là do sự xuất hiện sự phân công xã hội- nghĩa là sự chuyên môn hoá những
người sản xuất cá thể, riêng lẻ, chỉ chuyên về một ngành công nghiệp mà thôi. Sự
chuyển hoá thứ hai xảy ra là do những người sản xuất riêng lẻ, trong khi từng người
riêng rẽ sản xuất hàng hoá cho thị trường, thì đã ở vào các quan hệ cạnh tranh với
nhau” ( 54; tr.106).
Có phải chăng một trong những “chìa khoá để hiểu được sự bí ẩn có tính chất bất di
bất dịch của những xã hội châu Á” (K. Marx) về vấn đề phân công lao động khi rời khỏi


lý luận trừu tượng để tiến một bước về phía cụ thể là nằm ở chỗ ranh giới tiếp giáp của
hai sự chuyển hoá này? Nếu đúng như vậy thì có thể đó là một hướng gợi ý tốt cho việc
nghiên cứu các vấn đề hình thành cơ cấu ngành trên cơ sở phân công lao động xã hội của
những nước kém phát triển như nước ta.
1.1.1.2 – Tái sản xuất tư bản xã hội và mối quan hệ giữa các ngành kinh tế quốc
dân

Nếu như học thuyết về phân công lao động xã hội đã chỉ ra sự hình thành các ngành
sản xuất ra sao, thì học thuyết về tái sản xuất tư bản xã hội đã trực tiếp đề cập đến các
mối quan hệ giữa các ngành trong quá trình vận động của nền sản xuất hàng hoá TBCN.
Trong nghiên cứu qúa trình tách công nghiệp ra khỏi nông nghiệp thành một ngành sản
xuất độc lập, Lênin đã nhận xét rằng; “Sự phát triển của kinh tế hàng hoá eo ipso (cũng
do đó mà) có nghĩa là một bộ phận ngày càng đông dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là
nhân khẩu công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống” (56;
tr.25).
Nhưng dẫu sao thì đó mới chỉ là nhận xét về một hiện tượng bề nổi. Đằng sau đó, cơ
chế của sự vận động và các mối quan hệ giữa các ngành đó như thế nào, chính là đối
tượng phân tích trong học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội.
Ở mức độ trừu tượng rất cao, Marx mở đầu sự phân tích quá trình tái sản xuất tư bản
xã hội bằng việc phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực lớn: tư liệu sản xuất và

vật phẩm tiêu dùng.
Khác với việc phân chia các ngành kinh tế được tiếp cận từ góc độ phân công lao
động xã hội, ở đây, xét trên phương diện của tái sản xuất tư bản xã hội, khái niệm
“ngành”= “ngành lớn”, được hiểu là “lĩnh vực” hay tập hợp các ngành (theo cách phân
chia tiếp cận từ phía phân công lao động xã hội), tuỳ theo vai trò của sản phẩm mà
chúng sản xuất ra đối với sản xuất hay đời sống trực tiếp của con người. Do đó, toàn bộ
nền sản xuất xã hội được chia thành hai “ngành lớn” hay hai “lĩnh vực”: I) sản xuất ra
các tư liệu sản xuất; và II) sản xuất ra các vật phẩm tiêu dùng.
Ở khu vực I (ngành lớn I), Marx không chia thành các khu vực nhỏ hơn theo logic tái
sản xuất mà liên hệ trực tiếp sang các ngành được hình thành từ sự phân công lao động
xã hội “Tư bản bất biến của khu vực I là một khối những nhóm tư bản khác nhau, đầu tư
vào những ngành sản xuất tư liệu sản xuất khác nhau: chừng này vào các nhà máy luyện
kim, chừng này vào mỏ than đá v.v....” (63; tr.517).
Còn ở khu vực (ngành lớn) thứ II, không những bao gồm nhiều ngành, mà trong số đó
Marx có đi sâu hơn vào mỗi bộ phận của từng khu vực, nhưng nếu không “xét về mặt
sản phẩm”, mà chỉ xét về mặt giá trị của chúng, thì nhìn chung, cái cách mà chúng vận
động trong mối quan hệ với khu vực I của quá trình tái sản xuất là như nhau.
Ở mỗi một khu vực Marx lại phân chia chúng theo khía cạnh cấu thành kĩ thuật và giá
trị. Giá trị tổng sản phẩm xã hội: (C+V+M) = Giá trị tổng sản phẩm xã hội của những
ngành thuộc khu vực I; I (c+v+m) + Giá trị tổng sản phẩm xã hội của những ngành thuộc
khu vực II: II (c+v+m).


Dựa trên cách phân chia này, Marx tiến hành giải trình các mối quan hệ giữa các
ngành thuộc hai khu vực sản xuất của xã hội. Cũng lại bằng phương pháp trừu tượng
hoá, Marx bắt đầu từ quá trình tái sản xuất giản đơn rồi suy ra những mối quan hệ giữa
hai khu vực trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Để có tái sản xuất mở rộng, tiền đề đầu
tiên là phải có tích luỹ, tức là “một bộ phận m được chi tiêu như là thu nhập, còn một bộ
phận khác thì chuyển thành tư bản” (K. Marx). Bộ phận tích luỹ để mở rộng sản xuất
này đều nằm ở cả hai khu vực, bởi nó là điều kiện không thể thiếu được cho nhau, dù

