Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SỰ SUY GIẢM đa DẠNG SINH học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.97 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ ĐỒNG NAI
KHOA TP- MT-ĐD

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI
Tên đề tài:
SỰ SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Hồng Giang
Lớp: 14DSP1.


DANH SÁCH SINH VIÊN


LỜI CẢM ƠN
Trước hết chúng em xin cảm ơn gia đình đã tạo cho chúng em niềm tin và là điểm tựa vững chắc
để chúng em vượt qua mọi khó khăn.
Chúng em xin cảm ơn cô Hoàng Hồng Giang đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức giúp
chúng em trong thời gian làm bài tiểu luận.
Và xin cảm ơn tất cả các bạn đã luôn động viên ủng hộ, giúp đỡ nhau để hoàn thành tốt bài tiểu
luận.
Sau cùng chúng tôi xin cảm ơn bản thân vì những nổ lực, cố gắng của bản thân để hoàn thành bài
tiểu luận.
Nhóm sinh viên thực hiện.


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
.
Thái độ làm việc:
Kỹ năng làm việc:
Trình bày:
Điểm số:
Biên Hòa, ngày tháng năm 2015

Hoàng Hồng Giang


MỤC LỤC


SỰ SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa. Do vị trí địa lí, Việt Nam rất đa dạng về địa hình, kiểu
đất, cảnh quan, có những đặc trưng khí hậu khác nhau giữa các miền. Trải dài từ 8030 tới 230 vĩ
độ Bắc, với sự khác biệt về khí hậu và địa hình giữa các miền nên Việt Nam có sự đa dạng lớn về
môi trường tự nhiên và sinh học. Hệ sinh thái từ rừng mưa thường xanh cận nhiệt đới ở phía Bắc
tới rừng nhiệt đới ở phía Nam, rừng ngập mặn và đất ngập nước ven biển đã tạo ra hệ động, thực
vật phong phú và có giá trị. Đặc điểm đó là cơ sở rất thuận lợi để giới sinh vật phát triển đa dạng

về thành phần loài, phong phú về số lượng. Lĩnh vực sinh học hiện nay vẫn còn nhiều điều mới
lạ và bí ẩn bởi những gì chúng ta biết chỉ là một phần rất nhỏ của thiên nhiên rộng lớn này. Từ đó
ta thấy đa dạng sinh học có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên Trái Đất, không có gì thay
thế được trong thời kì phát triển hiện nay, khi xu hướng toàn cầu hóa, công nghiệp hóa đang trên
đà phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, là một nước đang phát triển, từng bước
chuyển mình sang nền kinh tế công nghiệp lớn, kèm theo đó là đời sống dân cư ngày càng phát
triển, đô thị hóa cao…..và điều này đang đe dọa đến môi trường nói chung và sự đa dạng sinh
học nói riêng. Nó làm cho nhiều loài bị suy giảm nhanh chóng, thậm chí có một số loài đang ở
ngưỡng cửa của sự diệt vong mà nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đang bị phá hủy do săn
bắt quá mức và do sự tấn công một cách dữ dội của các loài nhập cư cũng như sự cạnh tranh giữa
các loài với nhau. Chúng ta đang sử dụng nguồn tài nguyên quý giá nhất mà không thể thay thế
được trên thế giới, đó là sự đa dạng sinh học – cơ sở của sự sống còn, sự thịnh vượng và sự phát
triển bền vững của chính chúng ta. Tất cả tài sản quý giá đó rất cần thiết để đáp ứng các nhu cầu
hằng ngày của chúng ta hiện nay, trong tương lai. Thế nhưng loài người đã không biets giữ gìn
nguồn tài nguyên quý giá đó mà lại khai thác quá mức, tiêu hao và phá hủy nó với danh nghĩa là
để phát triển. Sự suy thoái đa dạng sinh học trên trái đất hàng ngày, hàng giờ, âm thầm phá hủy
khả năng phát triển của loài người. Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng
trước những thử thách lớn về vấn đề suy giảm đa dạng sinh học.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
1.1Khái niệm đa dạng sinh học:
-Đa dạng sinh học (tiếng Anh: biodiversity) được định nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh
vật sống ở tất cả mọi nơi, bao gồm: các hệ sinh thái trên cạn, sinh thái trong đại dươngvà các hệ
sinh thái thuỷ vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một thành phần trong
đó. Thuật ngữ đa dạng sinh học này bao hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các loài và giữa
các hệ sinh thái khác nhau.


-Thuật ngữ "đa dạng sinh học" được đưa ra lần đầu tiên bởi hai nhà khoa học Norse và
McManus vào năm 1980. Định nghĩa này bao gồm hai khái niệm có liên quan với nhau là: đa

dạng di truyền (tính đa dạng về mặt di truyền trong một loài) và đa dạng sinh thái (số lượng các
loài trong một quần xã sinh vật). Cho đến nay đã có hơn 25 định nghĩa nữa cho thuật ngữ "đa
dạng sinh học" này. Trong đó, định nghĩa của tổ chức FAO (Tổ chức Lương nông Liên hiệp
quốc) cho rằng: "đa dạng sinh học là tính đa dạng của sự sống dưới mọi hình thức, mức độ và
mọi tổ hợp, bao gồm đa dạng gen, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái".
1.2 Nguyên nhân gây suy giảm đa dạng sinh học:
1.2.1 Nguyên nhân trực tiếp:
a) Nguyên nhân trực tiếp Chiến tranh:
Trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã hứng chịu 72 triệu lít chất dioxine, khoảng 13 triệu
tấn bom đạn( tạo ra 23 triệu hố bom lớn nhỏ), bom cháy và xe ủi đất, kết quả là thêm 2 triệu ha
rừng đã tiêu hủy, bên cạnh đó việc khai hoang, phá rừng làm ruộng để phục vụ kháng chiến và
đời sống nhân dân cũng đã phá bỏ một diện tích rừng khá lớn.
b) Cháy rừng: Hàng triệu năm qua, quy luật tự nhiên đã đưa các cánh rừng già trải qua vô vàn
cơn hoả hoạn. Vài trăm năm trở lại đây, lực lượng cứu hoả ở các vạt rừng rậm rạp được huấn
luyện để dập lửa càng nhanh càng tốt. Song có ý kiến quả quyếtrằng, thành công ngày càng cao
trong chữa cháy chưa hẳn đã là một tín hiệu đáng mừng.Khi người ta đang cố sức ngăn cản lửa
thực hiện nhiệm vụ điều hoà hệ sinh thái tự nhiên thì thảm hoạ với những cánh rừng, với những
con người sống xung quanh nó ngày càng lớn.Lửa đóng vai trò thiết yếu trong việc quét sạch các
tàn tích cũ và tạo nên diện mạo mới cho khu rừng.Nếu không có lửa thì những cành cây khô và
lá rụng sẽ không được làm sạch thường xuyên; qua thời gian, lớp thực vật này bị mục dần và
biến thành tầng tầng lớp lớp nhiên liệu gây cháy ngay dưới nền của khu rừng. Để rồi một ngày
kia, chỉ cần một mồi lửa nhỏ, chúng sẽ bùng lên ngùn ngụt, thiêu rụi với tốc độ và mức độ kinh
hoàng hơn bất kỳ đám cháy thông thường nào. Khi điều đó xảy ra, hiểm hoạ đến với khu vực dân
cư lân cận là điều không phải bàn cãi.Bên cạnh đó, lửa còn có vai trò tái tạo.Một số cây như gỗ
thông chỉ có thể sinh sôi nhờ một tác nhân là lửa; loài cây này khép chặt các bó hạt giống trong
lớp nhựa cây và chỉ dưới sức nóng của lửa, lớp nhựa cây này mới tan chảy và giải phóng các bó
hạt. Suy thoái cũng giống như một trận cháy rừng - nó sẵn sàng thiêu rụi mọi vật cản trên đường
đi. Từ hàng trăm năm qua, các quốc gia và các tập đoàn đã ra sức chống chọi trước từng đợt
khủng hoảng tàn khốc bằng những chính sách tài khoá và tiền tệ ở quy mô quốc gia lẫn quy mô
đơn lẻ của từng tổ chức. Nhưng rồi, kết cục, cho tới tận ngày hôm nay, con người vẫn tiếp tục vật

