Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Nghiên cứu đặc điểm phân bố và sinh trưởng của cây bương lông (dendrocalamus giganteus) tại huyện tuần giáo tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 67 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

PHẠM THỊ LY

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ VÀ SINH TRƢỞNG
CỦA CÂY BƢƠNG LÔNG (Dendrocalamus giganteus)
TẠI HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Nông lâm kết hợp

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2011 - 2015

Thái Nguyên - 2015



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

PHẠM THỊ LY
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ VÀ SINH TRƢỞNG
CỦA CÂY BƢƠNG LÔNG (Dendrocalamus giganteus)
TẠI HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Nông lâm kết hợp

Khoa

: Lâm nghiệp

Lớp

: K43 NLKH

Khóa học

: 2011 - 2015


Giảng viên hƣớng dẫn

: ThS. Đặng Thị Thu Hà

Khoa Lâm nghiệp - Trƣờng Đại học Nông Lâm

Thái Nguyên - 2015


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận trên là kết quả nghiên cứu của riêng bản
thân tôi không sao chép của ai. Các kết quả nghiên cứu trình bày trong khóa
luận là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung thực, khách quan. Nội
dung khóa luận có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải
trên các tác phẩm, tạp chí, trang web theo danh mục tài liệu của khóa luận.
Thái Nguyên, 20 tháng 05 năm 2015
Xác nhận của giáo viên hƣớng dẫn

Ngƣời viết cam đoan

Đồng ý cho bảo vệ kết quả trƣớc
Hội đồng khoa học

ThS. Đặng Thị Thu Hà

Phạm Thị Ly

Xác nhận của giáo viên phản biện

Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót
sau khi hội đồng chấm yêu cầu
( ký, ghi rõ họ tên)


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian nghiên cứu, để hoàn thành khóa luận của mình, tôi đã
nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của BCN khoa
Lâm Nghiệp và cán bộ, các cô chú ở trạm Khuyến nông - khuyến ngư huyện
Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Tôi cũng nhận được sự cộng tác nhiệt tình của các
bạn, sự giúp đỡ, cổ vũ động viên của những người thân trong gia đình.
Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo ThS.
Đặng Thị Thu Hà đã rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài
và hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn BCN khoa Lâm Nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và cho
phép tôi thực hiện đề tài tốt nghiệp đại học.
Tôi bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới trạm Khuyến nông – khuyến ngư
huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, trưởng trạm, cùng toàn thể các cô, chú, anh,
chị đã giúp đỡ một cách nhiệt tình để tôi có thể hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng
bạn bè đã giúp đỡ động viên tôi trong suốt thời gian hoàn thành khóa luận.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả!
Thái Nguyên, 20 tháng 05 năm 2015
Ngƣời viết cam đoan

Phạm Thị Ly



iii

DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1:

Phân bố của các loài tre trúc trên thế giới (Biswas 1995)............ 5

Bảng 2.2:

Hiện trạng tre trúc Việt Nam tính tới tháng 12/2004 ................. 12

Bảng 4.1:

Mô tả đặc điểm hình thái cây theo cấp tuổi ............................... 28

Bảng 4.2:

Phân bố số cây Bương lông tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên .......................................................................................... 32

Bảng 4.3:

Bảng so sánh sinh trưởng của cây Bương lông giữa 2 xã của
huyện Tuần Giáo ...................................................................... 33

Bảng 4.4:

Mô tả đặc điểm đất sinh trưởng của cây Bương lông tại huyện
Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên ........................................................ 34


Bảng 4.5:

Biểu điều tra thành phần thực vật khác ..................................... 36

Bảng 4.6:

Kỹ thuật chọn tuổi gốc làm giống ............................................. 39

Bảng 4.7:

Kinh nghiệm của các hộ gia đình trong việc xác định thời vụ
trồng Bương lông ..................................................................... 40

Bảng 4.8:

Giá trị sử dụng cây Bương lông ................................................ 42


iv

DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 4.1:

Thân cây của Bương lông ......................................................... 27

Hình 4.2:

Lá của cây Bương..................................................................... 28


Hình 4.3:

Hình thái mo............................................................................. 29

Hình 4.4:

Rễ của cây Bương lông............................................................. 30

Hình 4.5:

Kỹ thuật chọn tuổi gốc làm giống ............................................. 39

Hình 4.6:

Kinh nghiệm của các hộ gia đình trong việc xác định thời vụ
trồng Bương lông ..................................................................... 40


v

DANH MỤC CÁC TỪ CÁC VIẾT TẮT
FAO

: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc

INBAR

: Tổ chức Mây tre quốc tế


NĐ – CP

: Nghị định Chính Phủ

OTC

: Ô tiêu chuẩn

ODB

: Ô dạng bản

GDP

: Tổng thu nhập quốc dân


vi

MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU....................................................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 2
1.2.1. Về lý luận ............................................................................................. 2
1.2.2. Về thực tiễn .......................................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................... 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..................................... 4
2.1. Cơ sở khoa học vấn đề nghiên cứu .......................................................... 4
2.2. Nghiên cứu về cây tre trúc ở trên thế giới và Việt Nam ........................ 4
2.2.1. Nghiên cứu về tre trúc trên thế giới ..................................................... 4

2.2.2. Nghiên cứu về tre trúc ở Việt Nam ...................................................... 8
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu.............................................................. 15
2.3.1. Điều kiện tự nhiên .............................................................................. 15
2.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội ...................................................................... 18
2.3.3. Kết cấu hạ tầng xã hội ........................................................................ 21
2.3.4. Hiện trạng cơ sở hạ tầng kĩ thuật ........................................................ 22
PHẦN 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ............................................................................................................ 24
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 24
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 24
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 24
3.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 24
3.2.1.Điều tra tình hình phân bố và đặc điểm hình thái cây Bươnglông điện
biên tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên..................................................... 24
3.2.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng về chiều cao và đường kính của cây,
số cây/khóm theo tuổi.................................................................................. 24


vii

3.2.3. Nghiên cứu điều kiện lập địa (đất) và thành phần thực vật và khả năng
phòng hộ cây Bương lông............................................................................. 24
3.2.4.Tìm hiểu kinh nghiệm bản địa về trồng và chăm sóc, giá trị sử dụng của
cây Bương tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên ......................................... 24
3.3. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi .................................. 24
3.3.1. Phương pháp kế thừa .......................................................................... 24
3.2.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu .............................................. 26
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ......................... 27
4.1. Đặc điểm hình thái và phân bố cây Bương lông tại huyện Tuần Giáo, tỉnh
Điện Biên ..................................................................................................... 27

4.1.1 Đặc điểm hình thái cây ........................................................................ 27
4.1.2. Đặc điểm phân bố ............................................................................... 31
4.2. Đặc điểm sinh trưởng của cây Bương lông tại, huyện Tuần Giáo, tỉnh
Điện Biên ..................................................................................................... 33
4.3. Kết quả điều tra điều kiện lập địa (đất), thành phần cây bụi và khả năng
phòng hộ của cây Bương lông tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên ........... 34
4.3.1. Đặc điểm đất sinh trưởng của cây Bương lông ................................... 34
4.3.2. Thành phần thực vật trong rừng Bương lông ...................................... 35
4.3.3. Khả năng phòng hộ của rừng Bương. ................................................. 37
4.4. Tổng kết kiến thức bản địa của người dân trong việc trồng, chăm sóc và
giá trị sử dụng cây Bương lông tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên .......... 38
4.4.1. Kỹ thuật trồng bằng giống gốc............................................................ 38
4.4.2. Kĩ thuật chăm sóc ............................................................................... 41
4.4.3. Giá trị sử dụng của cây Bương lông.................................................... 41
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................ 43
5.1. Kết luận ................................................................................................. 43
5.2. Đề nghị .................................................................................................. 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 45