cho ở mỗi khu vực , nó được dùng dưới hình thức mở rộng thêm cơ sở sản xuất sẵn có
hay xây dựng thêm nhà máy mới thì cũng vậy.
Trong phần trình bày này, ông không hề nhấn mạnh tới “ưu thế” của một khu vực nào
đó trong hai khu vực nói trên của quá trình tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, lại không
thể chỉ căn cứ vào riêng phần này để kết luận là ông đã cho rằng mối quan hệ giữa hai
khu vực chỉ có vậy.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của tư bản, thông qua khái
niệm “cấu tạo kĩ thuật” Marx đã nêu lên “qui luật về sự tăng lên nhanh hơn của bộ phận
bất biến của tư bản so với bộ phận khả biến”, và qui luật đó, “ở mỗi bước đều được xác
minh” (62; tr.151).
Nếu đem đối chiếu với sự phân chia của Marx nền sản xuất xã hội theo quan điểm tái
sản xuất mở rộng thì thấy rằng “bộ phận bất biến của tư bản” Marx nói ở đây sẽ tương
ứng với “khu vực I”- sản xuất ra tư liệu sản xuất; còn “bộ phận khả biến” tương ứng với
“khu vực II’- sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng, và cũng có thể hiểu được rằng khu vực I
phát triển nhanh hơn khu vực II.
Theo chúng tôi, về vấn đề này cần phải lưu ý rằng, dù sao thì đó cũng là sự “đối
chiếu” của các phạm trù kinh tế ở mức độ trừu tượng rất cao của kinh tế học Mácxít.
Marx không đưa ra thêm một lời giải trình cụ thể nào về việc những ngành cụ thể này
hay khác ( theo kiểu phân ngành tiếp cận từ góc độ phân công lao động xã hội) sẽ phát
triển nhanh hơn hay chậm hơn. Thậm chí ngay cả với khu vực (“ngành lớn”) này hay
khác ( theo cách tiếp cận của tái sản xuất tư bản xã hội), ông cũng không lời khẳng định
cụ thể nào. Điều kết luận về khu vực I phát triển nhanh hơn khu vực II trong những phân
tích của ông cũng chỉ được phép hiểu trên tinh thần như vậy. Bởi vì, trong khi Mác đánh
giá rất cao sự phát triển của ngành công nghiệp cũng như cuộc cách mạng công nghiệp
đương thời, thì ngay cả trong trường hợp ấy, ông cũng luôn đứng trên quan điểm chung
với phương pháp luận trừu tượng của môn kinh tế chính trị để vạch ra những xu hướng
vận động chung, những qui luật chung mà không chỉ dẫn cho một ngành công nghiệp cụ
thể ở mức độ cụ thể nào cả.
Cũng như vậy, trong “ Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường” (1893), sau khi tóm tắt lại
toàn bộ những điều trình bày về tái sản xuất của Marx và dựa trên công thức trung tâm là

I (v + m) > IIc, Lênin đã nhận xét rằng: “Từ công thức của Marx trình bày ở trên, hoàn
toàn không thể rút ra một kết luận nào về ưu thế của khu vực I so với khu vực II: vì theo
công thức đó, cả hai khu vực đều phát triển song song” (54; tr. 96).


Tuy nhiên, với việc đưa sự thay đổi cấu tạo kĩ thuật (c/v) vào công thức và tính toán
sự thay đổi qua một số năm liên tục và sau khi phân chia khu vực I ra làm hai khu vực
nhỏ (một sự phát triển hơn so với Marx), là khu vực sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất
ra tư liệu sản xuất và khu vực sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng,
cũng như sự suy luận logic từ kết luận của Marx về tư bản bất biến tăng lên nhanh hơn
tư bản khả biến (54; tr. 92-100), Lênin đi đến nhận xét là: “Sản xuất tư liệu sản xuất để
chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất; sau đó đến sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo
tư liệu tiêu dùng” (54;tr.98).
Lênin còn phát triển thêm lý thuyết tái sản xuất tư bản xã hội của Marx trên một
phương diện khác nữa- phương diện cụ thể hoá hơn theo hướng kết hợp lại giữa hai kiểu
phân ngành theo cách tiếp cận từ tái sản xuất và từ phân công lao động xã hội. Đồng
thời, ông đã nêu ra những xu hướng tăng lên cụ thể trong các mối quan hệ giữa chúng.
“Toàn bộ tinh thần và tất cả ý nghĩa của cái qui luật nói rằng tư liệu sản xuất tăng hết sức
nhanh hơn, tóm lại là ở chỗ: việc lao động bằng máy móc thay thế lao động thủ công, nói chung là sự tiến bộ kỹ thuật trong thời đại công nghiệp cơ khí,- đòi hỏi phải phát
triển mạnh ngành khai thác than đá và sắt là những ngành “tư liệu sản xuất” thực sự
“để chế tạo tư liệu sản xuất”” (54;tr.120-121), và theo ông, đó chính là “nội dung thật
sự của quá trình ấy”.
Như vậy, từ những điều trình bày trên cho thấy rằng, nếu như lý thuyết phân công lao
động xã hội đề cập đến những điều kiện để phân chia nền sản xuất xã hội ra thành các
ngành kinh tế khác nhau, thì lý thuyết tái sản xuất lại đề cập đến điều kiện của sự kết
hợp giữa các ngành đó lại với nhau trong quá trình vận động và phát triển. Nói cách
khác, có thể xem đây là hai mặt của cùng một quá trình phát triển nền sản xuất xã hội.
Trong khi điều kiện quan trọng nhất của mặt thứ nhất là sự gia tăng năng suất lao động
nông nghiệp, thì ở mặt thứ hai, đó là sự tăng lên nhanh hơn của những ngành sản xuất ra
tư liệu sản xuất. Chính trong quá trình vận động này mà quá trình chuyển dịch cơ cấu

ngành theo hướng công nghiệp hoá đã diễn ra.
Vấn đề đặt ra là, nếu trở lại với những điều kiện giả định cần lưu ý đã nêu ở trên thì
việc vận dụng những kết luận rút ra từ phân tích lý thuyết này đối với những nền kinh tế
cụ thể là như thế nào? Có thể nói không quá rằng, đây là một trong số những vấn đề gây
tranh cãi nhiều nhất trong giới kinh tế của các nước thuộc hệ thống XHCN (cũ). Chủ đề
chính của những cuộc tranh luận là khi thực hiện quá trình công nghiệp hoá XHCN (tức
là tính chất xã hội đã hoàn toàn khác với những điều kiện giả định trong lý thuyết) thì
bắt đầu từ đâu, hay nói cách khác là phải ưu tiên cho ngành nào?
Trong quá trình tranh luận, người ta đã cố gắng tìm kiếm xem các nhà kinh điển có
những chỉ dẫn nào cho vấn đề được nêu ra trên đây hay không? Một công trình nghiên
cứu về vấn đề này đã cho thấy rằng: “Trong các tác phẩm của những nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin công bố trước đây, vấn đề quan hệ tỉ lệ giữa khu vực I và khu vực
II dưới CNXH không được xem xét riêng. K. Mác nói chung không đề cập đến vấn đề


