Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Nội dung, ý nghĩa phương pháp luận quy luật quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.75 KB, 5 trang )

Câu 4: Nội dung, ý nghĩa phương pháp luận quy luật QHSX – LLSX
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau,
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX, đây là quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một
phương thức sản xuất nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong
lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Trong sản xuất, con người
có quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, biểu hiện ở LLSX; mặt
khác là quan hệ giữa người với người, tức là QHSX. Phương thức sản xuất chính là sự thống
nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX tương ứng.
LLSX là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất,
phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người, trong đó con người sử dụng công cụ lao
động tác động lên đối tượng lao động để sản xuất vật chất. LLSX bao gồm người lao động và tư
liệu sản xuất. Trong đó người lao động là yếu tố quan trọng nhất tạo nên LLSX, người lao động
phải là người có thể lực và trí lực. Tư liệu sản xuất là yếu tố hỗ trợ cho con người trong quá
trình sản xuất, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động ( gỗ, vãi,…) và tư liệu lao động, tư
liệu lao động bao gồm công cụ lao động ( cuốc trong khi làm ruộng, dao rựa để chặt củi,…) và
tư liệu khác (máy móc, nhà xưởng, sân bãi,…). Công cụ lao động là yếu tố động nhất của
LLSX, cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật,
công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện
không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển của
công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân
biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, mối quan hệ
giữa người với người thể hiện ở ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong
tổ chức và quản lý sản xuất; quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. QHSX là hình thức
xã hội của sản xuất; giữa các mặt của QHSX thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang
tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của LLSX.
Trong ba mặt của QHSX thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan
hệ cơ bản, đặc trưng cho QHSX trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết


định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã
hội khác. Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình thức sở hữu cơ bản về
tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà
trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có
rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất và
trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là
loại hình sỏ hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ
đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẵng, hợp tác và giúp đỡ
lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ
chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan


hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ
sở hữu. Tuy nhiên, có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất không thích ứng với
quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con
người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm nền sản xuất.
Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một trạng thái mà trong đó
QHSX là “ hình thức phát triển” của LLSX. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của QHSX đều
“tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết
hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó LLSX có cơ sở để phát
triển hết khả năng của nó. Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ
chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó QHSX trở thành
“xiềng xích” của LLSX, kìm hãm sự phát triển của LLSX. Yêu cầu khách quan của sự phát
triển LLSX tất yếu dẫn đến thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển

mới của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới cũng
có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác
đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các LLSX vật chất của xã hội mâu
thuẫn với những QHSX hiện có…trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của LLSX, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của LLSX. Khi
đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Nhưng sau đó, QHSX mới này sẽ lại trở nên
không còn phù hợp với LLSX đã phát triển hơn nữa; sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn
ra.
LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của LLSX. QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy
LLSX phát triển. Ngược lại, QHSX lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so
với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi QHSX kìm hãm sự
phát triển của LLSX, thì theo quy luật chung, QHSX cũ được thay thế bằng QHSX mới phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu
thuẫn giữa LLSX với QHSX không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động
cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông
qua cách mạng xã hội.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến tác động
trong toàn bộ tiến trình lịch sữ nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ
cộng xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa
và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất.
Từ quy luật ta có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận là: muốn thúc đẩy xã hội phát triển
thì phải tạo điều kiện để phát triển LLSX, phải nâng cao chất lượng lao động, cải tạo công nghệ,
công cụ sản xuất hay nói cách khác là phải phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Phải thiết
lập QHSX cho phù hợp với sự phát triển của LLSX. Đối với Việt Nam ta là đang xây dựng nền


kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở đường cho LLSX phát triển, là nền kinh tế có đa hình
thức sở hữu, đa thành phần kinh tế.

Vận dụng quy luật này ở Việt Nam trước hết cần đánh giá những sai lầm, khuyết điểm
thời kỳ trước đổi mới: thời kỳ trước đổi mới việc nhận thức và vận dụng quy luật này còn
giản đơn và phạm phải những sai lầm gây nên những hệ quả nặng nề cho nền KT và XH.
Thể hiện tập trung ở quan điểm chính sách cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới: chủ
quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan bằng cách đốt cháy giai đoạn, thực hiện sự bỏ
qua giai đoạn TBCS một cách giản đơn, máy móc. Thể hiện cụ thể như: Tách rời một cách
siêu hình QHSX ra khỏi LLSX, chủ động đẩy nhanh quá trình, cải tạo và xây dựng quá trình
sản xuất vượt quá xa so với trình độ của LLSX. Do đó nó kìm hãm sự phát triển của LLSX;
Đồng nhất, đơn giản hóa QHSX chỉ còn là QH sở hữu và trong sở hữu chỉ nhấn mạnh đến
hình thức sở hữu công cộng, tập thể. Chẳng hạn: Sai lầm khi hợp tác hóa, đánh tư sản; Hành
chính hóa bộ máy quản lí hành chính, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cồng
kềnh kém hiệu quả; Về phân phối sản phẩm: Phương thức bình quân chủ nghóa, cào bằng do
đó triệt tiêu động lực của sự phát triển là lợi ích của người lao động; Về LLSX tập trung ưu
tiên cho việc phát triển công nghiệp nặng và nhận thức công nghiệp hoá chỉ đơn giải xây
dựng một số nhà máy công nặng mà thôi, không chú ý, ít chú ý đến hàng xuất khẩu, hàng
tiêu dùng....; Chậm trễ trong việc thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, đặc biệt
là đối với lónh vực nông nghiệp; Chưa chú trọng đến việc nâng cao trình độ, đào tạo tay
nghề cho ngừơi lao động, chưa nhận thức rõ người lao động là yếu tố quyết đònh của LLSX.
Từ Đại hội VI Đảng ta đã có những quan điểm đổi mới: Đảng coi trọng phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo đònh hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thò trường có
sự quản lý của Nhà nước. Từ sự đánh giá quá trình cải tạo XHCN đối với các thành phần
kinh tế. Đại hội VI của Đảng đã chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghóa, có chính sách sử dụng và chỉ đạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Cải tạo
XHCN và xây dựng QHSX mới tiếp tục được khẳng đònh tại Đại hội VII: “Phù hợp với sự
phát triển của LLSX, thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng của
các hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đònh hướng XHCN,
vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân…”. Ngay từ Đại hội VI Đảng
ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng, bởi đường lối đó xuất phát
từ trình độ và tính chất của LLSX nước ta vừa thấp, vừa không đồng đều nên không thể

