Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đề cương quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.92 KB, 23 trang )

Câu 1: Đ/c hãy phân tích những nội dung cơ bản của thời đại trong giai đoạn hiện nay?
Bài làm
Thời đại ngày nay và mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc là vấn đề cơ bản, cần thiết đối
với một Đảng cách mạng. Việc nhận thức đúng đắn về thời đại có ý nghĩa quyết định tới việc xác
định đường lối chiến lược của cách mạng. Do vậy, việc xem xét thời đại một cách khoa học,
khẳng định thời đại một cách đúng đắn là sự cần thiết và là đòi hỏi bức xúc hiện nay. Mỗi một
thời đại đều mang trong mình những nội dung, tính chất và đặc điểm khác nhau, bên cạnh đó nó
còn chứa đựng những mâu thuẩn với những hình thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau.
Quan niệm thời đại, thời đại ngày nay và giai đoạn hiện nay
Thời đại là một khái niệm dùng để chỉ sự phân kỳ lịch sử XH để phổ biến những nấc thang
trong quá trình phát triển của lịch sử XH loài người theo những tiêu chuẩn nhất định do những đặc
trưng khách quan của thời đại đó qui định. Nói cách khác, thời đại là thời kỳ lịch sử tương đối dài
có nét riêng biệt về chất, được tách ra trên cơ sở những đặc trưng khách quan nhất định. Khái
niệm thời đại còn được thay thế bởi các từ: giai đoạn, thời kỳ, nền văn minh, tên vĩ nhân,...
Thời đại ngày nay là thời đại chúng ta đang sống, là thời đại mới, bắt đầu bằng sự thắng lợi
của cách mạnh XHCN tháng 10 Nga năm 1917 ở Nga. Theo Lênin: nội dung của thời đại mới là
xóa bỏ CNTB đồng thời phải thiết lập những cơ sở của XH mới XH XHCN và CSCN.
Giai đoạn hiện nay của thời đại được tính từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chứa đựng nhiều
bước vận động quanh co, phức tạp của lịch sử. Nhìn từ nền tảng vật chất của xã hội loài người,
giai đoạn hiện nay được đặt trưng bằng sự hiện diện mạnh mẽ của nền sản xuất hậu công nghiệp,
của nền kinh tế tri thức, của công nghệ thông tin…
Quan điểm của Mác-Lênin về thời đại ngày nay
Mác khẳng định loài người đã trải qua 4 hình thái KT – XH: CSNT, Chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, TBCN. Mỗi hình thái KT - XH là một thời đại lịch sử nhất định có phát sinh, phát triển và
diệt vong. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng từ hình thái KT - XH này lên hình thái KT - XH khác
phải có thời kỳ tích lũy dần về lượng để biến đổi về chất. Do vậy thời kỳ quá độ có thời gian dài
chia thành nhiều bước đi, giai đoạn. Nó chứa đựng sự đan xen giữa các nhân tố của các hình thái
KT - XH, giữa cái cũ và cái mới, giữa các quốc gia có các chế độ chính trị khác nhau.
Chính thắng lợi của cuộc CM tháng 10 Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới: đó
chính là thời đại quá độ lên chủ nghĩa XH, nó tạo ra hai xu thế chính trị XH đối lập với CNTB;
1




mở đầu một hình thái KT - XH mới mà về chất nó khác hẳn hình thái KT - XH trước đó (nó xóa
bỏ mọi hình thức áp bức bóc lột, nó đưa lại sự bình đẳng cho các dân tộc).
Như vậy, rõ ràng nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là thời đại quá độ mà loài người đang
loại bỏ CNTB, tiến lên chế độ tốt đẹp hơn, giải phóng lao động, tránh khỏi những cuộc chiến tranh
đế quốc, mọi người đều sống trong hòa bình. Lênin cũng chỉ rõ thời đại ngày nay, giai cấp vô sản
trở thành giai cấp thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời đại quyết định sự vận động của lịch sử.
Đề ra Cương lĩnh đúng đắn để quần chúng làm cách mạng.
Quan điểm của Đảng ta về thời đại ngày nay
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê nin và nhận thức và vận dụng lý luận thời đại của Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh (tư tưởng của Người về thời đại “vượt tầm các lãnh tụ của Quốc tế cộng
sản đương thời”) vào thực tiễn Cách mạng Việt Nam trước sự vận động đầy phức tạp của nền
chính trị thế giới và nhất là những biểu hiện có tính chất đặc thù trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể.
Đảng ta đã nhận định: Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên
phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc CM tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh
cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa XH, gắn liền với cuộc CM khoa
học kỹ thuật và công nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật XH ngày càng đầy đủ
cho việc chuyển lên chủ nghĩa.
Đảng cũng chỉ rõ: Thời đại quá độ lên CNXH là thời đại đan xen giữa CNXH và CNTB.
CNXH sẽ ngày càng mạnh hơn và mở rộng từ một nước ra nhiều nước. Còn CNTB thì ngày càng
suy yếu và thu hẹp. Đó là xu thế chung có tính quy luật xuyên suốt trong thời đại.
Đại hội VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Chế độ XHCN ở Liên Xô và
các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó
không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên
chủ nghĩa XH.
Đại hội XI thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ
sung và phát triển năm 2011): Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh

tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có
2


những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội.
Tóm lại, trong thời kỳ đổi mới tư duy về thời đại của Đảng CSVN thể hiện rõ ba điểm chính:
Việt Nam luôn kiên định mục tiêu XHCN, nhưng nhận thức rõ và càng đầy đủ hơn về sự quá độ
về tính chất lâu dài và phức tạp của nó; Việt Nam ngày càng nhận thức rõ và đầy đủ về sự tác
động của cuộc CM KH-CN, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đối với mọi mặt đời sống từ tự nhiên
đến xã hội để có những giải pháp ứng phó; Tuy nhiên chiến tranh và hòa bình là hai vấn đề cơ bản
của chính trị quốc tế có sự thay đổi căn bản.
Những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay:
Một là, cuộc CM KH-CN có bước phát triển nhảy vọt đạt được những kỳ tích to lớn.
Cuộc cách mạng KH-CN diễn ra mạnh mẽ, đạt được nhiều kỳ tích, tác động đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế đương đại. KH-CN và sản xuất không
còn là 3 lĩnh vực tách rời nhau, trái lại những phát minh KH, chuyển hóa thành công nghệ và đưa
vào sản xuất đại trà ngày càng thống nhất trong một quá trình, và khoảng cách từ nghiên cứu đến
ứng dụng vào sản xuất ngày càng rút ngắn.
CM KH-CN trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến những biến đổi khó lường về KT-XH, VH, tư
tưởng, lối sống và cả kiến trúc thượng tầng chính trị và xã hội. KH- CN có thể “làm phẳng thế
giới”, nhất là trên lĩnh vực công nghệ thông tin. Đòi hỏi mỗi một quốc gia thể đổi cơ chế quản lý,
cải cách hành chính, từ bỏ mô hình quản lý không hợp lý.
KH-CN là sản phẩm trí tuệ của nhân loại, tuy nhiên CNTB chi phối và đã sử dụng tối đa
những thành tựu ấy để củng cố, tăng cường địa vị thống trị của mình. Tuy nhiên, nhiều nhận định
cho rằng: Công nghệ thế kỷ XX, XXI càng nguy hiểm đối với trật tự TBCN vì chúng nhanh chóng
làm cho LLXS không tương dung với trật tự ấy.
Hai là, toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia.
Xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng

nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.
Toàn cầu hóa có tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển.
Nó tháo dở các rào cản đối với tự do thương mại, làm cho giao lưu kinh tế diễn ra mạnh mẽ nhanh
chóng. Toàn cầu hóa tạo môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, buộc các nước phải có tư duy
năng động, có cơ chế quản lý, bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả. Toàn cầu hóa và cách mạng
3