lộn.
c) Khai thác quá mức:


Tài nguyên rừng được coi là “lá phổi” của trái đất, rừng có vai trò rất quan trọng trong việc duy
trì sự cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học trên hành tinh. Bởi vậy, bảo vệ rừng và nguồn tài
nguyên rừng luôn trở thành một nội dung, một yêu cầu không thể trì hoãn đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới trong cuộc chiến đầy gian khó hiện nay nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị
huỷ hoại ở mức báo động mà nguyên nhân chủ yếu là do chính hoạt động của con người gây ra.
Rừng thường được người dân địa phương dùng làm nơi chăn thả gia súc và sản xuất nông
nghiệp. Ngoài ra, rừng cũng là nguồn cung cấp cho người dân nhiều sản vật như củi đun, gỗ,
động thực vật hoang dã làm thức ăn và làm thuốc.
Khai thác và buôn bán bất hợp pháp các loài động, thực vật hoang dã quí hiếm là một trong
những nguyên nhân chính làm suy giảm sự đa dạng sinh học trên toàn cầu. Vì vậy, cộng đồng
quốc tế, trong đó có Chính phủ Việt Nam, đã ký cam kết về kiểm soát buôn bán các loài động,
thực vật bị đe dọa tuyệt chủng (Công uớc CITES). Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã tạo điều
kiện cho thương mại phát triển mạnh mẽ, trong đó có buôn bán các loài động, thực vật hoang dã
và Việt Nam cũng là một điểm nóng về buôn bán loại hàng hóa này. Tuy nhiên, rất khó xác định
các sản phẩm và tiêu bản như da, lông, sừng, xương ... có xuất xứ từ động thực vật hoang dã, gây
khó khăn cho việc kiểm soát của các cơ quan chức năng. Gần đây, chỉ thị phân tử ADN đã được
sử dụng để giám định chính xác nguồn gốc của các loại tiêu bản này, vì ADN có cấu trúc đặc
trưng cho loài và quần thể địa lý, tạo cơ sở pháp lý để ngăn chặn buôn bán trái phép động thực
vật hoang dã.
Việc buôn bán, xuất nhập khẩu động thực vật hoang dã cũng tạo thuận lợi cho sự hình thành các
quần thể lai, làm mất đi giá trị của sự đa dạng di truyền.Vì mỗi loài và quần thể đều đã có sự tiến
hóa thích nghi với các môi trường sống khác nhau trong phạm vi phân bố của loài. Cấu trúc
ADN cũng đặc trưng cho quần thể, nên đã được sử dụng làm chỉ thị về sự lai tạp giữa các quần
thể hoặc loài có quan hệ gần gũi. Việc lưu giữ số liệu ADN nguyên gốc của các loài và quần thể
địa phương sẽ tạo cơ sở quan trọng để đánh giá và bảo tồn sự toàn vẹn của loài và quần thể.Động
vật hoang dã quí hiếm là tài sản quí giá của quốc gia, nên việc bảo vệ và phát triển chúng luôn là

một nhiệm vụ cấp bách.Việc bảo tồn đa dạng sinh đòi hỏi những hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau, nhưng lĩnh vực sinh học và di truyền bảo tồn đóng vai trò rất quan trọng, tạo cơ sở
khoa học cho việc bảo tồn và phát triển bền vững.
d) Xây dựng cơ sở hạ tầng: Xây dựng cơ sở hạ tầng gồm đường giao thông, cầu phà… đến tiến
trình phát triển đất nước. Thiếu quy hoạch, thiếu cơ sở khoa học có ảnh hưởng đến đa dạng sinh
học Ví dụ: Xây dưng đường Trường Sơn, các tuyến đường đi bộ… dẫn đến làm mất tính liên tục
của vùng phân bố các loài, gây nhiễu loạn và làm suy thoái đa môi trường tự nhiên.
e) Ô nhiễm môi trường nước:Do sự phát triển chậm, nước ta đã phải sử dụng những máy móc
lạc hậu, nhập khẩu máy móc đã qua sử dụng, trong khi đó việc sử lý nước thải, rác thải nhà máy


chưa được thực hiện nghiêm túc, rác thải, nước thải bệnh viện và chất thải sinh hoạt cũng chưa
được sử lý tốt, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng… các hành động trên đã làm ô
nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt, nhất là ở các thành phố lớn. nước biển cũng bị ô nhiễm
nặng, nhất là vùng ven bờ, do các phương tiện vận tải biển thải ra và do các vụ đắm tàu, nhất là
tàu chở dầu.
g) Di nhập và xâm lấn của các loài sinh vật lạ: Đa dạng sinh học của nước ta đã và đang bị
nguy hại bởi các loài ngoại lai như: bèo nhật bản, hoa trinh nữ, ốc bươu vàng, sáo nâu, chào mào
đỏ đít, sáo đá xanh…trong đó nghiêm trọng nhất là sáo đá xanh và trinh nữ đầm lầy.
1.2.2 Nguyên nhân gián tiếp:
a) Mất và phá hủy nơi cư trú:Ở Việt Nam mất nơi sống có nhiều nguyên nhân như: do phá
rừng trồng cao su, cà phê, do chất độc hóa học, bom đạn đã sử dụng trong chiến tranh, do phá
rừng để trồng cây nông nghiệp, do xâm lấm biển để nuôi trồng thủy sản, do di dân để phát triển
vùng kinh tế mới, do cháy rừng...
b) Sự gia tăng dân số và di cư:
Do nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu của con người: mở rộng đất nông nghiệp, xâm lấn
vào đất rừng.
Chúng ta thấy sự đông dân khiến người ta sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn dẫn đến
suy thoái đa dạng sinh học mạnh hơn.Chừng nào chúng ta chưa thay đổi cách sống, chưa ngừng
hủy hoại môi sinh và các sinh vật khác thì sự sống sót và sự phát triển của chúng ta còn nhiều