nóng vội, nhất loạt xây dựng QHSX một thành phần dựa trên chế độ công hữu XHCN về tư
liệu sản xuất như trước Đại hội VI từng làm đã đẩy QHSX đi quá xa so với trình độ LLSX.
Một nền kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể
lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần tự nó chứa đựng những mâu thuẩn. Có những thành phần kinh tế vì lợi ích
của mình có thể hoạt động theo hướng TBCN. Thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể


mang tính chất XHCN nhưng chưa thích nghi với cơ chế thò trường, làm ăn kém hiệu quả,
nên ở đây diễn ra cuộc đấu tranh “đònh hướng” gay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự đònh
hướng XNCN trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần thì sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý kinh tế của Nhà nước giữ vai trò quyết đònh. Quan điểm cơ chế thò trường dưới sự
quản lý vó mô của Nhà nước, của Đảng ta là đúng. Đó là quan điểm mới về kinh tế XHCN,
về thời kỳ quá độ, không dò ứng mà chấp nhận và sử dụng rộng rãi những quan hệ thò trường
để xây dựng CNXH.
Từ đại hội VIII, Đảng ta khẳng đònh: “Mục tiêu của CNH-HĐH là xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
QHSX tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đến năm
2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Lực lượng sản
xuất lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế
bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng
suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay”.
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX được phát triển thêm trong đại biểu toàn quốc lần
thứ IX: “ Đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp; ưu tiên phát LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp trên cả ba
mặt sở hữu, quản lý và phân phối theo đònh hướng XHCN…”. Về QHSX, Đảng ta chủ trương
“Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh
tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phần cấu thành quan trọng của nền kinh tế thò trường
đònh hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Đảng ta xác

đònh trong tình hình hiện nay cần có 6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để Nhà nước đònh hướng điều tiết vó mô nền kinh tế. Trong chính
sách phát triển các thành phần kinh tế, Đảng ta chủ trường: “Phát triển các hình thức tổ
chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu giữa các thành phần kinh tế với
nhau, giữa trong nước và ngoài nước, phát triển hình thức kinh tế cổ phần nhằm huy động cà
sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội; nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và
nông nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước và kinh tế hộ nông thôn; phát triển loại hình trang trại
với quy mô phù hợp từng đòa bàn”.
Tại Đại hội X khẳng đònh: hoàn thiện thể chế kinh tế thò trường phải giữ vững đònh
hướng XHCN. Đó là thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạn, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” ; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở


thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý
của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng đònh hướng sự phát triển bằng các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thò
trường. Tạo ra môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực
của xã hội cho phát triển. Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vó mô,
hạn chế rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thò trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng
hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệt hành chính vào hoạt động của thò trường và
doanh nghiệp…. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thò trường
cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Cùng với việc phát triển mạnh thò trường hàng
hoá, dòch vụ và thò trường sức lao động, cần phát triển vững chắc thò trường tài chính, bao
gồm thò trường vốn và thò trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, cơ cấu hoàn chỉnh; phát triển
thò trường bất động sản; phát triển thò trường khoa học công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế,
chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ trở thành hàng hoá. Phát triển

mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Nước ta có các
thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân), kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời tiếp tục
khẳng đònh các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nên kinh tế thò trường đònh hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Về chủ trương đẩy mạnh CNH-HĐH gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức: Đại hội X nhấn mạnh: chúng ta phải tranh thủ các cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế nước ta để rút ngắn quá trình
CNH-HĐH đất nước theo đònh hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển
mạnh các nền kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trò gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
Tóm lại, công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta, đặc biệt là sự nghiệp CNHHĐH đang đặt ra một vấn đề hết sức cơ bản và cấp bách là kết hợp chặt chẽ sự phát triển
của các LLSX và QHSX Việt Nam. Cần phải đặt lên hàng đầu sự phát triển của LLSX
nhưng không bao giờ sao nhãn sự phát triển của các QHSX. Cần phải không ngừng đổi mới
các chính sách kinh tế sao cho các QHSX luôn luôn phát triển, đóng vai trò tích cực thúc
đẩy các LLSX, hạn chế triệt tiêu các tác động kìm hãm, làm cho toàn bộ nền kinh tế của
đất nước luôn giữ đúng quỹ đạo độc lập dân tộc và CNXH.



×