thông tin tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tiếp cận nhanh chóng những thành tựu văn hóa, khoa
học của loài người, đồng thời có điều kiện đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển của văn minh
nhân loại.
Bên cạnh đó, toàn cầu hóa tác động không nhỏ đến các nước đang phát triển, làm tăng tính phụ
thuộc vào bên ngoài về vốn, công nghệ và thị trường,… bị lệ thuộc về kinh tế dẫn đến sự lệ thuộc về
chính trị gây nguy hại đến chủ quyền và an ninh quốc gia.
Sự khủng hoảng tài chính thế giới và suy thoái kinh tế toàn cầu để lại hậu quả nặng nề, tác động
không chỉ riêng quốc gia nào mà ảnh hưởng trên toàn cầu, trên mọi lĩnh vực.
Hay hiện tượng Brexit (Anh rời khỏi Liên minh Châu Âu) được xem như một biến cố to lớn đối
với EU nói riêng, và là một sự kiện chính trị quan trọng thu hút sự quan tâm của các quốc gia và khu
vực khác nói chung, trong đó có Việt Nam. Trước sự kiện này tất cả các quốc gia lớn nhỏ dường như
đều có chung câu hỏi lớn cho toàn cầu vì lợi ích quốc gia, dân tộc, tách ra hay là sáp nhập? Liệu việc
Anh rời khỏi EU có tác động đến quốc gia khác không? Nó sẽ tác động thế nào? Những lĩnh vực hợp
tác nào sẽ chịu nhiều ảnh hưởng nhất?
Ba là, quan hệ giữa các nước lớn – nhân tố rất quan trọng tác động đến sự phát triển thế giới.
Trong số hơn 200 quốc gia, một số cường quốc có sức chi phối lớn đối với chính trị, kinh tế thế
giới và quan hệ quốc tế đương đại. Căn cứ vào sức mạnh tổng hợp, ảnh hưởng thực thế, những quốc
gia sau đây được cộng đồng thế giới xem là nước lớn: Mỹ, Canada, Braxin, Nga, Anh, Pháp, Đức,
Italia, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Phi.
Các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
thế giới. 12 nước lớn chiếm hơn 1/3 lãnh thổ và quá nữa dân số thế giới, hơn 70% GDP của cả thế
giới. Đa số các nước lớn là những cường quốc hàng đầu về kinh tế, KH-CN, sức mạnh quân sự. 5

nước là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, nhóm G7 là nước tư bản phát triển nhất.
Các nước lớn không phải là một khối thống nhất mà là một tập hợp đầy mâu thuẫn. Quan hệ
giữa các nước lớn gồm nhiều loại: đồng minh, liên kết, không liên kết, đối tác, đối thủ, đối thủ trực
tiếp, đối thủ tiềm tàng,… hết sức phức tạp.
Bốn là, cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc tiếp diễn và ngày càng tăng lên. Xung
đột dân tộc, tôn giáo tiếp tục bùng phát với những diễn biến có nhiều nguy cơ khó lường.
Sau sự kiện Liên Xô tan rã, mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc ngày càng phức tạp; đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên thế giới không dịu đi mà tiếp tục diễn ra gay gắt dưới những
4


hình thức mới. Nhưng cuộc đấu tranh đó vẫn là động lực cho việc loại bỏ trật tự xã hội lỗi thời,
bất công, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ở các nước TB phát triển cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, xung đột tôn giáo vẫn
tiếp diễn, song đấu tranh giai cấp, xung đột sắc tộc, tôn giáo vẫn nổi trội và gay gắt hơn đấu tranh
dân tộc. Nội dung chính của đấu tranh giai cấp ở các nước TB những năm qua là phong trào công
nhân lao động chống các chính sách tăng cường áp bức, bóc lột, xâm phạm lợi ích người lao động
của chính quyền đại diện lợi ích các công ty tư bản kết xù. Phong trào chống “mặt trái toàn cầu
hóa” lan mạnh khắp các nước tư bản phát triển. Thực chất không phải là chống giao lưu quốc tế,
tự do thương mại … mà là đấu tranh bảo vệ lợi ích sống còn của người lao động trước sự tấn
công, sự lấn tới của TB độc quyền.
Tại các nước XHCN trước đây, do chế độ XHCN sụp đổ ở LX, Đông Âu, quan hệ giai cấp đã
thay đổi căn bản. Người lao động bị bóc lột nặng nề, hàng triệu người thất nghiệp, đời sống khó
khăn, điêu đứng. Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc diễn ra dưới nhiều hình thức, chủ yếu là
đấu tranh hợp pháp như biểu tình, bãi công, hội thảo, đấu tranh báo chí, trên các diễn đàn. Đấu
tranh nghị trường là hình thức đấu tranh rất quan trọng và phổ biến của đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc. Trong vài thập kỷ tới, chưa thể nói đến triển vọng nhân dân giành chính quyền khôi
phục chế độ XHCN.
Ở các nước đang phát triển, mâu thuẫn giai cấp và dân tộc đều sâu sắc, song đấu tranh dân
tộc và đấu tranh chống tư bản nước ngoài phát triển hơn so với đấu tranh giữa lao động và tư bản

trong nội bộ quốc gia dân tộc. Đa số các nước đang phát triển đứng trước hàng loạt vấn đề về kinh
tế - xã hội, chính trị phức tạp như đói nghèo, bệnh tật, thất học, ô nhiễm môi trường,… vấn đề cơ
bản và bức xúc nhất là vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc trước chủ nghĩa đế quốc bá
quyền, chủ nghĩa thực dân mới, trước những tiêu cực của toàn cầu hóa.
Độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc là vấn đề lớn nhất, bức xúc nhất của thời đại hiện nay.
Bóc lột dân tộc tiếp tục là điều kiện tồn tại của CNTB độc quyền. Các dân tộc nhỏ yếu chậm phát
triển không những bị bóc lột mà còn có nguy cơ bị đẩy ra bên lề cuộc sống hiện tại. Hố ngăn cách
giữa “khu vực trung tâm” và “khu vực ngoại vi” của thế giới tư bản ngày càng sâu rộng thêm. Các
chính sách đế quốc tiếp tục được áp dụng đối với các nước đang phát triển, trong đó nguy hiểm
nhất là chính sách xâm lược, chia để trị, can thiệp trắng trợn vào nội bộ các nước. Mỹ đang thi
hành chính sách đế chế ngay trong thời đại văn minh.
5


Năm là, nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu hết sức bức xút, đòi hỏi phải có sự
hợp tác đa phương để giải quyết.
Chưa bao giờ nhân loại đang phải đối phó với rất nhiều vấn đề mang tính toàn cầu đòi hỏi
phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta
nhấn mạnh: Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến
vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ
môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa
và đảy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo… Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và
tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề này có từ lâu, nhưng chưa bao giờ chúng trở thành vấn đề lớn, nghiêm trọng
ảnh hưởng đến sự phát triển của các quốc gia, tương lai của loài người như hiện nay. Đó là sự
nóng lên của trái đất với vấn đề hiệu ứng nhà kính; vấn đề ô nhiễm môi trường với việc xử lý rác
thải; khủng hoảng sinh thái; các bệnh lây nhiễm HIV/AIDS, SARS, dịch cúm gia cầm; nghèo đói,
hiện nay di cư,… Giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào đường lối của mỗi quốc gia và do đó
phong trào quần chúng đòi giải quyết các vấn đề toàn cầu là một bộ phận của cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới.

Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay
Thực tiễn cuộc vận động của lịch sử cuối thể kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI chỉ rõ,
CNXH hiện thực vẫn tồn tại ở một số nước, đặc biệt là tư tưởng XHCN vẫn đang là sự lựa chọn
của nhiều dân tộc trên con đường phát triển. Bốn mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn còn nguyên
vẹn trong giai đoạn hiện nay của thời đại, cho dù tình hình có những thay đổi trong từng mặt đối
lập cấu thành mâu thuẫn, trong hình thức biểu hiện và mức độ gay gắt của nó. Các mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn giữa CNXH với CNTB. Đây là mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt của thời đại trong
tiến trình vận động của lịch sử nhân loại, xét cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Đây là mâu thuẫn
giữa 2 hình thái KT-XH mang bản chất đối lập không thể điều hòa được. Vì vậy, cho dù CNXH bị
đỗ vỡ một bộ phận, không còn là một hệ thống, nhưng vẫn còn tồn tại các nước XHCN, đặc biệt,
hệ tư tưởng XHCN vẫn tồn tại trong niềm tin của giai cấp công nhân và nhâ dân lao động trên thế
giới. Vấn đề ai thắng ai giữa CNXH và CNTB vẫn là vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh hiện
nay trên thế giới.
6


- Mâu thuẫn giữ giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động vẫn là mâu
thuẫn cơ bản xuyên suốt hiện nay. CNTB không thể tồn tại nếu không duy trì bóc lột giá trị thặng
dư đối với giai cấp công nhân và nhân dân thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù CNTB đã
có sự ổn định tam thời và phát triển do nắm bắt và làm củ được những bước tiến nhảy vọt của
cuộc CM KH-CN, nhân lúc CNXH gặp những thất bại tạm thời, các nhà nước tư sản đã có những
điều chỉnh mới trong phương thức thống trị và trong bóc lột giá trị thặng dư một cách tinh vi,
trong chính sách phân tần dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu giai cấp công nhân, nhưng những
mâu thuẫn giữa công nhân và tư sản không vì lẽ đó mà giảm sút hoặc đã mất đi.
Mâu thuẫn giữa lao động và tư bản là mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong giai đoạn hiện nay và nó
càng có nguy cơ bùng phát khi CNTB hiện đại và các công ty xuyên quốc gia thực hiện sự áp đặt,
khống chế đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước.
Hiện tại, CNTB còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc
lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa,

chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc, khủng hoảng kinh tế, CT-Xh
vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân
lao động sẽ quyết định vận mệnh của CNTB.
- Mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển và chậm phát triển trong cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc, ổn định, phát triển đang ngày càng trở nên gay gắt hơn.
Thế kỷ XX đã qua đi, đánh dấu sự toàn tháng của cách mạng giải phóng dân tộc trên phạm vi
toàn thế giới. Chù nghĩa tư bản hiện đại không còn hệ thống thuộc địa. Chủ nghĩa thực dân cũ đã
bị loại bỏ hoàn toàn. Chủ nghĩa thực dân mới đã bị đánh sập một bước quan trọng. Các dân tộc đã
giành được độc lập dân tộc ở những mức độ khác nhau.
Tuy nhiên, 10 năm cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã
bị đổ vỡ một mảng lớn ở Đông Âu và Liên Xô. Cục diện thế giới từ hai phe với ba dòng thác cách
mạng đã dần chuyển đến cục diện thế giới “nhất siêu, đa cường”. Lợi dụng những khó khăn của
phong trào xã hội chủ nghĩa do sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa năm 1991, Mỹ đang mưu
toan sắp đặt lại trật tự thế giới do Mỹ làm bá chủ. Đặc biệt sau sự kiện 11-9-2001, lợi dụng vấn đề
chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, Mỹ tăng cường việc tập hợp các nước lớn, tiến hành điều
chỉnh chiến lược, tự cho phép “đánh đòn phủ đầu” tất cả các quốc gia dân tộc nào không theo cái
7


gậy chỉ huy của Mỹ. Hòa bình, độc lập toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng.
Quan hệ giữa các dân tộc trong quan hệ quốc tế trên những nguyên tắc đã được thiết lập nhiều
năm trước đây đã bị phá vỡ do hành động của chủ nghĩa đế quốc. Sau cái Mỹ gọi ba nước Triều
Tiên, Iran, Irắc là “liên minh ma quỷ”, người ta còn biết đã có 60 quốc gia được Mỹ coi là không
theo gậy chỉ huy của Mỹ, sẵn sàng đánh đòn phủ đầu, là những thách thức đối với tất cả các quốc
gia đang phát triển.
- Mâu thuẫn giữa các nước phát triển, các nước lớn, các trung tâm tư bản, các tập đoàn tư
bản xuyên quốc gia với nhau. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau trong giai đoạn hiện nay
vẫn là mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại. Đây là mâu thuẫn nảy sinh một cách tất yếu do quy luật tự
do cạnh tranh kiểu cá lớn nuốt cá bé và do sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, sau Chiến tranh lạnh, Mỹ đang mưu toan làm bá chủ thế giới, bất chấp luật pháp

quốc tế, đã làm các nước đế quốc các nước lớn khác bất bình. Đặc biệt, chính sách cường quyền
ngạo mạn, áp đặt của Mỹ trong chủ trưomg “đánh đòn phủ đầu”, không chi đe dọa độc lập dân tộc
cùa các nước đang phát triển, chậm phát triển, mà còn đe dọa chính các nước tư bản phát triển
khác. Với việc tự cho phép chạy đua vũ trang, Mỹ đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
cổ nguy cơ tăng lên. Do những lợi ích của các quốc gia trên con đường phát triển, trước mắt, nguy
cơ nổ ra chiến traiih thế giới thứ ba cổ thể chưa xảy ra trong vài thập niên đầu của thế kỷ XXI,
nhưng xung đột vũ trang ở các khu vực, phản ánh mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, mâu thuẫn về
kinh tế, thương mại, văn hóa, chính trị vẫn tồn tại âm ỷ. Con đường giải quyết mâu thuẫn gỉữa các
nước lớn trước mắt bàng thương lượng song phương hoặc đa phương, đã cổ những lúc lâm vào bế
tắc do mâu thuẫn quyền lợi của các nước lớn. Điều đáng lo ngại là các nước này đều là các cường
quốc hạt nhân và có một nền kinh tế mạnh. Vì vậy, việc ngăn chặn chiến tranh đế quốc trở thành
một đòi hỏi cấp bách của nhân loại tiến bộ.
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay của thời đại quá độ từ chù nghĩa tư bàn lên chủ nghĩa xã
hội, những mâu thuẫn cơ bản cùa thời đại vẫn còn tồn tại, mặc dù về hình thức biểu hiện, mức độ
cổ thể có những chuyển hóa khác nhau. Các đảng cộng sản và công nhân, các nước xã hội chủ
nghĩa cần nhận rõ và xử lý một cách tỉnh táo trong quan hệ quốc tế trên chặng đường phát triển.
- Ngoài ra, trong giai đoạn hiện nay của thời đại đang nổi lên một mâu thuẫn chủ yếu đó là
mâu thuẫn giữa một bên là các thế lực cực đoan nhất, hiếu chiến nhất với chủ nghĩa đế quốc bá
quyền với một bên là các lượng lực đấu tranh chống lại các thế lực đó vì hòa bình, độc lập dân tộc,
8


ổn định và phát triển bền vững, tiến bộ xã hội và phẩm giá con người. Đây là xu thế tất yếu của sự
tập hợp lực lượng rộng rãi, phát huy tinh thần đấu tranh ơuyết liệt, liên tục, sáng tạo để ngăn chặn,
làm thất bại tính chất hiếu chiến, áp đặt ngạo mạn của chủ nghĩa đế quốc cuờng quyền.
Xu thế vận động của thế giới trong giai đoạn hiện nay của thời đại
- Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn. Đây là đòi hỏi bức xúc cùa các dân
tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước đều dành ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh
tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước; đồng thời tạo
sự ổn định chính trị, mở rộng hợp tác quốc tế. Chính sách đối ngoại của mỗi nước được hoạch

định và triển khai thực hiện nhằm tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát
triển cùa đất nước, trước hết về kinh tế.
- Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết quốc
tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng
rất gay gắt. Trong điều kiện cách mạng KH và CN phát triển, toàn cầu hóa là xu thế khách quan,
mỗi nước không thể biệt lập, mà cần phải có chính sách liên kết, hợp tác để phát triển. Hội nhập
quốc tế tạo điều kiện để liên kết tốt hơn, giúp các nước đứng vững trong cạnh tranh và phát triển.
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt
và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc. Đối với các nước
đang phát triển, do sự phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển về KH-CN và vốn, nên họ đang
đứng trước những thách thức lớn. Việc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh
chống sự áp đặt và can thiệp cùa nước ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Cùng với việc khắc phục khó khăn để phát triển KT-XH, nhiều nước đang cố gắng giữ ổn định về
CT, tạo môi trường hòa bình, thực hiện chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc, chủ động hội nhập
quốc tế, góp phần xây dựng một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, bình đẳng và hợp lý.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng,
tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Phong trào cộng sản quốc tế có những dấu hiệu phục hồi rõ nét và vẫn là một lực lượng chính trị
to lớn trong thời đại ngày nay. Các đảng cộng sản cầm quyền đã vượt qua được những thử thách
khác nghiệt nhất, tiếp tục lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cải cách và đổi mới. Các đảng
cộng sản chưa cầm quyền có những điều chỉnh đường lối chiến lược và sách lược, đấu tranh bằng
nhiều hình thức đa dạng, đồi mới tập hợp lực lượng, cải thiện vai trò, vị trí trong đời sống chính trị
9