này. Trong số các tài liệu của V.I. Lênin, thì có một số nhận xét của Người đối với
quyển “Tích luỹ Tư bản” của R. Lúcxămbua là có liên quan đến vấn đề nói trên” (78).
Đây là “một số nhận xét” của Lê Nin bác bỏ quan điểm của R. Lúcxămbua khi bà kết
luận rằng: 1) Lý luận tái sản xuất của Marx là qui luật phổ biến (allgemeines Gesetz)
dưới tất cả các hình thái xã hội; và 2) Trong CNXH, mức độ chênh lệch về tốc độ phát
triển tư liệu sản xuất, và tư liệu tiêu dùng tăng hơn so với trong CNTB.
Trái với điểm 1) của R.Lúcxămbua, Lênin không xem là một quy luật phổ biến ở tất
cả mọi hình thái kinh tế xã hội; và trái với điểm 2), ông cho rằng trong CNXH khu vực I
vẫn tăng nhanh hơn khu vực II, nhưng chênh lệch về mức độ tăng giữa khu vực I và khu
vực II dưới CNXH giảm đi rất nhiều so với dưới CNTB (78).
Và như mọi người đều biết, thực tế của qúa trình công nghiệp hoá ở các nước XHCN
về sau này (trong đó có Việt Nam) hầu như đều giống nhau ở chỗ đã giành ưu tiên cao
độ cho những ngành sản xuất tư liệu sản xuất (công nghiệp nặng) so với các ngành kinh
tế khác, chỉ có điều mức độ cụ thể của sự ưu tiên không hoàn toàn y hệt nhau mà thôi.
Đến đây, có thể tóm tắt lại một cách khái quát một số vấn đề cơ bản nhất mà học

thuyết kinh tế Macxit bàn tới vấn đề cơ cấu ngành và động thái của chúng.
1. Kinh tế học Macxit trong khuôn khổ phân tích phương thức sản xuất TBCN đã
tiếp cận vấn đề cơ cấu ngành từ hai góc độ:
Thứ nhất: Sự hình thành các ngành kinh tế quốc dân với tư cách là những ngành kinh
tế độc lập gắn liền với sự phát triển của sản xuất hàng hoá TBCN, dựa trên sự phân công
lao động xã hội. Sản xuất hàng hoá TBCN càng phát triển thì các ngành kinh tế càng mở
rộng và ngược lại. Cơ sở của sự phân công lao động xã hội là sự khác biệt về giới tính,
sự tồn tại một cách tương đối độc lập của thành thị và nông thôn, là mật độ dân số và số
lượng dân cư, và đặc biệt là sự gia tăng năng suất lao động trong nông nghiệp.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa các ngành là mối quan hệ trao đổi về mặt hiện vật và giá
trị, tuân theo qui luật của tái sản xã hội, trong đó khu vực (những ngành sản xuất) tư liệu
sản xuất tăng lên nhanh hơn khu vực (những ngành sản xuất) tư liệu tiêu dùng.
1- Ở dạng lý luận trừu tượng ( và không coi dịch vụ là một ngành sản xuất trong
cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân như các trường phái lý thuyết khác mà sau
đây chúng ta sẽ thấy), phù hợp với những điều kiện giả định, những phân tích của
kinh tế học Macxit chỉ ra rằng, những ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất ( khu vực I)
sẽ tăng lên nhanh hơn những ngành sản xuất ra tư liệu tiêu dùng ( khu vực II). Song
cũng do phương pháp nghiên cứu trừu tượng hoá (ở mức độ rất cao), mà những kết
luận rút ra từ qui luật của sự hình thành và kiểu thức của mối quan hệ giữa các ngành
kinh tế nêu trên hàm một điều bảo lưu đối với quá trình thực hiện cách mạng công
nghiệp trong những điều kiện thực tế nào đó không giống như những điều kiện được
giả định trong phân tích của Marx. Và như vậy, việc mở rộng phạm vi của những kết
luận này sang những trường hợp cụ thể khác cần phải có nghiên cứu cụ thể hơn trước
khi rút ra kết luận.


2- Với các khái niệm ngành “công nghiệp nặng” (sản xuất ra tư liệu sản xuất, khu
vực I), “công nghiệp nhẹ” (và nông nghiệp) (sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng- khu vực
II), quan điểm về ưu tiên phát triển công nghiệp nặng hầu như đã trở thành phương
châm chung của việc thực hiện công nghiệp hoá ở các nước trong hệ thống XHCN

