Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tham luận đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn ngữ văn ở trường phổ thông 1398238236

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.1 KB, 10 trang )

THAM LUẬN HỘI THẢO
“ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG”
Đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục phổ thông nói chung và bộ môn
Ngữ văn nói riêng là vấn đề được đặt ra và thực hiện từ nhiều năm nay. Để thực hiện vấn đề này, đã có
nhiều những hình thức và biện pháp dạy học được triển khai như: dạy học nêu vấn đề, tổ chức các hoạt
động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy học… Những biện pháp và hình thức đó, trong quá trình thực hiện, đã góp phần thúc đẩy
đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của
học sinh. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học, bên cạnh các biện pháp, hình thức dạy
học như trên thì việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là vô cùng quan trọng.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá sẽ tạo động lực thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao
chất lượng, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Vậy, thế nào là đổi mới kiểm tra, đánh giá? Kiểm tra đánh giá như thế nào để nâng cao hiệu quả
giảng dạy, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục? Kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn như thế nào
để đảm bảo mục tiêu bộ môn, phát triển năng lực của học sinh?
Những suy nghĩ mà tôi trình bày sau đây chỉ mang tính chất cá nhân, do đó, sẽ khó tránh khỏi
suy nghĩ chủ quan và chắc sẽ có nhiều điểm chưa phù hợp, vì vậy, rất mong nhận được sự góp ý của
các đồng chí.
1. Cơ sở lý luận của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở
trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực.
Trong quá trình đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục THPT nói riêng, mục tiêu, nội
dung giáo dục đã được đổi mới, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế xã hội đang phát triển. Trước nhu
cầu bức thiết phải đổi mới PPDH như hiện nay, việc kiểm tra đánh giá (KTĐG) phải chuyển biến mạnh
theo hướng: phát triển tính tích cực, trí thông minh sáng tạo của HS; khuyến khích HS vận dụng các
kiến thức, kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế, bộc lộ những cảm xúc và thái độ của bản thân
trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Nói chung là việc KTĐG
phải thoát khỏi quỹ đạo dạy và học thụ động để đi vào quỹ đạo dạy và học tích cực, chủ động, sáng tạo.
“Văn học là nhân học”, từ xưa tới nay trong việc giáo dục con người, văn chương vẫn được sử
dụng như một công cụ đắc lực, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc
xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Người giáo viên là những “kĩ sư tâm hồn” vì Ngữ văn là một bộ