đất nước. Sự củng cố, lớn mạnh cửa các đảng cộng sản cầm quyền và sự phục hồi nhất định của
các đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển, đặc biệt là sự phát
triển của trào lưu cánh tả Mỹ Latinh đang mở ra triển vọng mới cho phong trào cộng sản, công
nhân quốc té trong thể kỷ XXI.
- Các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn

tại hòa bình. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ quốc tế và chi phối phương thức quan
hệ giữa các nước. Đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính
trị - xã hội khác nhau là nguyên tắc, là phương pháp xử lý các quan hệ quốc tế hiện nay. Khi nhu
cầu hội nhập quốc tế ngày càng trở nên bức xúc đối với các quốc gia dân tộc, thì môi trường hòa
bình, ổn định và phát triển của mỗi nước là điều kiện để hội nhập tốt hơn, hiệu quả hom. Cuộc đấu
tranh của các nước vì hòa. bình, độc lập dân tộc, dân chù, phát triển và tien bộ xã hội đang gặp
khó khăn, thử thách, nhưng sẽ có những bước tien mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Kết luận:
Do nhận thức đúng đắn về thời đại nên trong những năm qua Đảng ta đã xác định đúng đắn
đường lối chiến lược và sách lược, đưa đất nước Việt Nam đạt được từ thắng lợi này sang thắng
lợi khác, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước đi
lên vượt qua được khủng hoảng. Cuộc sống của nhân dân ngày càng cải thiện, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố. Các nước ngày càng tăng cường quan hệ hợp
tác làm ăn với Việt Nam. Sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã cổ vũ động viên các nước
trong đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, góp phần vào kho tàng lý luận của CN Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc nhận thức và xác định đúng đắn vấn đề thời đại hiện nay cùng với xác định đúng hướng
đi của đất nước, trong đó có đường lối chính sách đối ngoại. Đảng và nhân dân ta đã góp phần tích
cực vào việc làm rõ xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người. Cho dù khúc quanh hiện
nay của lịch sử đang là sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên thế giới kép dài thêm nhưng nó không
thể làm đảo ngược được tính chất và xu thế của thời đại. CNXH vẫn đang tồn tại thoát khỏi những
khó khăn, đang tiếp tục phát triển và khẳng định vị thế của mình. Loài người vẫn đang trong thời
đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
10


Câu 2: Quá trình hợp tác, liên kết trên lĩnh vực an ninh chính trị, kinh tế và văn hóa xã
hội của Asean sau chiến tranh lạnh.
Trả lời

Đông Nam Á là một trọng điểm chiến lược của thế giới. Là khu vực nằm ở phía Đông Nam
châu Á, bao gồm 11 quốc gia: Brunay, Campuchia, Đông Timo, Inddooneexxia, Lào, Mianma,
Malaixia, Philippin, Thái Lan, Việt Nam, Xingapo. Ngoại trừ Lào, thì tất cả các quốc gia đều là
quốc gia ven biển hoặc các quốc gia hải đảo, có tiếp xúc với biển Đông, Ấn Độ Dương và Thái
Bình Dương nên rất phát triển kinh tế biển như nghề cá, khai thác tài nguyên biển và mở rộng giao
lưu quốc tế bằng đường biển. ĐNA là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nơi
đây giàu truyền thống lịch sử - văn hóa, là nơi có vị thế địa – chiến lược. Như vậy, do địa điểm,
điều kiện tự nhiên, lịch sử và văn hóa của mình, khu vực DNA không chỉ có vị trí chiến lược quan
trọng với châu Á mà với cả thế giới. Do đó, biển Đông và ĐNA luôn thu hút sự quan tâm của các
nước lớn, đồng thời cũng là nơi tiềm ẩn những tranh chấp, xung đột.
Xuất phát từ xu hướng hợp tác hóa toàn cầu, mà trước tiên trong khu vực, ASEAN là tập hợp
các quốc gia có nhiều khác biệt lợi ích, hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận, để trở thành diễn
đàn tập hợp lực lượng về CT- ngoại giao và hơn nữa giá trị chiến lược thực sự nhằm ứng phó với
“chiến lược xoay trục của Mỹ”. Quá trình liên kết hợp tác đó đạt nhiều kết quả, trước tiên được
thể hiện qua tiến trình hợp tác, liên kết.
Các Hội nghị cấp cao ASEAN từ sau chiến tranh lạnh đến nay là những mốc đánh dấu bước
tiến trong hợp tác, liên kết khu vực.
- Hội nghị cấp cao ASEAN IV (1-1992): thông qua thành lập khu vực mậu dịch tự do AFTA,
thành lập Diễn đàn khu vực ARF.
- Hội nghị cấp cao ASEAN V (12-1997): đưa ra tầm nhìn ASEAN tới năm 2020, đề xuất chủ
trương liên kết thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2020.
- Hội nghị cấp cao IX (12-2003): thống nhất tuyên bố hòa hợp Bali II, nhất trí xây dựng Cộng
đồng ASEAN trên ba trụ cột : Cộng đồng an ninh (ASC), Cộng đồng về kinh tế (AEC), Cộng
đồng về văn hóa- xã hội (ASCC).
- Hội nghị cấp cao ASEAN XII (1-2007): soạn thảo Hiến chương ASEAN , thống nhất đẩy
tiến độ xây dựng Cộng đồng ASEAN lên năm 2015.
11


- Hội nghị cấp cao ASEAN XVI (4-2010): tuyên bố về: ASEAN một cộng đồng , một vận

mệnh, tuyên bố về ASEAN không ma túy vào năm 2015.
Hoạt động hợp tác liên kết của ASEAN sau chiến tranh lạnh
- Cùng với sự sụp đổ của trật tự hai cực, thế giới đang ngày càng phát triển theo huớng đa cực
cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của cường quốc kháx như EU, Nhật Bản , hay gần đây là nhóm
các nuớc mới nổi BRICS... Mỗi quốc gia muốn phát triển không thể nằm ngoài xu thế hội nhập,
hợp tác khu vực cũng như toàn cầu. Với sự thành công của Liên minh Châu Âu (EU), hàng lọat
các liên kết khu vực ra đời . Tại đông Nam Á chứng kiến sự liên kết mạnh mẽ nhất của các quốc
gia trong khu vực thông qua Hiệp hội ASEAN.
- Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, Đông Nam Á vẫn là khu vực phát triển năng
động trên thế giới. Ở đây, quá trình hội nhập khu vực khu vực ngày càng thể hiện rõ nét và tính
hiệu quả của nó đã thu hút được sự quan tâm chú ý của của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là
các nước lớn. Trong những năm vừa qua, quan hệ giữa các nước Đông Nam Á diễn ra sôi động
trên tất cả các lĩnh vực theo hướng đẩy mạnh quá trình hợp tác, liên kết khu vực với nòng cốt là
ASEAN, tuy còn nhiều khó khăn, hạn chế nhưng đã đạt đuợc những thành công nhất định, góp
phần nâng cao vị thế của Đông Nam Á ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới. Hợp
tác liên kết của ASEAN đạt được thành tựu trên nhiều mặt.
Trên lĩnh vực an ninh - chính trị. Các nước thành viên đã nỗ lực thúc đẩy góp phần quan
trọng cho mục tiên xây dựng Cộng đồng ASEAN vào 2015. Sự ra đời của diễn đàn an ninh khu
vực (ARF-1993) đã thu hút ngày càng nhiều các quốc gia tham gia với nhiều sáng kiến quan trọng
như: Tuyên bố về quy tắc ứng xử biển Đông (DOC-2002), tuyên bố ASEAN II (10/2003) với “Lộ
trình xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm 2015”, trong đó có sáng kiến xây dựng Cộng đồng an
ninh ASEAN (ASC) và Hiến chương ASEAN năm 2007. Đây là những văn kiện quan trọng hàng
đầu của Hiệp hội đã được ký kết tạo khung pháp lý và thể chế hỗ trợ ASEAN gia tăng liên kết khu
vực và xây dựng cộng đồng... Trong tương lai, dân tộc các quốc gia Đông Nam Á hy vọng hơn
nữa vào họat động của ARF nhằm đảm bảo an ninh khu vực.
Một trong những họat động đáng chú ý trong lĩnh vực an ninh - chính trị của khu vực chính là
sự tăng cường hợp tác trong việc giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên biển, đặc biệt là biển
Đông, nơi chứa đựng nguy cơ xung đột tiềm tàng nhất của Đông Nam Á. Sự kiện ASEAN và
Trung Quốc ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) vào năm 2002 tuy chưa
12