(cũ) trong nhiều thập kỷ qua.
Với các điểm tóm tắt trên đây, rõ ràng là việc vận dụng lý luận kinh tế học Macxit vào
thực tiễn với những điều kiện hết sức cụ thể luôn còn một khoảng cách dài và vì thế, đòi
hỏi phải xem xét một loạt các vấn đề. Trong số đó, chúng tôi cho rằng có ít nhất hai loại
vấn đề nổi lên đặc biệt rõ nét.
1- Vấn đề đầu tiên là nếu một nền kinh tế cụ thể càng khác biệt so với những điều
kiện được giả định trong phân tích lý luận của kinh tế học Macxit bao nhiêu thì tính
phổ biến của những kết luận được rút ra và nêu thành qui luật trong lý luận và do đó
là khả năng vận dụng chúng càng trở nên ít hơn. Vì thế, loại vấn đề này qui định
rằng, điều cần làm trước tiên là phải xác định xem một nền kinh tế đã thực sự đạt tới
trình độ sản xuất mà ở đó, qui luật về khu vực I tăng nhanh hơn khu vực II đã có cơ
sở vật chất để hoạt động hay chưa? Nếu chưa thì thay vì việc nghiên cứu những điều
kiện và khả năng để giúp cho việc lợi dụng chúng sẽ phải là nghiên cứu những biện
pháp để đẩy nền kinh tế tiến nhanh đến chỗ đạt được trình độ đó. Thành ra, vấn đề cơ
cấu ngành của thời kì tiền công nghiệp, hay thời kì diễn biến của cách mạng công
nghiệp không thể nào tuân theo qui luật của một nền kinh tế đã hoàn thành (hay căn
bản hoàn thành) cuộc cách mạng đó.
2- Vấn đề thứ hai liên quan trực tiếp đến việc vận dụng những qui luật trên, mà
chỗ thiếu khuyết ở đây nằm ngay trong sự phân loại các ngành bằng phương pháp
nghiên cứu trừu tượng hoá. Trên thực tế, do các khái niệm “tư liệu sản xuất”, “vật
phẩm tiêu dùng”, “công nghiệp nặng”, “công nghiệp nhẹ”, gắn với những “ngành”
sản xuất là mang tính trừu tượng rất cao nên việc lượng hoá chúng lại trở nên
nghiêng về sự “qui ước” thiếu chặt chẽ. Điều đó khiến cho các nhà thống kê và quản
lý kinh tế thực sự gặp lúng túng và đã dẫn đến chỗ rất khó có được tiếng nói chung.
Vả lại, nếu đi sâu thêm, ta đều thấy rằng, sản phẩm của hầu hết mọi ngành sản xuất
vật chất, bất kể là công nghiệp hay nông nghiệp (cùng những phân ngành của nó) đều có
thể chia làm hai loại: “tư liệu sản xuất” và “vật phẩm tiêu dùng”.
Thật vậy, chẳng hạn theo quan niệm thông thường, nông nghiệp vẫn được xem là
ngành sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng cho xã hội. Nhưng, dù cho có chủ yếu là như vậy
đi nữa, thì trong quá trình phát triển, nó đang ngày càng không phải chỉ là ngành sản

xuất vật phẩm tiêu dùng. Nó trước hết phải sản xuất ra tư liệu sản xuất cho chính mình
(giống cây trồng và vật nuôi, thức ăn gia súc, súc vật cày kéo...). Và nông nghiệp càng
phát triển, sự phân công lao động xã hội càng tăng thì tỉ trọng của tư liệu sản xuất trong
sản phẩm nông nghiệp càng lớn. Đối với các sản phẩm công nghiệp cũng có tình hình
tương tự như vậy.


Vì vậy, hoá ra khó có thể nói một cách hoàn toàn chính xác được rằng việc đổ vốn
đầu tư một cách “ưu tiên” cho một ngành cụ thể nào đó (chẳng hạn khai mỏ, luyện kim,
hay điện tử chẳng hạn) là trực tiếp vận dụng “đúng đắn” qui luật về tái sản xuất mở rộng
trong học thuyết kinh tế Macxit. Và thực tế cũng cho thấy vấn đề không đơn giản đến
mức ấy. Có lẽ cũng vì vậy mà trong suốt những năm nhà nước Liên Xô quyết tâm theo
đuổi đường lối ưu tiên công nghiệp nặng và thực tế cũng đã đem lại cho quá trình công
nghiệp hoá những thành tựu hết sức nổi bật, song vẫn luôn có những cuộc tranh luận gay
gắt, thậm chí đôi khi được chính trị hoá trong lĩnh vực học thuật về việc vận dụng qui
luật này (86). Từ những năm 1970, khi những dấu hiệu của sự trì trệ và căng thẳng về
cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng bắt đầu xuất hiện thì sự điều chỉnh kế
hoạch theo hướng tập trung cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ cũng bắt đầu được đặt
ra. Tuy nhiên, điều đó vẫn dựa trên cách giải thích là qui luật khu vực I tăng nhanh hơn
vẫn đúng, nhưng trong điều kiện của CNXH có thể cho phép có những thời kì khu vực II
tăng nhanh hơn. Ở một số nước XHCN khác lúc đó cũng có những vấn đề tương tự như
vậy. Đồng thời, với việc hình thành khối SEV, sự phân công lao động quốc tế được đặt
ra một cách tích cực, ít nhiều phá vỡ lối tư duy ưu tiên công nghiệp nặng của đường lối
công nghiệp hoá trong khuôn khổ một nền kinh tế khép kín ở mỗi quốc gia bất chấp
những điều kiện cụ thể khác biệt. Vì vậy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá
trình công nghiệp hoá ở một chừng mực nhất định đã được xem xét đến ở phạm vi rộng
lớn hơn của cả cộng đồng. Và như vậy, rõ ràng là thực tế ấy đã khẳng định thêm rằng,
giữa những nguyên lý chung đúc rút ra từ sự nghiên cứu một đối tượng được trừu tượng
hoá và sự vận dụng chúng trong một nền kinh tế cụ thể là cả một khoảng cách. Nếu thiếu
sự phân tích những nhân tố khác với những điều kiện được giả định thì những điều được

coi là “vận dụng quy luật” trên thực tế chỉ còn thuần tuý mang ý nghĩa câu chữ mà thôi.
1.2.2.
Sự trình bày trong “Kinh tế học thuộc trào lưu chính”:
“Kinh tế học thuộc trào lưu chính” hay “kinh tế học thuộc trào lưu chính hiện đại”
như bản thân cách mà họ tự gọi như vậy, là một trong số những trường phái kinh tế lớn
nhất hiện nay,và cũng như điều mà họ tự khẳng định, có cội nguồn từ kinh tế học cổ
điển, hiện đang thống trị ở những trung tâm kinh tế TBCN lớn nhất thế giới: Bắc Mĩ,
Tây Âu và Nhật Bản. Tập hợp dưới ngọn cờ của “kinh tế học thuộc trào lưu chính” là
những nhà kinh tế học ở các nước tư bản công nghiệp phát triển có nguồn gốc từ nhiều
quốc tịch và lý thuyết của họ xoay quanh các vấn đề của nền kinh tế thị trường hay nền
kinh tế hỗn hợp. Vì vậy mặc dù cho sự phân nhánh những quan điểm có khác nhau ở
mức độ này hay mức độ khác, họ đều giống nhau ở một điểm: đối lập với trường phái
Macxit.
Có lẽ nhận xét quan trọng đầu tiên đối với “kinh tế học thuộc trào lưu chính” là trong
lý thuyết của họ ít bàn một cách trực tiếp tới vấn đề cơ cấu ngành giống như nó được
giành cho một vị trí rất quan trọng trong kinh tế học Macxit.