nguy cơ.
Di dân là nguồn nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học: như phát triển các vùng kinh tế mới,
thay đổi cơ cấu dân số và tập quán canh tác của miền núi.
Sự đói nghèo cũng ảnh hưởng đến đa dạng sinh học: người nghèo không có ruộng, đất bị bạc
màu dẫn đến phá rừng lấy đất canh tác.
Chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng sâu sắc ở qui mô lớn đến đa dạng sinh học nhất
là trong thời kì đổi mới.
c) Biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu:
ĐDSH, nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con
người.Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, ĐDSH đang bị suy thoái nghiêm trọng. Các hệ
sinh thái bị tác động và khai thác quá mức; diện tích rừng, nhất là rừng nhiệt đới bị thu hẹp một
cách báo động. Tốc độ tuyệt chủng của các loài ngày một tăng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm
giảm/mất các chức năng của hệ sinh thái như điều hoà nước, chống xói mòn, đồng hóa chất thải,
làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu


thiên tai/các hậu quả cực đoan về khí hậu. Và hệ quả cuối cùng là hệ thống kinh tế bị suy giảm
do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, nhất là ở các nước đang và chậm phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Đa dạng sinh học là cơ sở quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của các quốc
gia.Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trước sự tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, ĐDSH
đã và đang bị ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng. Theo Báo cáo triển vọng Môi trường toàn cầu
của Liên Hợp Quốc 2007, thì BĐKH đang gây ra tình trạng suy thoái môi trường trên phạm vi
toàn cầu, đòi hỏi thế giới phải hành động nhanh chóng hơn bao giờ hết. Đối với Việt Nam - một
trong những nước được dự báo sẽ bị ảnh hưởng nặng nề của BĐKH thì có lẽ vấn đề bảo vệ
ĐDSH cần phải được quan tâm triệt để.
d) Sự bất lực của chính quyền và những chiến lược phát triển không hợp lý:
Những chính sách nhà nước, những chương trình hiện tại để bảo vệ rừng và rừng đầu nguồn
chưa đáp ứng được nhu cầu để sự tác động đến rừng và sự phát triển cộng đồng một cách lâu bền
và thống nhất. Ngoài ra, sự kết hợp đáng tiếc những mảng sinh cảnh và những áp lực của nhu

cầu con người đối với tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam đòi hỏi phải có công tác bảo tồn sáng
tạo và những chiến lược quản lý.
Nhìn chung, những công tác tổ chức không hiệu quả, trách nhiệm quản lý bị phân tán, hỗ trợ
tài chính không đủ, tham gia của cộng đồng hạn chế, và tư vấn kỹ thuật kém hiệu quả trong phát
triển kinh tế là những hạn chế cơ bản đối với công tác bảo tồn tính đa dạng sinh học ở Việt Nam.
1.2.3 Một số ví dụ cụ thể:
Trong nhiều năm qua, thị trấn Tam Đảo đã bị lợi dụng bíến thành một trong những trung tâm
tiêu thụ động vật hoang dã của miền Bắc. Kết quả điều tra không chính thức của một tổ chức phi
chính phủ khoảng 2 năm trước đây cho thấy đa số các nhà hàng, khách sạn ở Tam Đảo đều phục
vụ “đặc sản thú rừng”, tuy nhiên thường là “bí mật” để tránh sự kiểm soát của lực lượng kiểm
lâm và các tổ chức bảo tồn. Động vật bị bắt về được chia nhỏ thành nhiều phần và ướp lạnh, do
những người thu gom mua lại từ thợ săn và mang đến các nhà hàng khi được yêu cầu. Trong báo
cáo của Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GTZ) phối hợp với cán bộ Viện Sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật (IEBR) thực hiện năm 2001 cho thấy một số địa điểm thường xuyên diễn ra hoạt động
mua bán động vật hoang dã như: thôn Thai Bạ (xã Thiện Kế), thôn Đồng Phai (xã Hợp Hòa),
thôn Khuân Nanh, Đầm Làng (xã Yên Lãng), thôn Chiểm 1 và Hòa Bình 2 (xã Quân Chu), xóm
Chuối (xã Ký Phú) thuộc vùng đệm VQG.
Ngoài mục đích phục vụ cho các nhà hàng đặc sản, động thực vật ở đây còn bị khai thác để
ngâm rượu (rắn, tắc kè, kỳ đà, bìm bịp, ong) và làm đồ lưu niệm bán cho khách du lịch (rùa đất


xpeng-lơ, rùa sa nhân và cá cóc – loài lưỡng cư quý hiếm chỉ có ở Tam Đảo và một số ít vùng lân
cận). Tình trạng này chỉ mấy năm trước đây vẫn còn diễn ra khá công khai.
Bên cạnh đó, Tam Đảo được coi là nơi buôn bán cũng như trung chuyển côn trùng.Sự săn bắt
quá mức đã làm suy giảm đáng kể lượng côn trùng ở đây, đặc biệt là các loài rất quý hiếm như
bướm Phượng Teinopalpus spp. và cặp kìm Odontolabis cuvera.
Việc buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã trên địa bàn thị trấn Tam Đảo gây ra những tác
động mạnh đến “an toàn sinh học” tại VQG Tam Đảo. Thống kê cho thấy trong tổng số 64 loài bị
săn bắt và buôn bán tại Tam Đảo có tới 31 loài quý hiếm.Nhiều loài động thực vật, đặc biệt là
các loài có giá trị kinh tế đã bị khai thác cạn kiệt hoặc không còn tồn tại. Điều này xảy ra đối với