phải là giải pháp thực sự hữu hiệu nhưng nó cũng làm dịu bớt tình hình ở Biển Đông. Diễn đàn
đối thọai quốc phòng (ADMM) (9-2010) cùng Tuyên bố nguyên tắc sáu điểm của ASEAN về biển
Đông (7-2012) đã thể hiện quan tâm chung và cách tiếp cận chủ đạo của Hiệp hội đối với với các
vấn đề tranh chấp trên biển Đông, đồng thời cũng cho thấy khả năng của ASEAN trong biệc xây
dựng sự đồng thuận, thúc đẩy đối thọai và hợp tác về tất cả các nội dung trao đổi trong khu vực.
Hiện nay, ASEAN đã sẳn sàng và mong muốn trao đổi, thỏa thuận tiến tới ký kết một bộ quy tắc
ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) với Trung Quốc để góp phần duy trì hòa bình, ổn định
trong khu vực. Và ngày 18-11-2012 tại Campuchia, tuyên bố nhân quyền ASEAN – AHRD đã
được ký kết giữa các lãnh đạo của 10 nước ASEAN. Đây là văn kiện quan trọng của ASEAN
nhằm tạo khuôn khổ tăng cường hợp tác và thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trong khu vực.
Những nổ lực hợp tác an ninh - chính trị của ASEAN giai đọan hiện nay được thể hiện qua
các mặt chủ yếu sau: Một là, tăng cường hợp tác trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở biển
Đông. Hai là, cũng cố ARF thành công cụ hiệu quả đảm bảo an ninh khu vực. Ba là, hoàn thiện
cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên. Bốn là, ASEAN tiến hành sửa đổi TAC, cố
gắng đưa các nước lớn vào khuôn khổ khu vực. Năm là, xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN,
với mục tiêu chính là nâng cao hợp tác an ninh- chính trị ASEAN lên tầm cao mới, đảm bảo các
nuớc ASEAN chung sống hòa bình và với toàn thế giới trong môi trường công bằng, dân chủ, hài
hòa, góp phần đưa ASEAN từ một hiệp hội trở thành một tổ chức hợp tác liên chính phủ chặt chẽ
với mức độ liên kết cao hơn trên cơ sở pháp lý của Hiến chương chung.
Trên lĩnh vực kinh tế. Năm 1992, ASEAN quyết định xây dựng khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), trên cơ sở sử dụng Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung (CEPT) làm công cụ chính để thực hiện. Thực hiện AFTA chính là tạo ra một thị trường
khu vực tự do thống nhất cho các sản phẩm hàng hóa. Các nước ASEAN đã tiến hành cắt giảm
thuế đối với hàng lọat sản phẩm theo CEPT trong khuôn khổ AFTA. Các nước ASEAN đã triển
khai có hiệu quả các thỏa thuận Khu vực mậu dịch tự do ( FTAs) – Đối tác KT toàn diện (CEP) đã
ký kết với các đối tác, đưa nền kinh tế ASEAN hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế tòan cầu.
Lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng đạt được một số tiến bộ đáng kể. Từ năm 2003, ASEAN
đã đồng ý mở cửa hơn nữa thị trường vốn, đồng thời cắt bỏ bớt những ràng buộc đối với việc luân

chuyển vốn. Hợp tác về đầu tư của ASEAN trong nhiều năm qua được quan tâm và có nhiều bước
13


khởi sắc, nhất là sau khi thông qua Hiệp định khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Một nội dung hợp
tác kinh tế rất được ASEAN quan tâm hiện nay là thu hẹp khoảng cách phát triển và giúp các
thành viên hội nhập khu vực và quốc tế. ASEAN đã thông qua “sáng kiến Hội nhập ASEAN-IAI”
tháng 11-2000 và Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, lập ra Nhóm đặc trách về
Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam.
ASEAN quyết định xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015 nhằm đưa
ASEAN trở thành một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, có sự lưu thông tự do của
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, tư bản, nhân tài và nhân công có tay nghề. ASEAN đề ra nhiều biện pháp
thúc đẩy hơn nữa các chương trình liên kết kinh tế hiện có như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), chuơng trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), Hiệp định đầu tư ASEAN (ACIA),
Hiệp định thương mại và hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định Thương mại và Dịch vụ ASEAN
(AFAS), Hiệp định khung về điện tử ASEAN (E-ASEAN), đẩy mạnh hoàn thiện các khung chính
sách nhằm đưa ASEAN trở thành khu vực kinh tế có sức cạnh tranh, thúc đẩy phát triển cân bằng
bền vững và thu hẹp phát triển. Đồng thời, ASEAN xác định 12 lĩnh vực ưu tiên, tăng cuờng các cơ
chế thực thi cam kết và giải quyết. Trong bối cảnh liên kết kinh tế ASEAN còn khá lỏng lẻo, Cộng
đồng kinh tế (AEC) là tham vọng lớn của Hiệp hội nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng cuờng
thu hút đầu tư nước ngoài, cũng như đối phó với sự gia tăng của quá trình tòan cầu hóa, đặc biệt là
sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ. Theo đó, chính phủ các nước thành viên ASEAN sẽ tiếp tục
tiến hành các biện pháp, chính sách cần thiết để các doanh nghiệp và người dân có thể tận dụng tối
đa các cơ hội và tiềm năng do AEC và các khuôn khổ liên kết kinh tế khu vực đem lại.
Tuy tiến trình hội nhập kinh tế ASEAN đã thực hiện được một thời gian khá dài, nhưng nhìn
chung diễn ra còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đưa khu vực này thóat khỏi các áp lực cạnh
tranh và phát triển đang tăng lên rất nhanh hiện nay. Nguyên nhân chính là hệ thống chế hội nhập
kinh tế ASEAN, từ các nguyên tắc định hướng cho đến cơ chế, phương thức vận hành đề tỏ ra ít
hiệu lực, kém hiệu quả. Quan hệ kinh tế, thương mại nội khối còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng
kim ngạch của ASEAN, trong khi đó, kim ngạch mậu dịch với 4 đối tác lớn nhất là Nhật Bản, Mỹ,

EU, Trung Quốc lại chiếm tỷ trọng lớn. Điều này cho thấy ASEAN là một khối kinh tế có tính
huớng ngoại khá nổi trội. Mặt khác, sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau giữa các nền kinh tế ASEAN còn
hạn chế. Vì vậy, các nước ASEAN đã không thể hỗ trợ nhau trong cuộc khủng hoảng tài chính –
tiền tệ 1997-1998.
14