môn dễ tác động nhất đến thế giới nội tâm con người, bồi đắp cả kiến thức, kĩ năng lẫn tâm hồn cho
học sinh.
Môn Ngữ văn với mục tiêu đặc thù là phải rèn luyện cho HS biết cách tư duy hình tượng nghệ
thuật, thành thạo kĩ năng đọc – hiểu, cảm thụ tác phẩm văn chương trong hệ thống tích hợp ngang và
tích hợp dọc, nên cũng rất cần có sự đổi mới trong KTĐG. Nhưng, việc đổi mới KTĐG như thế nào để
dạy và học môn Ngữ văn tích cực hơn, có hiệu quả cao hơn và gợi được sự hứng thú học tập đối với
HS thì không phải là vấn đề đơn giản, không thể thực hiện một cách máy móc, rập khuôn, mà đòi hỏi
chúng ta phải có quá trình chuẩn bị kiến thức cho HS một cách chu đáo, lựa chọn phương tiện, cách
thức kiểm tra sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình học tập của HS ở từng địa phương, từng trường,
từng lớp.
Thực tế, chất lượng môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay chưa cao, bộ môn Ngữ
văn chưa thu hút sự yêu thích của các em học sinh. Có hiện tượng thiên về KTĐG mức độ học thuộc
lòng, kiểm tra trí nhớ một cách đơn thuần. Người ra đề thường dừng lại ở mức độ KTĐG kiến thức lý
thuyết, khả năng ghi nhớ (nhận biết, tái hiện), ít đặt ra yêu cầu KTĐG mức độ thông hiểu và KTĐG kỹ
năng vận dụng tri thức, ít đòi hỏi HS phân tích, suy luận, khái quát. Cách KTĐG đó gây nên tình trạng
học tủ, học vẹt, ghi nhớ máy móc nhưng không nắm vững bản chất vấn đề, thiếu kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn. Việc KTĐG kết quả học tập còn chưa có tác dụng mạnh mẽ kích thích, động
viên HS nỗ lực học tập. Phần lớn lời phê, sửa lỗi bài làm của HS còn chung chung, ít khai thác lỗi để
rèn kỹ năng tư duy cho HS, một số lời phê của thầy cô thiếu thân thiện gây ức chế tâm lý cho HS;
KTĐG mới chỉ tập trung vào việc GV đánh giá HS, ít tạo điều kiện cho HS tự đánh giá mình và đánh
giá lẫn nhau.
Nhà giáo Mararenco từng nói: “Mỗi học sinh không phải là cái hũ để chúng ta đổ đầy nước, mà
mỗi học sinh là một bó đuốc mà ta phải thắp cho sáng rực”. Việc đổi mới kiểm tra – đánh giá trong
nhà trường nói chung và đối với môn Ngữ văn nói riêng đang từng bước được thực hiện. Quá trình đổi
mới này giúp học sinh giảm bớt tính thụ động, khuyến khích sự sáng tạo của học sinh bởi việc đổi mới
kiểm tra, đánh giá hiện nay luôn theo các tiêu chí: phạm vi kiến thức phải toàn diện, số câu hỏi phải
bao quát, đề kiểm tra phải phân hóa…Với đề kiểm tra như vậy sẽ là một trong những cách đo được
đúng nhất kiến thức của học sinh, và đó cũng là cách tốt nhất loại bỏ việc học tủ, dạy tủ. Việc đổi mới

kiểm tra, đánh giá đòi hỏi giáo viên dạy Văn cũng cần đổi mới cách chấm, cách phê. Tiếp nhận văn bản
văn học là một hệ thống mở và kết quả tiếp nhận ở mỗi học sinh có thể khác nhau, thậm chí có nhiều
mới lạ chưa hẳn trùng khớp với dự kiến của giáo viên. Chính vì thế đổi mới KTĐG còn có nghĩa là tôn
trọng và đề cao những tìm tòi, khám phá, cảm thụ phân tích văn bản tích cực của học sinh. Vì vậy, khi
chấm bài, nên tránh tình trạng chỉ cho điểm cao những bài viết đúng ý mình, giống như bài giảng của


mình. Cần tôn trọng và khuyến khích những cảm thụ tích cực của học sinh. Do yêu cầu của đặc trưng
bộ môn nên kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn nhằm mục đích đánh giá học sinh một cách toàn
diện về hai năng lực đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản, tạo điều kiện cho học sinh phát triển toàn
diện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và cảm xúc thẩm mỹ. Những năng lực này được cụ thể hóa trong
chuẩn chương trình môn học với những yêu cầu cần đạt trên cả ba mặt: kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh luôn dựa trên quan điểm tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh với ý nghĩa học sinh tự giác, chủ động, linh hoạt, trong lĩnh hội và vận dụng
kiến thức, kỹ năng. Mỗi một đề kiểm tra đều cố gắng tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng học sinh
được suy nghĩ tìm tòi, khám phá.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn chỉ đạo các trường THPT thực hiện các giải pháp hiệu
quả, tổ chức ôn tập cho học sinh lớp 12 phù hợp với từng trường, từng nhóm đối tượng học sinh nhằm
nâng cao chất lượng kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2014, quan tâm việc giúp học sinh nâng cao các mức
độ thông hiểu và vận dụng kiến thức. Đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn (trong đó có môn
Ngữ văn) cần tiếp tục nâng cao yêu cầu vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tăng cường ra các câu hỏi
mở, gắn với thời sự quê hương đất nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội.
Việc đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh cần cố gắng thể hiện được tinh thần đổi
mới phương pháp dạy học nhắm đánh giá và phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh khi
tham gia vào quá trình học tập, khuyến khích học sinh biết cách tự đánh giá kết quả học tập của mình,
của bạn thông qua những chỉ số đánh giá mà giáo viên cung cấp.
2. Đề xuất câu hỏi, đề kiểm tra theo hướng mở và hướng dẫn chấm để đánh giá chất lượng
học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực.
Từ những yêu cầu cơ bản trên của việc ra đề kiểm tra cho bộ môn Ngữ văn, tôi nhận thức được