Tuy nhiên, lại có thể dễ dàng nhận ra rằng, vấn đề cơ cấu kinh tế luôn được đề cập
đến dưới hình thức này hoặc hình thức khác, và thường là nằm ở phía sau của cơ chế thị
trường trong hầu hết các vấn đề mà trường phái này phân tích.
Ngay từ cách đặt vấn đề đối tượng của kinh tế học, có ít nhất là 2 trong số 3 vấn đề cơ
bản liên quan trực tiếp tới cơ cấu ngành kinh tế.
1- Xã hội nên sản xuất hàng hoá gì và với số lượng bao nhiêu? Hàm ý rằng với
nguồn tài nguyên khan hiếm, xã hội cần phải phát triển những ngành nào để có lợi
nhất.
2- Hàng hoá cần được sản xuất ra như thế nào? Bao hàm việc lựa chọn các cách
thức kết hợp các nguồn lực trong những điều kiện nhất định để đạt hiệu quả cao nhất.
Trong cách tiếp cận vấn đề, “kinh tế học thuộc trào lưu chính” không xem xét nền
kinh tế một cách trừu tượng, nói chung, thuần tuý TBCN và không có ngoại thương như

trong phân tích của Marx. Trái lại, đối tượng nghiên cứu của học phái này là những vấn
đề thực tiễn của các nền kinh tế công nghiệp thị trường phát triển. Đối với họ, dường
như việc phát hiện ra qui luật nói chung về mối quan hệ giữa các ngành không quan
trọng. Về cơ bản, thị trường sẽ chỉ cho họ biết phải làm gì và làm như thế nào. Và như
vậy, nói chung, cơ cấu ngành hình thành như thế nào và động thái của nó trong qúa trình
phát triển nền kinh tế quốc dân ra sao, sẽ do thị trường quyết định. Thị trường sẽ đánh
tín hiệu cho các nhà sản xuất biết rằng nên sản xuất mặt hàng nào với số lượng bao nhiêu
trong điều kiện kinh tế, kỹ thuận hiện có thông qua thước đo giá cả do các lực lượng
cung- cầu trên thị trường kết hợp tạo ra. Vì vậy thì việc sản xuất ra ngô hay máy bay, thịt
bò hay tàu vũ trụ... đều có những khả năng như nhau đứng trước việc nó đem lại lợi
nhuận như thế nào.
Sự khảo sát “kinh trắc” dựa trên cách phân ngành khác với cách phân tích trừu tượng
của Marx cho thấy rằng:
1- Khu vực thứ nhất- các ngành khai thác (gồm nông nghiệp và khai khoáng) có
xu hướng giảm tỉ trọng so với khu vực thứ hai- công nghiệp chế biến; và hiện nay,
hai khu vực này đang giảm dần tỉ trọng tương đối so với khu vực ba dịch vụ, là khu
vực đang có xu hướng tăng lên trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
2- Trong phân tích, họ đã nhận thấy có những ngành công nghiệp “không có
tương lai” hay còn được gọi là những ngành công nghiệp “mặt trời lặn” xét trên
phương diện nó đang mất đi khả năng đem lại lợi nhuận trong tương lai, không kể nó
thuộc “công nghiệp nặng” hay “công nghiệp nhẹ” và mặc dù trước đây nó đã từng
đem lại lợi nhuận lớn và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế của một
quốc gia. Tương tự như vậy, đối lập với nó là những ngành công nghiệp “mặt trời
mọc”, mà hiện này thường gắn liền với kỹ thuật sản xuất hiện đại , mang tính chất trí
tuệ hay còn gọi là công nghiệp kĩ thuật cao, công nghiệp trí tuệ.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở chỗ phó mặc cho thị trường quyết định và với những
quan sát “kinh trắc” từ thực tế thì lý thuyết kinh tế này nói về cơ cấu ngành kinh tế hơi
có phần nghèo nàn, đặc biệt là so với kinh tế học Mac-xit. Thế nhưng, có lẽ điều đóng



góp quan trọng nhất của họ lại là ở chỗ tiếp tục phân tích, tuy rằng sự phát triển này theo
một hướng khác hẳn kinh tế học Macxit.
Ở tầm kinh tế vĩ mô, các nhà đầu tư sẽ căn cứ vào một loạt các nhân tố (giá vốn, giá
lao động, giá nguyên vật liệu, giá hàng hoá bán ra.., tức là phân tích các nhân tố đầu vào
- đầu ra) để quyết định xem nên đi vào lĩnh vực nào để kinh doanh. Giả định rằng các
nhân tố không đổi (hoặc ít ra là một thông số dự liệu được) thì hệ số gia tăng tư bản đầu ra ( Incremential capital-output ratio- ICOR) sẽ là một căn cứ có ý nghĩa quyết định.
Người ta cho rằng, cơ chế kinh tế thị trường có mức độ linh hoạt cần thiết đủ cho việc di
chuyển lĩnh vực kinh doanh căn cứ vào sự biến động của tỉ số ICOR. Về sau, sự phát
triển của thực tế đã cho thấy tỉ số ICOR là một căn cứ quá đơn giản và phiến diện. Và
phái “Tân cổ điển” đã đề nghị thay vào đó là một hàm sản xuất tổng hợp với đầy đủ các
yếu tố sản xuất đầu vào để xem xét quyết định đầu tư vào đâu. Nhưng dù sao thì đây vẫn
là những quyết định của các nhà doanh nghiệp mà người hướng dẫn chính là thị trường.
“Kinh tế học thuộc trào lưu chính” thừa nhận những thất bại thị trường, trong đó có việc
không thể đảm bảo phân phối các nguồn lực vào các ngành khác nhau sao cho nền kinh
tế đạt mức độ hiệu quả nhất (97; tr.35). Tuy nhiên, một trong số điểm chính yếu đối lập
với kinh tế học Macxit, là họ không thừa nhận sự thất bại của thị trường cuối cùng sẽ
dẫn đến những cuộc khủng hoảng làm tiêu diệt CNTB, trong đó, cơ chế thị trường hoạt
động. Họ đã nói một cách không úp mở rằng: “Nếu như những người Macxit chờ cho
CNTB sụp đổ trong một cuộc khủng hoảng cuối cùng thì họ chờ uổng công” (97;
tr.250).
Cơ sở của lời tuyên bố đó được gửi trọn vào những biện pháp nằm trong tay chính
phủ. Hễ ở đâu và lúc nào xuất hiện những thất bại thị trường- nền kinh tế hoạt động dưới
tiềm năng, lạm phát và thất nghiệp nảy sinh v.v.. là chính phủ nhảy vào can thiệp với
chức năng được xác định rõ ràng là “làm phẳng các chu kì kinh tế” và duy trì sự ổn định.
Với các công cụ chủ yếu là chính sách tài chính, chính sách tiền tệ và chính sách thương
mại, các chính phủ trong nền kinh tế công nghiệp thị trường làm thay đổi các thông số ở
đầu vào để sao cho có được đầu ra thích hợp đối với từng ngành, đặng qua đó hướng dẫn
sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào các ngành khác nhau theo ý muốn.
Tuy nhiên, trong quá trình can thiệp vào kinh tế, họ cũng luôn dè chừng những khả
năng có “thất bại của Chính phủ”, bởi chỗ bao hàm trong những biện pháp can thiệp là