các nhóm: Linh trưởng, Thú họ Mèo, nhóm Gấu, Thú gặm nhấm, nhóm chim và nhóm rùa.
Các nhà khoa học nhận định tình trạng khai thác và buôn bán lâm sản, đặc biệt là động vật
hoang dã (ĐVHD) ở VQG Tam Đảo là một trong các tác nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới
đa dạng sinh học của khu vực Tam Đảo.
Dòng suối Bạc chảy qua thị trấn Tam Đảo. Đây cũng là nơi tiếp nhận trực tiếp nước thải sinh
hoạt của trên 300 hộ dân và các nhà hàng, khách sạn kinh doanh tại thị trấn và đổ xuống xã Hồ
Sơn, nơi có hàng nghìn người dân sinh sống và sử dụng nguồn nước này cho tưới tiêu và sinh
hoạt. Mức độ ô nhiễm nước suối Bạc tập trung vào mùa du lịch bởi trong khoảng thời gian này
trung bình mỗi tuần thị trấn Tam Đảo đón khoảng 1.400 du khách đến tham quan, nghỉ mát.
Nhìn những gì đang diễn ra ở Tam Đảo 1 mà liên tưởng tới những gì sẽ đến nếu nay mai hình
thành thêm khu du lịch Tam Đảo 2.Liệu những người dân vùng đệm VQG Tam Đảo, những
người sống “tựa lưng vào rừng” có được đổi đời nhờ chủ trương này của tỉnh hay không và rồi
tương lai của VQG Tam Đảo sẽ đi tới đâu?
1.3 Thực trạng về suy giảm đa dạng sinh học trên thế giới và ở Việt Nam:
-Suy giảm đa dạng sinh học ở VN nhanh nhất thế giới.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo quốc gia về cung cấp nước sạch vệ sinh môi trường, Việt Nam
là nước có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ 10 thế giới nhưng tốc độ suy giảm đa dạng cũng
đang được xếp vào loại nhanh nhất thế giới.
Tại lễ phát động “Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường", Ban chỉ đạo cho biết
nhiều hệ sinh thái tự nhiên bị xâm hại, giảm thiểu diện tích rừng và trong vòng 50 năm tới, rừng
ngập mặn sẽ giảm 3/4 diện tích.
Nguyên nhân là do rừng tự nhiên và rừng ngập mặn vẫn tiếp tục bị tàn phá nghiêm trọng; tài
nguyên nước của Việt Nam cũng đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt do khai thác bừa bãi, ô nhiễm
nguồn nước ngầm.


Tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá gia tăng và dân số phát triển cũng đang gây sức ép đối với
tài nguyên và môi trường, nhất là ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong
khi đó, ý thức bảo vệ môi trường ở người dân cũng như doanh nghiệp, nhà quản lý chưa cao. Để
đảm bảo phát triển bền vững, Việt Nam đề ra mục tiêu đến năm 2010 đưa độ che phủ rừng lên

42-43%, 95% dân số thành thị và 75% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, 100% cơ sở
sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử
lý chất thải, tất cả các khu chế xuất khu công nghiệp phải có trạm xử lý nước thải tập trung.
Trong “Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường '' từ ngày 29/4 đến 6/5, Việt Nam
tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân, khơi dậy các hoạt động xã hội hoá về
bảo vệ môi trường, chú trọng xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, cam kết và các mô
hình tự quản về vệ sinh môi trường.
Việt Nam là một trong những trung tâm đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới. Nhưng do
nhiều nguyên nhân, sự đa dạng sinh học của Việt Nam bị suy giảm nhanh chóng trong những
thập kỷ gần đây. Đến nay, đã có hơn 360 loài thực vật và 350 loài động vật được đưa vào sách đỏ
của Việt Nam và thế giới. Trong đó có 139 loài động vật, 52 loài thực vật quí hiếm và nguy cấp
được bảo vệ nghiêm ngặt theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ, do số lượng cá thể của
chúng còn ít hoặc bị đe dọa tuyệt chủng. Vì vậy, việc tìm kiếm các biện pháp bảo vệ chúng là hết
sức cần thiết và cấp bách.
Trong vài thập kỷ qua, các phương pháp và kỹ thuật trong lĩnh vực Sinh học phân tử đã có sự
phát triển mạnh mẽ, tạo ra các công cụ hữu hiệu cho nghiên cứu sự sống ở mức độ phân tử.Các
kỹ thuật Sinh học phân tử cũng nhanh chóng được ứng dụng trong nghiên cứu và bảo tồn đa
dạng sinh học, tạo ra các lĩnh vực khoa học mới như Tiến hóa phân tử và Di truyền bảo tồn.Lợi
thế của các kỹ thuật phân tử là có khả năng xác định được sự đa dạng ở mức độ gen, tạo cơ sở để
đánh giá về giá trị bảo tồn của loài và quần thể. Về mặt sinh học, nguy cơ tuyệt chủng của loài
liên quan đến các biến đổi di truyền bất lợi cho chúng, nên các số liệu di truyền là cơ sở khoa học
để thiết kế các chương trình bảo tồn bền vững cho các loài hoặc quần thể có nguy cơ tuyệt chủng
cao.
Khai thác và buôn bán bất hợp pháp các loài động, thực vật hoang dã quí hiếm là một trong
những nguyên nhân chính làm suy giảm sự đa dạng sinh học trên toàn cầu. Vì vậy, cộng đồng
quốc tế, trong đó có Chính phủ Việt Nam, đã ký cam kết về kiểm soát buôn bán các loài động,
thực vật bị đe dọa tuyệt chủng (Công uớc CITES). Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã tạo điều
kiện cho thương mại phát triển mạnh mẽ, trong đó có buôn bán các loài động, thực vật hoang dã
và Việt Nam cũng là một điểm nóng về buôn bán loại hàng hóa này. Tuy nhiên, rất khó xác định
các sản phẩm và tiêu bản như da, lông, sừng, xương ... có xuất xứ từ động thực vật hoang dã, gây

khó khăn cho việc kiểm soát của các cơ quan chức năng. Gần đây, chỉ thị phân tử ADN đã được


sử dụng để giám định chính xác nguồn gốc của các loại tiêu bản này, vì ADN có cấu trúc đặc
trưng cho loài và quần thể địa lý, tạo cơ sở pháp lý để ngăn chặn buôn bán trái phép động thực
vật hoang dã.
Việc buôn bán, xuất nhập khẩu động thực vật hoang dã cũng tạo thuận lợi cho sự hình thành
các quần thể lai, làm mất đi giá trị của sự đa dạng di truyền.Vì mỗi loài và quần thể đều đã có sự
tiến hóa thích nghi với các môi trường sống khác nhau trong phạm vi phân bố của loài. Cấu trúc
ADN cũng đặc trưng cho quần thể, nên đã được sử dụng làm chỉ thị về sự lai tạp giữa các quần
thể hoặc loài có quan hệ gần gũi. Việc lưu giữ số liệu ADN nguyên gốc của các loài và quần thể
địa phương sẽ tạo cơ sở quan trọng để đánh giá và bảo tồn sự toàn vẹn của loài và quần thể.Động
vật hoang dã quí hiếm là tài sản quí giá của quốc gia, nên việc bảo vệ và phát triển chúng luôn là
một nhiệm vụ cấp bách.Việc bảo tồn đa dạng sinh đòi hỏi những hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau, nhưng lĩnh vực sinh học và di truyền bảo tồn đóng vai trò rất quan trọng, tạo cơ sở
khoa học cho việc bảo tồn và phát triển bền vững.
Vì vậy, việc tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu di truyền các loài động vật quí hiếm ở Việt Nam,
phục vụ công tác nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học là rất cần thiết, các kết quả nghiên cứu
của đề tài sẽ góp phần tạo cơ sở khoa học để hoạch định các chính sách và kế hoạch về bảo tồn
và phát triển bền vững cho các loài động vật quí hiếm đang bị đe dọa tuyệt chủng ở nước ta. Đây
là lần đầu tiên các kỹ thuật phân tử được áp dụng để nghiên cứu về tiến hóa phân tử và đa dạng
di truyền một cách có hệ thống cho nhiều loài động vật thuộc các nhóm phân loại khác nhau.
Việt Nam: Hiện nay, các kỹ thuật sinh học phân tử đã được ứng dụng trong nghiên cứu và
bảo tồn đa dạng học ở Việt Nam. Đỗ Anh Dũng và cộng sự (2004) đã nghiên cứu đa dạng ADN
ty thể của loài thỏ xám phân bố ở vùng Văn Quán, Lạng Sơn để khẳng định chúng là loài thỏ quí
hiếm ở nước ta. Đặng Tất Thế và cộng sự (2000 - 2007) đã phân tích tiến hóa phân tử, phát sinh
chủng loại và đa dạng di truyền ty thể của một số loài thú, bò sát quí hiếm ở Việt Nam.Nguyễn
Minh Tâm và cộng sự (2003; 2005; 2006) đã nghiên cứu đa dạng di truyền của một số quần thể
tre, tuế có giá trị bảo tồn cao trên cơ sở phân tích các chỉ thị di truyền. Phan Kế Long và cộng sự
(2001 a,b ; 2003 ; 2005 ; 2006 a,b) đã kết hợp giữa phương pháp định loại hình thái và phân tích