rằng một trong những đổi mới cần thiết trong phương pháp học tập và kiểm tra đánh giá cho bộ môn
này là ra đề kiểm tra môn Ngữ văn cần ra theo hướng mở, áp dụng kĩ thuật ra đề thi và mã hóa trong
Pisa đối với lĩnh vực đọc- hiểu nói chung và môn Ngữ văn nói riêng (Chương trình đánh giá học sinh
quốc tế). Đây cũng là xu thế ra đề cho bộ môn Ngữ văn của nhiều nước tiên tiến trên thế giới trong
những năm gần đây.
Đề mở là dạng đề chỉ nêu ra yêu cầu về nội dung vấn đề cần nghị luận mà không yêu cầu bắt
buộc về thao tác nghị luận cũng như phạm vi nội dung của vấn đề nghị luận. Vì thế, ở dạng đề này đòi
hỏi người viết phải chủ động trong nhận thức nội dung đề cũng như những thao tác nghị luận sẽ sử


dụng khi làm bài. Dạng đề mở cơ bản đáp ứng được những yêu cầu trong việc kiểm tra đánh giá môn
học này, nói một cách khác là có thể hiện thực hoá những yêu cầu trong việc ra đề kiểm tra đánh giá
môn Ngữ văn hiện nay. Đề mở sẽ tạo cơ hội cho học sinh được bộc lộ một cách chủ động, linh hoạt,
sáng tạo tất cả những hiểu biết của mình về một lĩnh vực nào đó trong đời sống xã hội cũng như thực
hành những kĩ năng đã tiếp thu được trong quá trình học tập môn học này. Những đề Ngữ văn theo
hướng mở sẽ góp phần tích cực hoá quá trình học tập của học sinh, học sinh sẽ phải tự giác và chủ
động trong lĩnh hội và vận dung tri thức khi làm bài. Hơn thế nữa, học sinh còn có cơ hội suy nghĩ, tìm
tòi và khám phá về cuộc sống muôn màu muôn vẻ đang tồn tại xung quanh các em để từ đó có thêm
hiểu biết về cuộc sống và chủ động trong cuộc sống của mình.Những đề văn theo hướng mở còn tạo
điều kiện cho học sinh có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình trước cuộc sống- đó là cơ hội chủ động
trước cuộc sống- là một tinh thần và cũng là một kỹ năng cần có trong cuộc sống hiện đại hiện nay.Hơn
thế nữa đề mở cũng sẽ là dạng đề có khả năng phân hoá đựoc học sinh, phản ánh được trình độ nhận
thức cuộc sống, nhận thức văn chương của mỗi học sinh, phản ánh được đúng năng lực và thành tích
học tập của đa số học sinh.Từ đó hình thành và hoàn thiện cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết và hình
thành được năng lực cảm thụ, năng lực bộc lộ, biểu đạt tư tưởng tình cảm bằng ngôn ngữ viết bằng
tiếng Việt của học sinh.
Ra đề bài môn Ngữ văn theo hướng “mở” đòi hỏi giáo viên phải thực sự có trình độ chuyên
môn tốt, phải thực sự say mê tìm tòi suy nghĩ. Ra đề bài là vấn đề quan trọng và nhạy cảm, có ý nghĩa
quyết định trong công tác kiểm tra đánh giá. Việc ra đề đã khó, việc xây dựng đáp án cho một đề bài
Ngữ văn theo hướng “mở” lại càng khó hơn.