việc làm xơ cứng cơ chế linh hoạt vốn có của thị trường thông qua việc làm biến dạng
các thông số của các yếu tố sản xuất. Và trên thực tế thì quả là cũng có tình trạng như
vậy. Bằng chứng là chính phủ đã không thể lấp đầy những lỗ hổng mà thị trường TBCN
tạo ra. Những khuyết tật của thị trường có được khắc phục ở một mức độ nào đó, nhưng
không thể xoá bỏ được, thậm chí đôi khi có những mặt nào đó lại trở nên trầm trọng
hơn.
Việc can thiệp của chính phủ thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ và thương
mại- còn gọi là các chính sách kinh tế vĩ mô- có thể được thực hiện bằng cách trực tiếp
hoặc gián tiếp.Ở một số ngành mà tư nhân không đủ khả năng hoặc không muốn kinh


doanh như cơ sở hạ tầng giao thông, cung cấp điện, nước v.v...thì chính phủ trực tiếp
kinh doanh. Những qui định về lợi tức ngân hàng, thuế quan, hạn ngạch, ngoại hối, thuế
bảo hiểm, bảo vệ môi trường v.v... là danh mục nằm trong các chính sách gián tiếp
nhưng rất có ảnh hưởng đối với các công ty kinh doanh khi quyết định đầu tư vào những
ngành sản xuất nhất định.
Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, vai trò can thiệp của nhà nước TBCN vào lĩnh vực
cơ cấu là một điểm tiến hơn so với thời của Marx và Lênin, và là một sự “xích gần” của
lý thuyết thị trường điều tiết với lý thuyết “kế hoạch hoá”. Điều này đặc biệt rõ ràng khi
xem xét tới những nền kinh tế cụ thể. Chẳng hạn, cùng dựa trên nền tảng lý luận của
“kinh tế học thuộc trào lưu chính”, nhưng trong khi nhiều nước thiên về xu hướng “để
mặc thị trường” (Laissez-faire) như Mỹ, thì Nhật bản là một điển hình về sự can thiệp
sâu của Nhà nước. Có lẽ do tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp muộn hơn so với các
nước TBCN công nghiệp phát triển khác nên chính phủ Nhật dã phải “dẫn dắt nỗ lực
công nghiệp hoá, nghĩa là nó đảm nhiệm những chức năng phát triển”, bằng cách đưa ra
những “chính sách công nghiệp” và “chính sách cơ cấu” cụ thể. Ở đây, “chính sách cơ
cấu công nghiệp dựa trên những tiêu chuẩn như là tính co giãn thu nhập của cầu, chi phí
sản xuất so sánh, sức thu hút lao động, những mối quan tâm về môi trường, tác dụng của
đầu tư đối với các ngành công nghiệp có liên quan và những triển vọng xuất khẩu”. Cơ
sở của những chính sách ấy dựa trên một quan niệm “cho rằng chính phủ chỉ cần quan

tâm tạo ra một môi trường thuận lợi cho các ngành công nghiệp mà không nói cho họ
biết cần làm gì, thì đó là một quan điểm hết sức chủ quan (của nhà kinh doanh)”, và “cứ
bám lấy tự do tuyệt đối sẽ không cứu được giới công nghiệp ra khỏi những sự rối ren
hiện nay của nó. Công nghiệp cần có một kế hoạch phát triển toàn diện và một biện pháp
kiểm soát”. Vì vậy, khi nghiêng về “tính hợp lý kế hoạch” hơn là “tính hợp lý thị
trường” ngay trong khuôn khổ của “kinh tế học thuộc trào lưu chính”, người ta đã cho
rằng “cái đó khiến Nhật Bản gần gụi hơn với kinh nghiệm của một loạt nước khác“những nền kinh tế kế hoạch hoá ở trung ương” (44).
Như vậy, có thể thấy rằng:
1- Với việc giải quyết những vấn đề của nền kinh tế thị trường, kinh tế học thuộc
trào lưu chính hiện đại đã không tiếp cận vấn đề cơ cấu ngành như trong kinh tế học
Macxit. Họ không đi tìm kiếm những nguyên lý chung trừu tượng mà chủ yếu nhằm
vào những vấn đề mà đời sống kinh tế đặt ra.
2- Các ngành kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân được phân chia thành: khu
vực I với các ngành nông nghiệp và khai khoáng (Primarysectors), khu vực II với các
ngành công nghiệp chế tạo (manufacturingsectors) và khu vực III với các ngành dịch
vụ (services). Nhiều khi trong phân tích, ta bắt gặp sự phân chia thành ba ngành lớn:
nông nghiệp (agriculture), công nghiệp (Industry) và dịch vụ (service); hoặc nữa là
các ngành sản xuất ra sản phẩm đầu tư trong sự phân biệt với các ngành sản xuất ra
sản phẩm tiêu dùng; các ngành có hàm lượng vốn, lao động hay khoa học-công nghệ
cao v.v... Những mối quan hệ giữa các ngành kinh tế quốc dân được phân tích dựa