Hiện nay, thời điểm 2015 để xây dựng AEC không còn xa, đương nhiên, quá trình xây dựng
AEC bên cạnh những thuận lợi thì cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng.
Các nước ASEAN đều khẳng định quyết tâm đẩy nhanh quá trình hình thành bản sắc và đoàn
kết khu vực. Với tinh thần đó, trong những năm gần đây, các hoạt động VH, thông tin giữa các
nước ASEAN đã được hình thành, góp phần củng cố tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị và hiểu
biết lẫn nhau, đồng thời qua đó nâng cao nhận thức về sự phong phú, đa dạng cũng như giá trị
chung của văn hóa Đông Nam Á.
Kết quả hợp tác, liên kết của ASEAN
Sau gần 46 năm thành lập cho thấy sự hợp tác, phát triển vượt bậc của các nước Đông Nam Á:
từ 5 nước lên đến 10 nước, sắp tới gia nhập Đông Timo vào Hiệp hội, vượt qua những nghi kỵ,
thành kiến, chung tay góp sức vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định, trở thành một tổ chức liên
chính phủ năng động và thành công nhất thế giới.
- Những thành công lớn trong hợp tác, liên kết của ASEAN có thể khái quát là:
Thứ nhất, ASEAN đã làm chuyển hóa Đông Nam Á, từ một khu vực nghi kỵ, đối đầu, xung
đột thành khu vực hữu nghị, hòa bình hợp tác. ASEAN đã xây dựng được “một ngôi nhà chung ”
với sự hợp tác, liên kết chặt chẽ cả về chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội, trên cơ sở một
Hiến chương mang tính pháp lý tương đối chặt chẽ .
Thứ hai, liên kết 10 nước ASEAN đã tạo nên một thị trường gắn kết cao, thúc đẩy được liên
kết nội khối , mở rộng sự hợp tác trong ASEAN cả chiều rộng lẫn chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực .
Thứ ba, ASEAN đã xây dựng được quan hệ đối tác với tất cả các nước lớn, các khu vực chính
trị, kinh tế quan trọng trên thế giới. ASEAN ngày nay đã quy tụ đuợc các đối tác lớn, quan trọng
trên thế giới, tham gia ngày càng nhiều vào các cơ chế hợp tác của ASEAN.
Thứ tư, ASEAN hiện đang duy trì được vị thế trung tâm, chủ đạo trong các hợp tác ở khu vực.

Có thể nói, tầm hợp tác, liên kết của ASEAN đã vươn đến mọi châu lục, từ Bắc Mỹ đến Châu
Âu; từ Châu Phi đến Ustralia và Nam Mỹ, biểu tượng “Bỏ lúa 10 nhánh” tượng trưng cho sự tương
đồng , gắn bó, đoàn kết sát cánh bên nhau của 10 quốc gia ASEAN cùng tiến trong thế kỷ XXI.
Nguyên nhân tạo nên thành công của ASEAN
Một là, ASEAN đã lựa chọn được hình thái liên kết khu vực phù hợp với một Đông Nam Á
hết sức đa dạng, nhiều khác biệt giữa các nuớc thành viên. Hình thái “Đoàn kết thống nhất trong
15


đa dạng” đã giúp cho ASEAN vuợt qua được những thử thách, xây dựng những điểm tương đồng,
tạo nên “mẫu số chung” thúc đẩy sự hợp tác liên kết trong khu vực.
Hai là, ASEAN đã triển khai và vận dụng thành công: “Phương cách ASEAN”. Đây là một
cách tiếp cận khá đặc thù của ASEAN dựa trên những giá trị, những ứng xử hết sức tinh tế, mềm
dẻo của các nuớc Đông Á. Các nguyên tác cơ bản mà ASEAN đã vận dụng là: không can thiệp,
bình đẳng cùng có lợi, tham vấn, đồng thuận và không đối đầu.
Hình thức hợp tác không áp đặt, đi từ thấp đến cao, từ không chính thức đến chính thức, tạo
những điều kiện thuận lợi cho tất cả mọi thành viên tham gia.
Do đó, các quyết định của ASEAN đều có sự đồng tình, ủng hộ cao của các nuớc thành viên
Ba là, sự năng động, tính linh họat, nhạy bén và tự điều chỉnh của ASEAN để thích nghi với
những thay đổi của tình hình khu vực vả thế giới.
Bốn là, ASEAN đã thực thi chính sách khu vực mở, tận dụng được những thế mạnh địachính trị , địa – kinh tế của khu vực nên đã tranh thủ được sự hợp tác ngày càng sâu rộng của các
đối tác bên ngoài.
Những thách thức mà ASEAN đang phải đối mặt
Gần nửa thế kỷ sau ngày thành lập, ASEAN đang phải đối mặt với những thách thức chung
của thế giới trong quá trình tòan cầu hóa đầy biến động hiện nay, những bản thân ASEAN cũng có
những thách thức riêng không dễ vượt qua.
Thách thức thứ nhất mang tính tổng quát: là làm thế nào để dung hòa những khác biệt về
chính trị, trình độ khinh tế, sự đa dạng về văn hóa trong ASEAN để tiến tới một “Cộng đồng
ASEAN ” vào năm 2015.
Thách thức thứ hai là việc thực hiện nguyên tắc đồng thuận. Nguyên tắc này tạo nên những

mặt mạnh nhưng cũng có hạn chế đó là làm chậm tiến trình đưa ra các quyết định của ASEAN.
Thách thức thứ ba là trong vấn đề kết nối: chuơng trình kết nối là một ý tưởng hay trong
ASEAN. Tuy nhiên, để thực hiện sự kết nối, đòi hỏi sự gia tăng liên kết giữa các nước trong khu
vực về về hạ tầng giao thông, thông tin. Đây là một vấn đề nan giải vì nó đòi hỏi một nguồn lực
đầu tư rất lớn, đòi hỏi sự thông thoáng về cơ chế, chính sách đối ngoại nên cần một thời gian khá
dài mới có thể thực hiện đuợc.
Thách thức thứ tư là tình hình chính trị nội bộ: các nước ASEAN rất đa dạng về thể chế chính
trị, tình hình chính trị ở một số nuớc còn rất phức tạp, thêm nữa là quan hệ giữa một số nước thành
16


viên chưa suôn sẽ. Mặt khác, một số đối tác bên ngoài vẫn luôn tìm cách chia rẽ, chi phí họat động
cùa ASEAN để trục lợi, do vậy nếu không tìm được phương cách khắc phục sẽ ảnh huởng không
nhỏ đến tiến trình hợp tác ASEAN.
Thách thức thứ năm là bộ máy và cơ chế điều phối: mặc dù đã được điều chỉnh, cải thiện
trong những năm qua, nhưng trong thời gian tới khi ASEAN hợp tác sâu rộng hơn thì tổ chức bộ
máy và cơ chế điều phối này sẽ khó đáp ứng kịp.
Thách thức thứ 6, liệu ASEAN có duy trì được vị trí chủ đạo, trung tâm trong hợp tác liên kết
khu vực như hiện nay không, trong khi nhiều nước lớn đang có những tham dự, tác động sâu hơn.
Vai trò Việt Nam trong ASEAN
Từ khi gia nhập ASEAN, VN luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm, có nhiều đóng góp
quan trọng, thiết thực trong việc thực hiện các phương hướng hợp tác và tương lai phát triển cũng
các quyết sách lớn của Hiệp hội, góp phần tăng cường gắn kết hợp tác cũng như nâng cao vai trò,
vị thế quốc tế của ASEAN.
Bởi: 1 là, VN gia nhập ASEAN làm cho ASEAN đoàn kết, thống nhất hơn, mở đầu cho các
nước còn lại ở ĐNA tham gia vào Hiệp hội.
2 là, làm tăng tính chính trị trong các hoạt động hợp tác, liên kết để đấu tranh có hiệu quả hơn
với các ý đồ muốn chi phối, áp đặt của các nước lớn.
3 là, VN gia nhập ASEAN là một đóng góp cho hào bình, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác trong
khu vực, làm nhân lên sức mạnh và vị thế của Hiệp hội và mở ra một trang mới cho lịch sử khu vực.