thông tin di truyền trên đoạn ITS trong công bố 9 loài tuyến trùng ký sinh gây bệnh côn trùng ở
Việt Nam và Nhật Bản. Hiện nay đã xuất hiện ngày càng nhiều công trình khoa học có sử dụng
chỉ thị phân tử trong việc xác định về mặt phân loại học cho đối tượng nghiên cứu, hoặc có một
số khảo sát, đánh giá về sự đa dạng di truyền của chúng. Ngoài ra, các kỹ thuật sinh học phân tử
hiện đang được sử dụng trong công tác giám định các tiêu bản động thực vật tại Viện Sinh thái
và Tài nguyên sinh vật, phục vụ cho công tác quản lý buôn bán động vật hoang dã theo chương
trình của CITES.


Ở Việt Nam, khi rừng trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên hoặc Vườn quốc gia (VQG) thì người
dân địa phương không được phép sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp và thu hái các sản phẩm
từ rừng. Vì vậy, nguồn thu nhập mà trước đây họ phụ thuộc vào rừng bị giảm đáng kể. Do đó, để
duy trì cuộc sống của mình, người dân vẫn phải tiếp tục khai thác lâm sản một cách trái phép.
Các khu bảo tồn nhiên nhiên/Vườn quốc gia ở Việt Nam thường nằm ở vùng sâu, vùng xa và
gần với những cộng đồng dân tộc thiểu số, nơi mà tỷ lệ đói nghèo vẫn ở mức độ cao. Do vậy,
việc thành lập các khu bảo tồn có thể làm cho tỷ lệ đói nghèo trở nên trầm trọng hơn. Việt Nam
được thế giới công nhận là 1 trong 16 quốc gia trên thế giới có tính đa dạng sinh học cao xét cả ở
3 mức độ: Đa dạng hệ sinh thái, đa dạng loài và đa dạng về di truyền (gen)... với 13763 loài thực
vật, trong đó có 2393 loài thực vật bậc thấp, 11273 loài thực vật bậc cao. Về hệ động vật, đã xác
định thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký sinh ở gia súc, 146 loài ve giáp, 144
loài chân khớp, 5165 loài côn trùng, 258 loài bò sát, 82 loài ếch nhái, 828 loài chim và 275 loài
thú, 540 loài cá nước ngọt, 2038 biển và hàng ngàn loài thuỷ sinh vật và động vật không xương
sống.
Việt Nam có các trung tâm mang tính đa dạng sinh học cao là Hoàng Liên Sơn, Bắc Trường
Sơn, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Hiện nay đa dạng sinh học tập trung trong hệ thống các khu
bảo tồn thiên nhiên và Vườn quốc gia (95 khu) đã có diện tích lên tới hơn 2.000.000 ha. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, công tác quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn
nhiều điều bất cập đã làm suy giảm đa dạng sinh học.Nhiều dân tộc, nhiều cộng đồng đã và đang
dựa vào các tài sản của đa dạng sinh học để sinh sống. Mỗi gia đình, một bản làng... từ việc xây
dựng nhà cửa, rào dậu, đun nấu, sưởi ấm, lương thực, thực phẩm, các bữa ăn hàng ngày, đến lễ

hội buôn làng hầu như hoàn toàn dựa vào tài nguyên đa dạng sinh học.
Tiềm thức đó ngày nay đã được dần dần xoá bỏ bằng nhiều chủ trương, chính sách về khai
thác sử dụng tài nguyên rừng tài nguyên đa dạng sinh học của Chính phủ, tuy nhiên vẫn còn cá
ẩn náu trong bộ phận không nhỏ cộng đồng ở miền rừng núi. Đây cũng là một nguyên nhân
chính liên tiếp làm suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Nhiều dân tộc, nhiều cộng đồng đã và đang dựa vào các tài sản của đa dạng sinh học để sinh
sống. Mỗi gia đình, một bản làng... từ việc xây dựng nhà cửa, rào dậu, đun nấu, sưởi ấm, lương
thực, thực phẩm, các bữa ăn hàng ngày, đến lễ hội buôn làng hầu như hoàn toàn dựa vào tài
nguyên đa dạng sinh học. Tiềm thức đó ngày nay đã được dần dần xoá bỏ bằng nhiều chủ trương,
chính sách về khai thác sử dụng tài nguyên rừng tài nguyên đa dạng sinh học của Chính phủ, tuy
nhiên vẫn còn cá ẩn náu trong bộ phận không nhỏ cộng đồng ở miền rừng núi. Đây cũng là một
nguyên nhân chính liên tiếp làm suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Như chúng ta biết, trên hành tinh này dù là trên cạn hay dưới đại dương bao la, mỗi một loài
sinh vật du cơ thể rất bé nhỏ như các loài vi sinh vật đến những loài có kích thước khổng lồ như


loài voi đều cần phải có môi trường sống thích hợp cho sự tồn tại và phát triển của loài (Species).
Chính vì vậy mà môi trường sống đối với các loài là vô cùng quan trọng.Việc mất đi một diện
tích rừng rất lớn từ trước đến nay là một nguyên nhân chính làm suy giảm đa dạng sinh học ở
Việt Nam.Từ năm 1945 đến 1975, mất 3 triệu ha rừng tỷ lệ che phủ 43% (1945) còn 38% (1975),
bình quân mất mỗi năm 100.000 ha. Thời kỳ này là do chiến tranh, do bom đạn, chất độc hoá học
làm mất 2 triệu ha rừng – 1 triệu ha rừng do đốt nương, làm rẫy, khai thác bừa bãi các lâm sản và
gỗ, trong thời kỳ này diện tích rừng trồng còn rất ít. Từ năm 1975 – 1995 lại mất 2,8 triệu
(1998), trong thời kỳ này tỷ lệ mất rừng nhiều hơn là do dân số tăng nhanh, yêu cầu phục hồi
phát triển kinh tế trên mọi miền của đất nước trong những năm trước 1990 tình trạng thiếu lương
thực – dân phải đốt nương làm rẫy nhiều hơn trước để đủ lương thực. Dân miền xuôi lên khai
hoang ở miền núi phá rừng lấy đất trồng chè, cà phê, cao su, cây ăn quả... Phá rừng lấy gỗ xây
dựng sau chiến tranh - lấy gỗ xuất khẩu không dựa trên nền tảng quy hoạch.
Tuy đã có chương trình trồng rừng 327 nhưng hiệu quả không cao.Hiện nay không chỉ các loài
gỗ lớn rất hiếm mà ngay cả kiếm củi cũng đã rất khó khăn, phải đi rất xa mới tìm được củi đun.