trên kiểu phân chia này và do vậy, rõ ràng khác với trong kinh tế học Macxit là học
thuyết trong đó không xếp khu vực dịch vụ vào phạm trù sản xuất xã hội. Trái lại,
khu vực dịch vụ được họ xem như một bộ phận cấu thành của cơ cấu ngành của nền
sản xuất xã hội giống như những khu vực khác. Điều này còn được phản ánh cụ thể
trong các chỉ tiêu về hệ thống thống kê theo hệ SNA (System of National Account),
khác với hệ thống thống kê MPS (Material Product System) được dùng trong các
nước XHCN (cũ).
3- Sự vận động của các ngành trong mối quan hệ với nhau qua thời gian chủ yếu

do thị trường quyết định. Ở chỗ này, kinh tế học thuộc trào lưu chính có những đóng
góp to lớn vào việc phân tích và các phương pháp đánh giá các nhân tố đầu vào- đầu
ra trongkhi quyết định đầu tư. Cũng tương tự như vậy là các biện pháp chính sách can
thiệp của nhà nước trong việc tác động nhằm hướng cơ cấu ngành chuyển dịch theo
những mục tiêu đã định. Tuy nhiên, sự tương tác giữa các lực lượng thị trường và nhà
nước không dẫn đến một khuôn mẫu chung về thứ tự ưu tiên phát triển của một số
ngành nào đó đối với mọi quốc gia công nghiệp thị trường phát triển.
4- Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường hiện nay, việc khảo cứu những
vấn đề cơ cấu này của lý thuyết kinh tế này trở nên cần thiết và cấp bách hơn trước,
song cũng cần ghi nhớ rằng những thành quả mà chúng đạt được luôn gắn liền với
những điều kiện của một nền kinh tế công nghiệp thị trường phát triển. Vượt ra khỏi
khuôn khổ đó, những mặt ưu thế cũng như hạn chế của lý thuyết này sẽ biểu hiện cụ
thể như thế nào, cho đến nay, vẫn đang còn là vấn đề để ngỏ.
1.2.3- Sự trình bày trong “Kinh tế học của sự phát triển”
“Kinh tế học của sự phát triển” bao gồm rất nhiều những lý thuyết kinh tế giành cho
các nước chậm phát triển hoặc thế giới thứ ba. Trong chừng mực của đề tài này, các
nước chậm phát triển có thể được hiểu là những nước chưa thực hiện xong quá trình
công nghiệp hoá. Vì vậy, sự phát triển đối với những nước này luôn hàm ý việc thực
hiện quá trình công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù những lý thuyết này hết sức đa dạng, nhưng nếu nhìn một cách khái quát, có
thể thấy “kinh tế học của sự phát triển” đi theo hai xu hướng chính: 1- Chủ yếu dựa trên
những lý thuyết phân tích kinh tế thị trường nói chung để giải quyết các vấn đề của các
nước chậm phát triển mà ít chú ý đến tính đặc thù của chúng; và 2- Chủ yếu xuất phát từ
những đặc điểm đặc thù của các nước thế giới thứ ba để xem xét các vấn đề phát triển
của họ (110). Song, dù có đi theo hướng nào thì họ cũng chủ yếu sử dụng hệ thống các
phạm trù, khái niệm của kinh tế thị trường trong nghiên cứu qúa trình phát triển của các
nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, so với “kinh tế học thuộc trào lưu chính”, “kinh tế học của sự phát triển”
chú ý nhiều hơn tới vấn đề cơ cấu các ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá. Họ
coi sự thay đổi cơ cấu ngành, đặc biệt là sự chuyển dịch theo hướng ngày càng tăng tỉ

trọng ngành công nghiệp là một trong ba nội dung của phát triển. Có thể thấy rõ điều này
qua một số lý thuyết phát triển thường được nhắc đến sau đây.


1.2.3.1 – Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế :
Người chủ xướng lý thuyết này là Walt Rostow (141; tr.91), rất nổi tiếng với việc
phân chia sự phát triển kinh tế ra làm 5 giai đoạn với các đặc trưng cơ bản sau:
1. Xã hội truyền thống cũ với đặc trưng là năng suất lao động thấp, sản xuất nông
nghiệp chiếm vị trí thống trị và kém linh hoạt về mặt xã hội.
2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh- đã có một tầng lớp chủ xí nghiệp đủ khả năng
thực hiện đổi mới, cơ cấu hạ tầng phát triển, đặc biệt là giao thông. Bắt đầu xuất hiện
những khu vực có tác động lôi kéo nền kinh tế (leading sectors), tức là hình thành các
cực tăng trưởng.
3. Giai đoạn cất cánh (take-off) được xác định là giai đoạn đáp ứng cả ba yêu cầu
sau: nâng tỷ lệ đầu tư cho sản xuất từ 5% hoặc ít hơn lên hơn 10% thu nhập quốc dân
(national income or net national product); phát triển một hoặc nhiều ngành chế biến
với tốc độ tăng trưởng cao; hình thành cơ cấu chính trị, xã hội và thể chế để thúc đẩy
mạnh mẽ khu vực hiện đại, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
4. Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi về kinh tế- tỷ lệ đầu tư lên tới từ 10 đến
20% thu nhập quốc dân. Xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới, chẳng hạn điện năng,
luyện kim, hoá chất..., thay thế vai trò của các ngành đã làm cơ sở cho quá trình cất
cánh.
5. Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt- nền sản xuất đa dạng hoá, thị trường linh hoạt
và mức tăng trưởng có hiện tượng suy giảm.
Lý thuyết này được rất nhiều người nghiên cứu về công nghiệp hoá biết đến bởi điều
kiện tiền đề bắt buộc phải có cho sự “cất cánh” đã nêu ở bước chuyển tiếp từ giai đoạn
thứ 2 sang giai đoạn thứ 3. Tuy không trực tiếp đề cập tới bản thân cơ cấu ngành kinh tế
cũng như sự chuyển dịch của chúng trong quá trình công nghiệp hoá, song việc xác định
các đặc điểm đặc trưng của mỗi giai đoạn quả là rất có ý nghĩa đối với việc khảo cứu vấn
đề này. Vấn đề là ở chỗ, đối với các nước chậm phát triển đang mong muốn bước vào