Một số giáo viên quan niệm rằng: đề bài “mở” là những đề bài thuộc nghị luận chính trị xã hội.
Thực ra, đề bài theo hướng “mở” là đề bài cho tất cả các lĩnh vực cuộc sống, văn học nghệ thuật và cả
những vấn đề nhạy cảm và nóng hổi của cuộc sống hiện nay…; lại càng không nên thuần tuý ra đề ở
một lĩnh vực nhất định, tránh những kiến thức “hàn lâm”, đơn điệu một chiều, nhưng phải tinh giản,
đòi hỏi người làm bài phải xử lý các tình huống đề một cách chính xác và tối ưu nhất.
Để biên soạn đề kiểm tra theo hướng mở ta cũng cần thực hiện theo qui trình ra đề kiểm tra
nhưng có lẽ sự khác nhau giữa qui trình ra đề thông thường và qui trình ra đề mở là ở khâu biên soạn
câu hỏi theo ma trận và xây dựng thang điểm và đáp án đều theo hướng mở.
Bước 1: Xác định mục đích của đề kiểm tra:


Bước 2: Xác định hình thức đề kiểm tra:
Đề kiểm tra có các hình thức sau:
- Đề kiểm tra tự luận.
- Đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan.
- Đề kiểm tra kết hợp cả hai hình thức trên.
Bước 3: Thiết lập ma trận đề kiểm tra:
Bước 4: Biên soạn câu hỏi theo ma trận:
Bước 5: Xây dựng đáp án và thang điểm:Cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nội dung: khoa học và chính xác;
- Cách trình bày :cụ thể, chi tiết những ngắn gọn, dễ hiểu.
- Phù hợp với ma trận đề kiểm tra.
Bước 6: Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra
- Phát hiện những sai sót trong từng câu hỏi, đáp án và thang điểm về nội dung cũng như cách
trình bày.
- Đối chiếu câu hỏi với ma trận để kiểm tra về sự phù hợp giữa chúng.
- Đối chiếu nội dung câu hỏi với chuẩn kiến thức kĩ năng, với nội dung chương trình và trình độ
của học sinh.
Trong những năm gần đây, cấu trúc đề bài kiểm tra Ngữ văn bậc học phổ thông không còn là
dạng đề truyền thống có tính chất mệnh lệnh hay áp đặt mà có sự thay đổi cả về nội dung và cấu trúc.

Cụ thể là trong đề bài kiểm tra có phần câu hỏi trắc nghiệm và câu hỏi tự luận. Áp dụng kĩ thuật ra đề
thi và mã hóa trong Pisa (chương trình đánh giá học sinh quốc tế), GV sẽ ra đề kiểm tra học sinh phần
trắc nghiệm theo hệ thống các câu hỏi:


- Câu hỏi mở trả lời ngắn
- Câu hỏi mở trả lời dài (khi chấm sẽ phải tách ra từng phần để cho điểm)
- Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời (dựa trên những trả lời có sẵn)
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
- Câu hỏi phức hợp: Có- Không, Đúng- Sai
Phần tự luận GV ra đề cho học sinh theo hướng mở, học sinh được bộc lộ một cách chủ động,
linh hoạt, sáng tạo tất cả những hiểu biết của mình về lĩnh vực đang được đề cập cũng như thực hành
những kĩ năng đã tiếp thu được trong quá trình học tập môn học này.
Nhưng điều cần lưu ý là: đáp án đối với dạng đề “mở” cũng cần được soạn theo hướng “mở”.
Nghĩa là, không nên ràng buộc người viết vào một số ý nào có sẵn, cho trước mà chỉ cần định hướng về
cách giải quyết. Chất lượng của bài viết cũng không nên quá câu nệ vào dung lượng ngắn, dài. Điều
quan trọng là học sinh phải xác định đúng trọng tâm vấn đề cần trình bày và thể hiện nó một cách rõ
ràng, minh bạch, logic, có chủ kiến, có sức thuyết phục. Giáo viên khi chấm cũng phải thật sự “vững
tay” để không bỏ qua những suy nghĩ độc đáo, sáng tạo của học sinh (có thể không có trong đáp án) thể
hiện trong bài viết. Trong nhiều năm qua, tất cả giáo viên dạy Ngữ văn trong tổ Văn chúng tôi đã xác
định rõ mục tiêu, nội dung dạy học từ đặc điểm bộ môn. Đó là: khắc sâu kiến thức, bồi dưỡng tâm hồn
cho học sinh, giúp các em biết hướng tới cái đẹp, cái thiện trong cuộc sống, hoàn thiện nhân cách, có
điều kiện lựa chọn hướng phát triển, phát huy năng lực cá nhân.
3. Kế hoạch, lộ trình triển khai việc đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập bộ môn
Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực.
Theo quan điểm KTĐG là một quá trình, theo một quá trình, đánh giá từng nội dung, từng bài
học, từng hoạt động giáo dục,...và đánh giá toàn diện theo mục tiêu giáo dục, trong thời gian qua, tổ
Văn trường THPT chuyên Lào Cai đã được hướng dẫn và thực hiện đổi mới cách thức, nội dung
KTĐG, để thúc đẩy đổi mới PPDH môn Ngữ văn .
- Tổ chức bồi dưỡng GV về KTĐG trong bồi dưỡng định kì và thường xuyên, giúp cho GV

nghiên cứu và nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng trong CTGDPT. KTĐG theo 3 mức độ: Nhận biết,
thông hiểu, vận dụng để giảng dạy, KTĐG theo mục tiêu dạy học


- Đưa nội dung đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH vào nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn,
nghiên cứu và thảo luận rộng rãi cách giải quyết vấn đề về đổi mới KTĐG, đổi mới PPDH; tổ chức dự
giờ để rút kinh nghiệm về hiệu quả đổi mới KTĐG và đổi mới PPDH; báo cáo thường xuyên về tình
hình triển khai đổi mới KTĐG của tổ với Ban giám hiệu;
- Quản lý hoạt động KTĐG của GV theo tinh thần vận dụng sáng tạo và phù hợp với đặc điểm
đối tượng HS, không sao chép máy móc nguyên bản đề KT, giáo án của đồng nghiệp (kể cả giáo án
điện tử);
- Đề xuất với nhà trường về công tác chuyên môn và bồi dưỡng GV, phát hiện và kiến nghị phổ
biến kinh nghiệm tốt về chuyên môn;
- Xây dựng nguồn đề KT để GV tham khảo và cung cấp cho các cơ quan quản lý giáo dục.
Chúng tôi cũng đã thống nhất cách thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá ở môn Ngữ văn trên
các phương diện cụ thể như sau:
1. Thời điểm kiểm tra: KTĐG không chỉ ở thời điểm cuối cùng ( cuối học kì, cuối năm), mà
thực hiện trong cả quá trình học tập bộ môn. Cụ thể là sau khi học xong một tác phẩm, một số tác phẩm
hoặc một giai đoạn văn học thì thực hiện KTĐG ngay; lần kiểm tra sau luôn có yêu cầu cao hơn, nội
dung mới hơn so với lần kiểm tra trước.
2. Phương thức kiểm tra đánh giá:
a/ Kiểm tra thường xuyên: KT vấn đáp và KT 15 phút. Ở cả 3 khối lớp: 10, 11, 12 , tổ chuyên
môn chúng tôi thống nhất số lần KTĐG như sau:
+ Đối với lớp cơ bản
- Kiểm tra vấn đáp ( KT miệng): 1 đến 2 lần trong 1 học kì.
- Kiểm tra 15 phút ( KT viết): 3 lần trong 1 học kì
+ Đối với lớp chuyên và lớp nâng cao
- Kiểm tra vấn đáp (KT miệng): 2 đến 3 lần trong 1 học kì
- Kiểm tra 15 phút (KT viết): 4 lần trong 1 học kì
b/ Kiểm tra định kì:

- Kiểm tra viết từ 1 tiết trở lên: 3 lần trong học kì (lớp cơ bản);4 lần trong học kì ( lớp nâng cao)
- Kiểm tra tổng hợp cuối HK I và cuối năm.
3. Mục tiêu và yêu cầu đề KTĐG:
a/ Mục tiêu:


- Đánh giá đúng thực chất trình độ, năng lực đọc – hiểu, cảm thụ, bày tỏ thái độ, cảm xúc của
HS trước một vấn đề văn chương.
- Góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
- Giảm áp lực thi cử, đảm bảo sự công bằng, khích lệ tinh thần học tập chủ động, sáng tạo và
gây sự hứng thú để HS thích học môn Ngữ văn hơn và học tốt hơn.
b/ Yêu cầu:
- Ra đề căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của từng bài học, từng nhóm bài, từng giai đoạn
văn học,...; không hình thức “ đối phó” cũng không gây áp lực nặng nề cho HS.
- Nội dung, yêu cầu, cách diễn đạt đề kiểm tra phải rõ ràng, chính xác, khách quan, công bằng,
tích hợp cả 3 phân môn: Đọc văn, Làm văn, Tiếng Việt.
- Đề KTĐG đảm bảo các tiêu chí: tính toàn diện, độ tin cậy, tính khả thi, phân hóa đối tượng
HS và đạt hiệu quả cao.
- Đối với những đề KT tự luận , chúng tôi thường xây dựng dạng đề mở, có phần liên hệ thực tế
để khuyến khích tính sáng tạo của HS.
4. Mức độ nhận thức trong đề KTĐG: Tổ chuyên môn chúng tôi đã thống nhất: khi ra đề
KTĐG, cần chú trọng 3 lĩnh vực cơ bản: nhận thức, hoạt động (vận dụng) và cảm xúc, thái độ của HS.
Từ đó, xây dựng các đề KTĐG với mức độ từ đơn giản đến phức tạp: nhận biết -> thông hiểu -> vận
dụng -> phân tích -> tổng hợp -> đánh giá. Cụ thể như sau:
- Đề KTĐG vấn đáp (KT miệng): chủ yếu ở 2 mức độ: nhận biết -> thông hiểu ( vì thời gian KT
có hạn).
- Đề KTĐG 15 phút: ở 3 mức độ : nhận biết -> thông hiểu -> vận dụng.
- Đề KT viết từ 1 tiết trở lên: Mức độ nhận thức từ đơn giản đến phức tạp vớ 6 mức độ: nhận
biết -> thông hiểu -> vận dụng -> phân tích -> tổng hợp -> đánh giá .
Ví dụ: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng.

5. Hình thức KTĐG: Hai hình thức KTĐG cơ bản ( vấn đáp, tự luận) được tất cả các GV trong
tổ chuyên môn thực hiện đồng bộ ở cả 3 khối lớp 10, 11, 12 như sau:
a/ Hình thức KT vấn đáp ( KT miệng): vận dụng kiểm tra thường xuyên ở mỗi tiết học ( có thể
ở đầu , giữa, hoặc cuối tiết học).
b/ Hình thức KT tự luận:
- Vận dụng ở các lần KT 15 phút trong học kì.
- Vận dụng ở các lần KT từ 1 tiết trở lên
c/ Riêng đề KTĐG tổng hợp cuối học kì I và cuối năm của khối lớp 12: Xây dựng theo cấu trúc
đề thi tốt nghiệp THPT ( tạo điều kiện cho HS làm quen với cấu trúc của đề thi TN THPT):