Những vùng mà mất rừng nhiều nhất dẫn đến làm mất hoặc thu hẹp lại môi trường sống của
động vật. Nhất là các loài có phạm vi hoạt động rộng. Đặc biệt từ năm 1986 – 1990 (khoảng 15
năm) sau chiến tranh kết thúc rừng bị phá 2,6 triệu ha rừng tự nhiên làm cho nhiều loài động vật
mất nơi cư trú - hoặc nơi cư trú của các quần thể bị xé lẻ - hoặc bị dồn ép buộc chúng phải di cư
đến những vùng an toàn hơn. Cũng có trường hợp do mất nơi sống một số loài thú lớn có phản
ứng mạnh, đặc biệt như ở Tân Phú - Đồng Nai, cả một đàn voi (5 con) tràn vào thôn bản đã quật
chết 2 người, làm bị thương một số người khác, phá hoại hoa màu của nhân dân.
CHƯƠNG 2: HẬU QUẢ CỦA SỰ SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC
2.1 Mất cân bằng sinh thái.
Mất đa dạng sinh học và dấu chân sinh thái không bền vững đang đe dọa các
hệ thống tự nhiên cũng như sự sống của loài người, nhưng đồng thời cũng định hướng hành động
cho chúng ta để đảo chiều những xu hướng hiện thời.
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) vừa công bố báo cáo Hành tinh sống 2014 trong
bối cảnh đại đa số dân số trên thế giới tập trung tại các thành phố. Các khu vực đô thị trên thế
giới thải ra 70% lượng các-bon liên quan tới sử dụng năng lượng, nhưng đồng thời các khu vực
này cũng có khả năng trở thành những trung tâm sản xuất năng lượng tái tạo và sử dụng năng
lượng hiệu quả.
Theo báo cáo, số lượng quần thể của các loài cá, chim, động vật có vú, các loài lưỡng cư và
bò sát đã giảm 52% trong vòng 40 năm qua. Tốc độ suy giảm đa dạng sinh học của toàn khu vực
châu Á Thái Bình Dương chỉ đứng sau châu Mỹ La-tinh trong cùng giai đoạn.


Phá rừng làm mất cân bằng sinh thái, đe doạ sự đa dạng sinh học (Ảnh minh họa)
Báo cáo Hành tinh sống 2014 cũng cho thấy “Dấu chân Sinh thái” – chỉ số về nhu cầu của
con người đối với thiên nhiên – tiếp tục tăng cao. Có thể nói, mất đa dạng sinh học và dấu chân
sinh thái không bền vững đang đe dọa các hệ thống tự nhiên cũng như sự sống của loài người,
nhưng đồng thời cũng định hướng hành động cho chúng ta để đảo chiều những xu hướng hiện
thời.
Những mối đe doạ toàn cầu lớn nhất được ghi nhận đối với đa dạng sinh học đó là suy
thoái và mất sinh cảnh, đánh bắt thuỷ sản thiếu bền vững, săn bắt trái phép và biến đổi khí hậu.

Trong hàng ngàn loài được theo dõi trong báo cáo, quần thể của chúng suy giảm 56% tại các khu
vực nhiệt đới, trong khi đó con số này là 36% tại các vùng ôn đới.
Trong khi đa dạng sinh học suy giảm, dân số và tỉ lệ tiêu thụ trên đầu người tại châu Á lại
gia tăng khiến cho Dấu chân Sinh thái của khu vực vì thế cũng gia tăng. Trên thế giới, nhu cầu
của con người vượt quá 50% khả năng thiên nhiên có thể tái tạo, điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ
cần 1.5 Trái Đất để sản xuất ra các nguồn nguyên liệu cần thiết nhằm đáp ứng Dấu chân Sinh thái
hiện tại. Dấu chân sinh thái trung bình của một người dân Việt Nam dường như chưa quá cao so
với các nước phát triển. Tuy nhiên, dấu chân sinh thái của Việt Nam đã tăng lên đáng kể trong
những năm gần đây, từ 1,0 gha/đầu người năm 2000 tới 1,4 gha/đầu người năm 2012 và 1,62
gha/đầu người năm 2014. Xu hướng này chắc chắn sẽ tiếp tục tăng lên nếu không có những giải
pháp thích hợp.
Báo cáo cho biết, tại Thượng Hải, Trung Quốc, chính phủ đã đưa ra nhiều ưu đãi nhằm hỗ
trợ việc lắp các thiết bị năng lượng mặt trời trên các mái nhà dân sinh và doanh nghiệp. Thành
phố cũng đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy nông nghiệp đô thị. Hiện tại, hơn 55% rau xanh
của thành phố được sản xuất tại địa phương, giúp giảm phát thải khí nhà kính, tạo việc làm và
giảm áp lực lên hệ sinh thái tự nhiên.
Việc sử dụng năng lượng hoá thạch được xác định là yếu tố chính đóng góp vào Dấu chân
Sinh thái toàn cầu đối với một triệu công dân thành phố Seoul, Hàn Quốc. Theo sáng kiến “Ngày
không lái xe” của thành phố họ sẽ không lái xe ô tô một ngày trong tuần. Chương trình nhằm cắt
giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao chất lượng không khí và giảm tắc nghẽn giao thông.