giai đoạn “cất cánh” (đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá) thì đã có đủ những tiền đề
cần thiết hay chưa? Nếu chưa thì rõ ràng nhiệm vụ hàng đầu tại thời điểm đó sẽ phải là
thúc đẩy việc hình thành những tiền đề cần thiết để chuyển sang giai đoạn “cất cánh”.
Một điều nữa là, việc nhấn mạnh tới các cực tăng trưởng và sự thay đổi vị trí ấy giữa các
ngành khác nhau qua mỗi giai đoạn rõ ràng gợi ý về một cơ cấu ngành trong đó thứ tự
ưu tiên của chúng không giống nhau mà mỗi quốc gia phải tính đến. Về điểm này nó rất
gần gũi với lý thuyết phát triển “cơ cấu ngành không cân đối” mà sau đây chúng tôi sẽ
đề cập tới.
1.2.3.2 – Các lý thuyết nhị nguyên:
Người mở đầu trường phái nhị nguyên khi xem xét các vấn đề của nền kinh tế của các
nước chậm phát triển là W.Arthur Lewis (giải thưởng Nobel năm 1979). Với lý thuyết
nhị nguyên, ông được coi là một trong số những người đi tiên phong trong việc tiếp cận
đời sống kinh tế của các nước thế giới thứ ba từ những đặc điểm đặc thù của chúng. Tư
tưởng cơ bản của lý thuyết nhị nguyên của Lewis dựa trên những nhận định rằng:


- Trong các nước chậm phát triển có trạng thái nhị nguyên về kinh tế, tức là có
hai khu vực song song tồn tại: khu vực kinh tế truyền thống và khu vực kinh tế du
nhập, thường là nền kinh tế công nghiệp TBCN tiên tiến. Vì vậy, để phát triển, vấn đề
đặt ra ở các nước này là phải chuyển càng nhanh càng tốt khu vực sản xuất truyền
thống sang khu vực hiện đại. Con đường cơ bản để thực hiện bước chuyển đó là công
nghiệp hoá, trong đó các ngành công nghiệp hiện đại giữ vai trò đầu tàu, làm khởi
động quá trình tăng trưởng.
- Trong khu vực sản xuất truyền thống, mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, có
tình trạng dư thừa lao động. Sự dư thừa lao động ở đây được hiểu là có thể giảm số
lượng lao động mà không làm giảm sản lượng sản xuất ra. Vì thế, việc chuyển số lao
động dư thừa này sang khu vực công nghiệp hiện đại sẽ cho phép thực hiện quá trình
tăng trưởng. Ở khu vực sản xuất nông nghiệp truyền thống luôn có một lực lượng lao
động mong muốn có việc làm và hễ ở đâu có được mức thu nhập cao hơn so với hiện
tại thì sẽ có ngay sự di chuyển lao động đến đó.

- Khu vực công nghiệp hiện đại là hình ảnh đối ngược với khu vực truyền thống,
sử dụng lao động làm công ăn lương. Ở khu vực này, theo thông lệ, người lao động
tạo ra giá trị lớn hơn mức lương mà họ được hưởng, và vì vậy, nhà tư bản có điều
kiện mở rộng nguồn vốn tích luỹ của mình, nghĩa là có khả năng tự phát triển một
cách độc lập, không phụ thuộc vào điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế. Mức
lương thực tế ở khu vực công nghiệp hiện đại có xu hướng ít thay đổi bởi chịu áp lực
từ hai phía: một mặt là mức thu nhập không thể ít hơn mức chi phí cho tái sản xuất
sức lao động; và mặt khác, lại không thể cao hơn nữa do tồn tại đội quân lao động dự
trữ đông đảo ở nông thôn luôn sẵn sàng rời bỏ đồng ruộng để đi tìm việc làm mới.
Như vậy, lý thuyết nhị nguyên của Lewis cho rằng giữa hai ngành công nghiệp và
nông nghiệp ở nền kinh tế của các nước chậm phát triển có tình trạng hoạt động tương
đối biệt lập, một bên trì trệ, một bên phát triển năng động và không phụ thuộc vào nhau.
Sự nghèo nàn của nền kinh tế, do vậy, trực tiếp là hệ quả của sự yếu kém trong khu vực
truyền thống. Và con đường đi lên sẽ phải là công nghiệp hoá, phát triển mạnh công
nghiệp mà không cần quan tâm đến nông nghiệp, bởi công nghiệp sẽ hút dần lao động từ
khu vực nông nghiệp ra để chuyển sang khu vực công nghiệp hiện đại.
Tính chất độc đáo trong lý thuyết nhị nguyên của Lewis đã gây ấn tượng mạnh và có
ảnh hưởng lớn đến các nước chậm phát triển đang mong muốn tăng cường quá trình
công nghiệp hoá. Nó cũng tạo ra cơ sở cho một hướng đi mới mà nhiều nhà kinh tế đã đi
theo trong việc nghiên cứu kinh tế ở các nước chậm phát triển.
Dựa trên tư tưởng cơ bản của Lewis, John Fei và Gustav Ranis đã phát triển lý thuyết
của mình theo hướng phân tích những khả năng tiếp nhận lao động mới của khu vực
công nghiệp. Fei va Ranis đã trực tiếp xem xét mối quan hệ giữa công nghiệp và nông
nghiệp, và cho rằng trong khu vực công nghiệp có nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật, đến
mức có thể thu hút được lao động thừa từ khu vực nông nghiệp tới, thông qua việc áp


×