- Phần chung cho tất cả các thí sinh: (5 điểm)
+ Câu 1: (2 điểm)- Tái hiện kiến thức đã học.
+ Câu 2: (3 điểm)- Bài văn ngắn, kiểu bài NL xã hội
- Phần riêng – Phần tự chọn: (5 điểm)
Gồm 2 câu: 1 câu theo chương trình chuẩn, 1 câu theo chương trình nâng cao; kiểu bài NL văn học, thí
sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu.
Đối với môn Ngữ văn, chúng tôi áp dụng kiểm tra theo hướng trắc nghiệm khách quan, kết hợp
trắch nghiệm khách quan với tự luận đối với bài KT 15 phút trở lên, nhằm phát huy được độ “nhạy”
trong việc huy động kiến thức của học sinh. Kết quả kiểm tra đánh giá giúp các thầy cô giáo kịp thời
điều chỉnh nội dung kiến thức và phương pháp giảng dạy phù hợp.
Nắm được mục đích, yêu cầu , sự cần thiết của dạng đề “mở” trong việc KTĐG, tổ Văn chúng
tôi trong thời gian qua đã áp dụng dạng đề “mở” trong những bài kiểm tra từ một tiết trở lên. Ví dụ:
- Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
- Hứng thú và hiệu quả của việc tự học đối với học sinh PTTH hiện nay.
Khác với dạng đề “truyền thống” thường kèm theo những “mệnh lệnh”, gợi dẫn về thao tác lập
luận như: “Hãy chứng minh…”, “Hãy phân tích…”, “Hãy giải thích…”, “Hãy bình luận”…; hoặc
phương thức biểu đạt như: “Hãy phát biểu cảm nghĩ”…, “Hãy kể…”. Cùng với các dạng đề nghị luận
văn học, những đề văn nghị luận xã hội theo hướng “mở” sẽ tạo cho học sinh cơ hội được bày tỏ nhận
thức, suy nghĩ của mình đối với những vấn đề khác nhau của xã hội, từ đó, góp phần hình thành kỹ

năng sống, kỹ năng ứng xử phù hợp đối với những vấn đề đặt ra trong cuộc sống thường nhật. Đây
cũng là cách để “kéo” văn chưong về gần hơn với cuộc sống.
Như trên đã trình bày, đổi mới KTĐG là động lực để đổi mới PPDH, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục chung, nên nó đã trở thành một nhu cầu cấp thiết cho
tất cả các môn học, và môn Ngữ văn cũng không ngoại lệ. Là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn, chúng
tôi hiểu rằng: qua những bài KT của HS, ta sẽ biết được các em đã biết, đã hiểu được những gì về lĩnh
vực văn chương; đã trình bày những điều mình mà các em biết, hiểu ấy bằng cách diễn đạt như thế nào,
vận dụng vào thực tế ra sao, từ đó chúng tôi kịp thời điều chỉnh PPDH sao cho đạt hiệu quả cao hơn.
Như vậy, kết quả KTĐG là chuẩn mực, là “thước đo” năng lực dạy của thầy và năng lực học của trò,
giúp cho thầy dạy tốt hơn, trò học hứng thú hơn. Để “ thước đo” ấy ngày càng chính xác và có hiệu
quả, tổ chuyên môn chúng tôi đã cố gắng xây dựng cho mình một ngân hàng đề KTĐG phong phú, đa
dạng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho việc KTĐG, vừa so sánh chất lượng đào tạo các khóa học khác
nhau.Tuy nhiên, ngân hàng đề KTĐG phải được thường xuyên bổ sung, đổi mới, sàng lọc những đề có
kiến thức chưa toàn diện, thiếu khách quan, kém hiệu quả. Trên đây là những suy nghĩ và quá trình


thực hiện việc đổi mới KTĐG của tổ Văn trường THPT chuyên Lào Cai trong thời gian qua, có lẽ chưa
thật hoàn chỉnh bởi chúng tôi hiểu, đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, trong đó có cả việc
đổi mới KTĐG là cả một vấn đề nan giải, cần một tư tưởng có tính đột phá, cần có thời gian để triển
khai, và nhất là vai trò của những người thực thi. Vì vậy, rất mong có được sự góp ý trao đổi, bổ sung
của các đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.



×