4 là, VN gia nhập ASEAN làm tăng tính “nhân văn” trong các hoạt động hợp tác, liên kết của
Hiệp hội.
Như vậy, quá trình gần 20 năm tham gia ASEAN và trong giai đoạn phát triển mới của Hiệp
hội, VN luôn tích cực, chủ động và có trách nhiệm đóng góp xây dựng một cộng đồng ASEAN.
Để ASEAN tiếp tục là một trụ cột quan trọng trong đường lối đối ngoại độc lập, tụ chủ, đa dạng
hóa và đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, thách
thức trong việc phát huy hơn nữa vai trò của VN trong ASEAN cũng không nhỏ, vì nguồn lực của
chúng ta còn hạn chế; biện pháp của các cơ quan, ban ngành còn chưa đầy đủ, đồng bộ. sự hiểu
biết chung của người dân về hợp tác ASEAN chưa cao, chưa trở thành động lực thúc đẩy xây
dựng Cộng đồng.
17


Câu 3: Phân tích cơ sở hoạch định và quá trình hình thành, phát triển đường lối đối
ngoại thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
Trả lời
Đường lối, đối ngoại của một nhà nước, quốc gia là hệ thống quan điểm về mục tiêu, nội
dung, phương châm, phương hướng, giải pháp, nhiệm vụ nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân
tộc chỉ đạo hoạt động quốc gia trên trường quốc tế. Như vậy, đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước Việt Nam là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp,
phương châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi những lợi ích
quốc gia, dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tố quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu
của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đối mới
Thứ nhất, tình hình khu vực và thế giới
- Về chính trị- an ninh
+ Sự thay đổi so sánh tương quan lực lượng giữa CNXH và CNTB theo hướng có lợi cho
CNTB;
+ Quá trình hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh lạnh;

+ Đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt, diễn biến phức tạp, khó lường;
+ Mối quan hệ giữa các nước lớn có vai trò hết sức quan trọng đến sự phát triển thế giới;
+ Nhiều vấn đề mang tính toàn cầu nổi lên, tác động lớn đến đời sống quan hệ quốc tế;
+ Đông Nam Á nói riên, Châu Á Thái Bình Dương nói chung, bên cạnh xu thế chính là hòa
bình, hợp tác và phát triển vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề có nguy cơ dẫn đến mất ổn định khu vực;
- Về kinh tế, KH&CN
+ Toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ;
+ KH&CN phát triển nhảy vọt.
Thứ hai, tình hình và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam
+ Đất nước đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn: Khủng hoảng KT-CT. Trên
lĩnh vực đối ngoại nước ta bị bao vây về kinh tế, bị cô lập về chính trị.
+ Về nhiệm vụ trước mắt: nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khủng hoảng KT-XH, phá thế
bị bao vây, cấm vận, cô lập và mở rộng quan hệ đối ngoại.
+ Về nhiệm vụ cơ bản lâu dài: sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Thứ tư, kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc ta
Quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình, bắt nguồn từ Đại
hội VI của Đảng (12-1986) và tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện ở các Đại hội Đảng
tiếp theo đó. Có thế chia quá trình này thành hai giai đoạn sau:
18


Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (12-1986) đến Đại hội VII (6-1991)
Đây là giai đoạn hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, thể hiện qua các Văn kiện sau:
Đại hội VI của Đảng (12-1986) khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đồng
thời cũng mở đầu quá trình hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
- Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (5-1988) là bước ngoặt, có tính đột phá về đổi
mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự hình thành bước đầu chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa

dạng hóa. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị có cách nhìn nhận mới về vấn đề an ninh. Đảng xác
định nhiệm vụ đối ngoại chuyển từ chỗ chú trọng nhân tố chính trị - quân sự sang ưu tiên cho
nhân tố kinh tế, ưu tiên giữ vững hòa bình, độc lập dân tộc, có cách tiếp cận toàn diện hơn về tình
hình thế giới và khu vực.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) là sự phát triển tiếp theo của đổi mới tư duy đối
ngoại. Hội nghị đã nhận thức nhiều vấn đề đối ngoại cần phải giải quyết, trong đó một lần nữa tái
khẳng định: Đối ngoại phải chuyển từ chính trị - an ninh là chủ yếu sang chính trị - kinh tế là chủ
yếu; thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ vói Trung Quốc; xác định lộ trình cải thiện quan
hệ với các nước ASEAN; xác định lộ trình rút quân khỏi Campuchia; tiếp cận lộ trình bình thường
hóa quan hệ với Mỹ...
- Đại hội VII của Đảng (6-1991) là bước phát triển mới trong việc hình thành chính sách đối
ngoại đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tồ quốc.
Giai đoạn từ sau Đại hội VII (6-1991) đến nay
Đây là giai đoạn tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, cụ thể
như sau:
Khẳng định mục tiêu của đối ngoại là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và họp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992) đã nêu ra 4 phương châm chỉ đạo, xử lý các vấn đề quốc
tế: một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; ba là, nắm vững hai mặt họp tác và đấu tranh
trong quan hệ quốc tế; bốn là, tham gia họp tác với các nước trong khu vực, đồng thời mở rộng
quan hệ với tất cả các nước, chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn. Bốn
phương châm này được xem là cẩm nang trong xử lý các vấn đề đối ngoại cho mọi cấp, mọi
ngành và mọi địa phương.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại đổi mới.
Trên cơ sở thế và lực mới của nước ta, Đại hội lần đầu tiên nêu nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo hướng “xây dựng nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới”. Đây là điểm khởi đầu quan trọng cho một chủ trương đối ngoại lớn và xuyên suốt

của Đảng là hội nhập kinh tế quốc tế (và đến nay là hội nhập quốc tế). Đại hội này cũng đồng thời
tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”.
19


Đại hội IX của Đảng (4-2001) bổ sung làm rõ thêm chính sách đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng đưa
ra chủ trương “chủ động hội nhập kỉnh tế quốc tế và khu vực” theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Phát
trien quan điếm mở rộng quan hệ đối ngoại của Đại hội VII và Đại hội VIII, Đại hội IX nêu rõ:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát trien” . Đe triển khai có hiệu quả chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế” do Đại hội IX đề ra, tháng 11 - 2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết 07 về
“chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, trong đó nêu rõ mục tiêu, nguyên tắc cơ bản, phương châm,
quan điểm chỉ đạo hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng liên quan đến chủ trương “chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế” trong bối cảnh của thế giới sau sự kiện khủng bố ở Mỹ ngày 11-9-2001, Hội nghị
Trung ương 8 khóa IX (2003) đã ra Nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới”, trong đó xác định rõ hơn về thời cơ và thách thức, từ đó đề ra những quan điểm chỉ đạo và
phương châm hành động cho phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là đưa ra cách nhìn nhận về vấn
đề đối tác và đối tượng.
- Đại hội X (4-2006) của Đảng tiếp tục bổ sung chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới với
tuyên bố: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình họp tác quốc tế và khu vực”; “Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào
chiều sâu, ổn định, bền vững”. Đại hội cũng bổ sung quan điểm hội nhập quốc tế với chủ trương
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
- Đai hội XI của Đảng (1-2011), chính sách đối ngoại tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Tại Đại
hội này, lần đầu tiên Đảng xác định mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là “vì lợi ích quốc gia, dân
tộc”. Như vậy, lợi ích quốc gia dân tộc là tiêu chí hàng đầu để xác định họp tác và đấu tranh, là

đối tác và đối tượng. Cũng tại Đại hội này, trên cơ sở thế và lực mới của Việt Nam trên trường
quốc tế, Đảng đưa ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế...” Như vậy, Đảng đã chuyển nội dung trọng
tâm của đối ngoại từ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế sang hội nhập quốc tế một cách toàn
diện. Cụ thể hóa chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” của Đại hội XI, ngày 10-42013, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế, trong đó nêu rõ quan điểm
và các định hướng chủ yếu về vấn đề này.
Đại hội XII của Đảng (1-2016) bên cạnh 4 thành tố của chủ đề Đại hội XI là: sự lãnh đạo
của Đảng; dân tộc, dân chủ; đổi mới; mục tiêu xây dựng đất nước, chủ đề Đại hội XII bổ sung
thêm thành tố thứ năm: “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định”.
Thành tố này là hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại.