Sendai, Nhật Bản đang mở đường cho việc xây dựng các quy định mua sắm xanh bằng
cách hơn 90% sản phẩm được mua từ danh sách gợi ý về các sản phẩm xanh. Thành phố cũng
thành lập một mạng lưới mua sắm xanh với hàng ngàn tổ chức công, tư nhân và các tổ chức tình
nguyện tham gia.
Hành tinh sống 2014 là phiên bản thứ mười của báo cáo quan trọng được phát hành hai năm
một lần của WWF. Thông qua Chỉ số Hành tinh sống – một cơ sở dữ liệu được quản lý bởi Hiệp
hội Động vật học London – báo cáo đã phản ánh tình trạng của hơn 10.000 loài động vật có
xương sống từ năm 1970 tới 2010. Những chỉ số của Dấu chân Sinh thái được cung cấp bởi

Mạng lưới Dấu chân Sinh thái Toàn cầu.
2.2 Ảnh hưởng của con người.
Suy giảm đa dạng sinh học có ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của con người
làm cho nguồn thức ăn cạn kiệt và phần lớn là nguồn nguyên vật liệu.
Suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của trái đất. Mặt khác sinh vật và hệ
sinh thái là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, công cụ, nhiên liệu… Do vậy khi hệ sinh thái
bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực làm cho con người phải đối mặt với nguy cơ
đói nghèo, suy giảm nguồn gen và đặc biệt là biến đổi khí hậu dẫn đến hàng loạt các thảm họa
thiên nhiên đe dọa cuộc sống của con người.
2.3 Ảnh hưởng của môi trường.
Sự suy giảm đa dạng sinh học làm cho môi trường tự nhiên thay đổi về khí hậu, nguồn
nước khô cạn, các hệ sinh thái tự nhiên bị phá hủy.
Suy giảm tài nguyên
Vùng biển Việt Nam có tính đa dạng sinh cảnh cao với hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình
như hệ sinh thái vùng triều, rừng ngập mặn và hệ sinh thái rặng san hô, hệ sinh thái cửa sông ven
biển... Trong các kiểu hệ sinh thái đó, tính đa dạng thành phần loài rất phong phú, có nhiều nhóm
ghi nhận trên 1.000 loài như 1969 loài động vật thân mềm trong hệ sinh thái rừng ngập mặn,
1.258 loài cá rạn san hô trong hệ sinh thái rạn san hô.


Tại đảo Cát Bà,
nhiều loài hải sản
quý hiếm như bào
ngư, ốc đụn cái đã
bị tuyệt
chủng.Ảnh:Quang
Quyết - TTXVN

Tuy nhiên, sự đa dạng sinh học (ĐDSH) vùng biển của Việt Nam đang bị suy giảm mạnh.

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhiều loài sinh vật biển giảm mạnh về số
lượng, có loài đã tuyệt chủng cục bộ. Có đến 236 loài thủy sinh quý hiếm bị đe dọa ở cấp độ
khác nhau, trong đó có hơn 70 loài sinh vật biển đã bị liệt kê trong sách đỏ Việt Nam. Nguồn lợi
hải sản bị khai thác ngày càng bị cạn kiệt cả số lượng và chất lượng. Các nguồn cá dự trữ bị suy
giảm từ 4 triệu tấn vào năm 1990 xuống còn 3 triệu tấn như hiện nay. Kích thước trung bình của
cá và tính đa dạng loài cũng giảm đáng kể.
Ở nhiều vùng biển đặc trưng, sự suy giảm nguồn tài nguyên, ĐDSH đã thấy rõ. Quần
đảo Cát Bà (Hải Phòng) là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới do UNESCO công
nhận năm 2004. Đây không chỉ là khu dự trữ sinh quyển mà còn có tài nguyên sinh vật vô cùng
phong phú và đa dạng. Theo thống kê, tại Cát Bà có 196 loài cá biển, 132 loài san hô, 532 loài
động vật đáy… sự đa dạng sinh học và nguồn lợi ven biển đóng góp lớn cho sự phát triển của
Cát Bà. Tuy nhiên, khoảng gần 10 năm gần đây, một số nguồn lợi quan trọng tại đây đang ở tình
trạng suy giảm nghiêm trọng.
Ths. Nguyễn Văn Hiếu, Viện Nghiên cứu hải sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn cho biết: "Dữ liệu độ phủ san hô cứng được tổng hợp đồng thời tại các nghiên cứu cho thấy,


mức suy giảm nghiêm trọng độ phủ san hô cứng tại ven đảo Cát Bà từ năm 1993 - 2011 khoảng
64,57%. Hai loài phổ biến, đặc trưng nhất của Cát Bà là tu hài và vẹm xanh hiện nay có mật độ
rất thấp và hiếm gặp trong tự nhiên. Hai loài quý hiếm và có giá trị kinh tế cao như bào ngư, ốc
đụn cái có thể nói là đã tuyệt chủng tại khu vực này".
Tương tự, đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), nơi vốn được ghi nhận là có tài nguyên
phong phú và đa dạng sinh học lớn, rạn san hô ở đây thuộc loại tốt nhất miền Bắc, với trữ lượng
lớn, chỉ riêng khu vực đông bắc đảo - một khu vực nhỏ mà đã có đến hơn 80 loài được ghi nhận.
Tuy nhiên, những năm gần đây, trữ lượng san hô cũng bị suy giảm mạnh, độ phủ của rạn ở nhiều
nơi trước đây đạt đến 90%, nhưng đến nay những điểm tốt nhất chỉ còn 30 - 50%.
Ths. Hoàng Đình Chiều, Viện Nghiên cứu hải sản cho biết: "ĐDSH có ý nghĩa lớn không
chỉ với việc phát triển kinh tế mà còn có vai trò quan trọng trong điều tiết khí hậu, bảo vệ môi
trường đồng thời là một thương hiệu của Việt Nam. Do vậy, sự suy giảm về ĐDSH là vấn đề lớn,
không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nói chung mà sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi

trường sống, đời sống của người dân, đặc biệt là những ngư dân kiếm sống nhờ nguồn lợi thủy,
hải sản".
Cháy rừng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tiêu cực tới diễn biến rừng,
môi trường và ĐDSH. Những hậu quả do cháy rừng gây ra đối với ĐDSH xuất hiện vừa
tức thời vừa lâu dài trên nhiều phương diện; đặc biệt trong điều kiện rừng nhiệt đới, hậu
quả của cháy rừng đối với môi trường và ĐDSH là vô cùng to lớn.
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC SỰ SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC
3.1 Biện pháp quản lí:
3.1.1 Quản lí vùng đệm:
Vùng đệm là những vùng xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc không có rừng, nằm ngoài ranh
giới của khu bảo tồn và được quản lí để nâng cao việc bảo vệ của khu bảo tồn và của chính vùng
đệm, đồng thời mang lại lợi ích cho chính nhân dân vùng có khu bảo tồn.
3.1.2 Bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng:
- Giải quyết được các mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên bao gồm cả đa dạng sinh học.
- Quản lí và sử dụng ổn định bền vững tài nguyên thiên nhiên.
- Hạn chế các mâu thuẫn giữa kinh tế xã hội và bảo tồn thiên nhiên.
- Giảm thiểu được các tác động tới đa dạng sinh học và môi trường sống tự nhiên.