20


Những điểm mới trong Đại hội XII về Công tác đối ngoại
So với đường lối đối ngoại được nêu trong Văn kiện Đại hội XI, đường lối đối ngoại trong
Văn kiện Đại hội XII có 8 điểm mới. Thứ nhất, nhiệm vụ đối ngoại được nêu như một thành tố
của Chủ đề Đại hội. Bên cạnh bốn thành tố của chủ đề Đại hội XI là: sự lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, sức mạnh toàn dân tộc, công cuộc đổi mới và mục tiêu tổng quát, chủ đề Đại hội XII bổ
sung thành tố thứ năm: “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”. Chủ
đề Đại hội bao hàm những nhiệm vụ trọng yếu trong nhiệm kỳ Đại hội. Việc bổ sung các nhiệm
vụ đối ngoại vào chủ đề Đại hội khẳng định tầm quan trọng của đối ngoại trong tổng thể đường lối
phát triển và bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong 5 năm tới và các năm tiếp theo. Thứ hai, công tác đối
ngoại trong nhiệm kỳ 2011 - 2016 được đánh giá sâu hơn. Trong văn kiện Đại hội XI và các đại
hội trước, nội dung này được nêu khái quát trong phần đánh giá chung trên tất cả các mặt. Văn
kiện Đại hội lần này nêu rõ thành tựu, nguyên nhân và hạn chế của quá trình triển khai đường lối
Đại hội XI. Thứ ba, Mục tiêu đối ngoại được đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất. Mục tiêu đối ngoại
“vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu lần đầu trong Văn kiện Đại hội XI. Văn kiện Đại hội XII
làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Thứ tư, phương châm chỉ đạo

các hoạt động đối ngoại được nêu rõ hơn. Trước khi nêu các nhiệm vụ đối ngoại, Văn kiện chỉ rõ
phương châm thực hiện nhiệm vụ là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Thứ năm, quan điểm chỉ đạo
việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nêu cụ thể hơn. Khác văn kiện Đại hội XI, Văn kiện
Đại hội XII nêu rõ quan điểm: “Kiên quyết, kiên trì” khi triển khai nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Thứ
sáu, các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn đối với quá trình hội nhập quốc tế được nêu rõ. Phát
triển định hướng hội nhập quốc tế được nêu trong Văn kiện Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII nêu
rõ những quan điểm chỉ đạo, các định hướng lớn đối với hội nhập quốc tế trong tất cả các lĩnh
vực. Thứ bảy, công tác đối ngoại đa phương được nhấn mạnh. Văn kiện chỉ rõ định hướng về
công tác đối ngoại đa phương là: “Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế
đa phương”; “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là
ASEAN và Liên hợp quốc”. Thứ tám, thuật ngữ “đối ngoại nhân dân” được dùng thay cho “ngoại
giao nhân dân”, thể hiện rõ hơn vị trí, vai trò và phạm vi của công tác này trong tổng thể các hoạt
động đối ngoại của đất nước.
Kế thừa đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới, với những điểm mới trên đây, đường lối
đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XII bao gồm những nội dung cốt lõi sau:
Mục tiêu đối ngoại là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định:
Thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; thứ hai, lợi ích quốc gia - dân tộc của
Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và
cùng có lợi, không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại và; thứ tư, mục tiêu của mọi hoạt
động đối ngoại là phải bảo đảm một cách tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc.
21


Nhiệm vụ đối ngoại là “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm
phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài
để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Như vậy, song song với việc tái khẳng định các nhiệm vụ phục vụ sự nghiệp phát triển, bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và nâng cao vị thế của đất nước, Văn kiện lần này nêu rõ hai quan
điểm lớn. Thứ nhất, việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại phải trên cơ sở vừa hợp tác vừa đấu
tranh, phải thấy rõ tính chất hai mặt trong quan hệ với mọi đối tác, trong xử lý mọi sự việc nảy
sinh để không bỏ lỡ bất kỳ một cơ hội hợp tác nào nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác. Thứ
hai, trong triển khai nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc phải kiên quyết, kiên trì. Độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa là những nội hàm cốt lõi của lợi ích quốc gia - dân tộc. Với điều này, Đảng ta khẳng
định mạnh mẽ hơn quyết tâm bảo vệ đến cùng các lợi ích đó, đồng thời chỉ ra phương cách đấu
tranh là kiên trì với nghĩa là không nóng vội, không manh động, phải tận dụng mọi biện pháp hòa
bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, tận dụng mọi kênh, mọi phương thức có thể. Tuy nhiên, trong
khi kiên trì các biện pháp, phương cách đó, chúng ta không loại trừ bất kỳ biện pháp, phương cách
nào để kiên quyết bảo vệ đến cùng các lợi ích mang tính sống còn này.
Đường lối đối ngoại là “độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa
phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đây là đường lối nhất quán của Đảng ta
kể từ Đổi mới. Nhưng các nội hàm cụ thể thì phải luôn được bổ sung, phát triển để đáp ứng yêu
cầu của nhiệm vụ phát triển và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với xu thế phát triển của tình hình khu
vực và thế giới.
Nguyên tắc tiến hành các hoạt động đối ngoại là: Thứ nhất, các hoạt động đối ngoại phải
bảo đảm một cách tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc. Lợi ích quốc gia - dân tộc khi được xác định
là mục tiêu tối thượng của đối ngoại thì tự nó trở thành nguyên tắc cao nhất của mọi hoạt động đối
ngoại. Thứ hai, các hoạt động đối ngoại phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế. Đây là những nguyên tắc phải tuân thủ trong tất cả các khâu, từ xác định quan điểm, lập trường
của Đảng và Nhà nước đối với các vấn đề quốc tế, xây dựng và triển khai chính sách đối ngoại
đến xử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ với các đối tác.
Các định hướng lớn cho công tác đối ngoại 5 năm tới và các năm tiếp theo bao gồm:
Thứ nhất, “Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp
tác đi vào chiều sâu... Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa
phương”. Với định hướng này, việc nâng cao hiệu quả đòi hỏi mọi hoạt động đối ngoại phải được

hoạch định và triển khai trên cơ sở tính kỹ kết quả phục vụ các mục tiêu đối ngoại với mức độ sử
dụng ít nhất các nguồn lực. Đưa quan hệ đi vào chiều sâu tức là gia tăng mức độ đan xen lợi ích
mọi mặt giữa nước ta với các đối tác; nâng cao số lượng và mức độ hiệu quả của các cơ chế hợp
22


tác giữa ta với các đối tác; tăng cường mức độ tin cậy lẫn nhau. Trong các hoạt động đa phương,
cần chủ động, tích cực để đóng góp vào những vấn đề lớn, có tầm “định hình” các thể chế khu
vực, liên khu vực và toàn cầu.
Thứ hai, “Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công
việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn
định chính trị của đất nước”.
Thứ ba, “Tiếp tục hoàn thành việc phân định biên giới trên bộ, thúc đẩy giải quyết các vấn
đề trên biển trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển 1982 và quy tắc ứng xử của khu vực”. Trong các quy tắc ứng xử của khu vực
nêu trong định hướng này, quan trọng nhất là Hiệp định Thân thiện và Hợp tác ở Đông - Nam Á
(TAC) và Quy tắc về Cách ứng xử của Các bên liên quan ở Biển Đông (DOC).
Thứ tư, thứ tự ưu tiên trong quan hệ với các đối tác là các nước láng giềng, các đối tác lớn,
đối tác quan trọng. Định hướng này nhấn mạnh yêu cầu phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị
truyền thống với Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc. Các đối tác lớn, đối tác quan trọng là những
đối tác có tiềm lực lớn, quan hệ của nước ta với họ có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện
các mục tiêu phát triển và bảo vệ an ninh của đất nước ta.
Thứ năm, hoạt động trong ASEAN thì “Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các
nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”. Theo đó, phải nhận thức rõ tầm quan trọng của
ASEAN trong tổng thể các hoạt động đối ngoại, coi ASEAN là vành đai an ninh trực tiếp của đất
nước, là ngôi nhà chung của mình.
Thứ sáu, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế để giảm các tác động tiêu cực
của hội nhập và hiện thực hóa các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại.
Thứ bảy, tăng cường công tác nghiên cứu, công tác bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ đối ngoại
và công tác tuyên truyền đối ngoại.

Thứ tám, mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại Đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Thứ chín, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của nhà nước đối
với các hoạt động đối ngoại; tăng cường sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước,
đối ngoại nhân dân, giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối
ngoại với quốc phòng, an ninh.
Trên đây là những điểm mới và những nội dung cốt lõi của đường lối đối ngoại trong Văn
kiện Đại hội XII. Để thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng, trong bối cảnh tình hình
trong nước và quốc tế tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cần phải khẩn trương quán triệt, cụ
thể hóa đường lối thành chính sách, xây dựng và triển khai các kế hoạch hành động cụ thể để thúc
đẩy quan hệ với từng đối tác, trong từng lĩnh vực; đồng thời, sẵn sàng các phương án đối phó với
những diễn biến bất lợi của tình hình. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với đường lối đối
ngoại thời kỳ Đổi mới được thực tế kiểm nghiệm 30 năm qua và với nỗ lực của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân, chúng ta tin tưởng vững chắc rằng đối ngoại sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu
mới, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
23



×