- Giảm thiểu mức đầu tư ngân sách nhà nước đối với công tác bảo tồn thiên nhiên.
3.2 Quản lí về cộng đồng:
3.2.1 Giảm sức ép về dân số
- Có những chính sách, giải pháp mạnh mẽ được thể chế hóa thành các văn bản pháp quy.
- Bảo đảm kinh phí cho công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình. Thực hiện phương thức quản lí
các nguồn kinh phí theo chương trình mục tiêu, bảo đảm phân bố và sử dụng có hiệu quả.
- Tăng cường công tác thông tin và dân số, tuyên truyền rộng rãi các chủ trương và biện pháp kế
hoạch hóa gia đình, thực hiện giáo dục dân số với nội dung thích hợp, hình thức đa dạng, có sự
tham gia của toàn xã hội.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời dụng cụ, phương tiện theo yêu cầu của người sử dụng. Từng bước đa
dạng hóa các biện pháp tránh thai, bảo đảm chất lượng, an toàn, hiệu quả.

- Có chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với các cặp vợ chồng thực hiện chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
3.2.2 Nâng cao nhận thức mỗi người
Nâng cao nhận thức cho lãnh đạo từ cấp tỉnh đến các cấp chính quyền địa phương thông qua hội
thảo bảo tồn và phát triển. Đối với người dân tổ chức các hội thảo chuyên đề về tầm quan trọng
của đa dạng sinh học và bảo tồn có sự tham gia của người dân cho từng nhóm đối tượng, để sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, phổ biến pháp luật, giáo dục môi trường... Tổ chức
các nhóm tuyên truyền do lực lượng thanh niên làm nòng cốt có sự tham gia của cộng đồng. Để
làm được điều này cần thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo, áp
phích, pa nô, phim ảnh... Xây dựng các điểm văn hóa, các tủ sách phổ biến kiến thức tại trung
tâm cộng đồng thôn, bản, đặc biệt là ở nhà của trưởng bản, nhà văn hóa cộng đồng. Khuyến
khích người dân xây dựng tủ sách kiến thức gia đình, mua sắm các phương tiện thông tin như
đài, báo, ti vi.
3.2.3 Nâng cao đời sống cộng đồng
Quy hoạch vùng dân cư có sự tham gia của cộng đồng sẽ đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho cộng
đồng theo chính sách giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào thiểu số tại các vùng rừng núi.
Thực tế từ ngàn đời nay cộng đồng phải sống dựa vào rừng. Do vậy không thể cấm triệt để người
dân vào rừng thu hái lâm sản phụ theo phong tục tập quán. Ngoài việc quy hoạch đất đai cần cho
phép họ sử dụng nguồn tài nguyên theo một số nguyên tắc nhất định do Vườn quốc gia và cộng
đồng thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế việc khai thác quá mức làm suy giảm
nguồn tài nguyên, tạo các sản phẩm thay thế tương ứng. Thu hút cộng đồng đặc biệt lớp trẻ có
trình độ tham gia công tác bảo vệ rừng. Chuyển giao khoa học kỹ thuật, giống, vật nuôi, cây
trồng có năng suất cao cho cộng đồng trong sản xuất, chăn nuôi. Xây dựng mô hình trang trại


rừng, thúc đẩy phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong buôn, thôn cộng đồng dân cư vùng
đệm thông qua việc thành lập các nhóm hộ gia đình thực hiện các chương trình khuyến nông,
khuyến lâm trên địa bàn.
3.3 Giải pháp cưỡng chế bằng pháp luật
3.3.1 Các bộ luật quốc gia:

Luật tuân theo quy định bảo tồn và phát triển bền vững về đa dạng sinh học tuân thủ theo nguyên
tắc:
-Kết hợp hài hòa giữa bảo tồn với khai thác, sử dụng hợp lí đa dạng sinh học; giữa bảo tồn, khai
thác, sử dụng hợp lí đa dạng sinh học với việc xóa đói giảm nghèo.
-Bảo tồn tại chỗ là chính, kết hợp bảo tồn tại chỗ và bảo tồn chuyển chỗ.
-Tổ chức, cá nhân hưởng lợi từ việc khai thác, sử dụng đa dạng sinh học phải chia sẽ lợi ích với
các bên liên quan.
-Đảm bảo hài hòa giữa lợi ích Nhà nước với lợi ích của tổ chức và cá nhân.
-Đảm bảo quản lí rủi ro do sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di chuyền do sinh vật biến đổi gen gây
ra đối với đa dạng sinh học…
Luật cấm các hành vi:
-Săn bắt, đánh bắt, khai thác các loài hoang dã trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo
tồn, trừ việc vì mục đích nghiên cứu khoa học.
-Lấn chiếm đất đai, phá hoại cảnh quan, hủy hoại hệ sinh thái tự nhiên, nuôi trồng các loại ngoại
lai gây xâm hại trong khu bảo tồn.
-Xây dựng công trình, nhà ở trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn, trừ công trình
phục vụ mục đích quốc phòng an ninh.
-Xây dựng công trình, nhà ở trái phép trong phân khu phục hồi sinh thái của khu bảo tồn.
-Điều tra, khảo sát, thăm dò, khai thác khoáng sản; chăn nuôi gia súc gia cầm quy mô trang trại,
nuôi trồng thủy sản quy mô công nghiệp.
-Cư trú trái phép, gây ô nhiễm môi trường trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và phân khu phục
hồi sinh thái của khu bảo tồn….
KẾT LUẬN
Việc bảo tồn đa dạng sinh học ít được quan tâm vì sự mất mát về đa dạng sinh học, đặc biệt là ở
biển ít được nhìn thấy, sự mất mát này không tác động ngay lập tức và trông thấy được trong
cuộc sống hàng ngày, đa số quần chúng ít biết được lợi ích trong việc bảo tồn đa dạng sinh học.
Nhiều lí do được đưa ra để mọi người thấy được việc bảo tồn đa dạng sinh học là cần thiết ví dụ
như: phục vụ cho mục đích sử dụng trong hiện tại và tương lai các nhân tố của đa dạng sinh học
như các nguồn tài nguyên sinh học, phục vụ cho việc duy trì sinh quyển trong trạng thái có thể
hỗ trợ cho cuộc sống của con người; phục vụ bảo tồn bản thân đa dạng sinh học mà không vì

mục đích nào khác, đặc biệt tất cả các loài đang sống hiện nay.


Trong thời đại này, bảo vệ đa dạng sinh học đang được quan tâm không chỉ ở pạm vi riêng lẻ của
từng quốc gia mà là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Bởi vì bảo tồn tài nguyên đa dạng
sinh học gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như sự hạn chế
các tác động của sự thay đổi khí hậu.
Mục tiêu của bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững đều hướng tới sự thỏa mãn ngày càng
tốt hơn về nhu cầu cuộc sống con người về tất cả mọi mặt. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi có
sự liên kết, hỗ trợ giúp đỡ giữa các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, các doanh
nghiệp, cộng đồng,….nhằm làm cho quá trình phát triển không ảnh hưởng tới các hoạt động bảo
tồn và hoạt động bảo tồn sẽ hỗ trợ ngày càng tốt hơn cho quá trình phát triển.




×