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Tre trúc là tập hợp các loài thực vật thuộc họ Hoà thảo (Poaceae, hoặc còn
gọi là Gramineae). Các loài tre trúc rất phong phú, đa dạng, phân bố rộng khắp
trên thế giới, đặc biệt là ở Châu Á trong đó có Việt Nam. Tre trúc dễ trồng, sinh
trưởng nhanh, sớm cho khai thác, dễ chế biến nên được sử dụng cho rất nhiều
mục đích khác nhau. Tre trúc có giá trị rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân và

đời sống nhân dân, đặc biệt là nông dân nông thôn và miền núi (Nguyễn Ngọc
Bình và Phạm Đức Tuấn 2007, Nguyễn Hoàng Nghĩa 2005)[2], [8].
Tre trúc là một nguồn lâm sản ngoài gỗ chiếm vị trí quan trọng trong tài
nguyên rừng ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều loài tre trúc là nguồn nguyên
liệu quan trọng cho ngành thủ công mỹ nghệ, công nghiệp chế biến nông lâm
sản, công nghiệp giấy sợi, công nghiệp chế biến ván nhân tạo, vật liệu trong
xây dựng, kiến trúc, giao thông vận tải,... Một số loài tre trúc cho măng ăn
ngon, đã trở thành nguồn cung cấp thực phẩm có giá trị. Các sản phẩm từ tre
trúc không còn bó hẹp trong biên giới của một số quốc gia mà đã có mặt ngày
càng nhiều trên thị trường quốc tế và được nhiều nước châu Âu, châu Mỹ ưa
chuộng. Chính vì vị trí quan trọng của tài nguyên tre trúc, nhiều nước trên thế
giới có tre trúc và kể cả những nước sử dụng tre trúc, đã tiến hành nhiều
nghiên cứu về tre trúc.
Bương lông điện biên (Dendrocalamus giganteus) là một trong những
loài tre lớn nhất Việt Nam phân bố tự nhiên ở một số tỉnh vùng núi phía Bắc.
Đây là loài tre đa tác dụng, thân cây lớn, ít cành nhánh có thể dùng làm
nguyên liệu giấy, ván gép thanh, làm nhà,… ngoài ra măng Bương lông còn là
thực phẩm được bà con nhân dân rất ưa chuộng.


2

Loài Bương lông điện biên, còn có các tên gọi khác như Mạy púa mơi,
Bương lớn, Bương lớn Điện Biên. Là một trong những loài tre có kích thước
lớn nhất ở Việt Nam, chiều cao 18 - 24 m, đường kính gốc 20 25 cm, có vách
dày, chiều dài đốt từ 25 - 30 cm, ít cành nhánh, khả năng cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến sản phẩm rất cao. Cho đến nay nghiên cứu về
cây Bương lông điện biên ở trong nước rất ít, đặc biệt là nghiên cứu về đặc
điểm lâm học, sinh thái học, biện pháp kỹ thuật lâm sinh, nhân giống và chế
biến sản phẩm. Do đó, việc kế thừa kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh thái và

phân bố đã thành công cho một số loài tre , đă ̣c biê ̣t là các loài thuô ̣c chi
Dendrocalamus vào nghiên cứu đặc điểm sinh thái và phân bố và tổng kết
những kiến thức bản địa có giá trị kết hợp với kỹ thuật hiện đại cần được
nghiên cứu thử nghiệm cho cây Bương lông điện biên. Chính vì vậy, đề tài
nghiên cứu đư ợc đặt ra là rất cần thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm
phân bố và sinh trưởng của cây Bương lông (Dendrocalamus giganteus) tại
huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên’’.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Về lý luận
- Xác định được đặc điểm phân bố và sinh trưởng cây Bương tại huyện
Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.
1.2.2. Về thực tiễn
- Đề xuất được các biện pháp kỹ thuật chăm sóc và phát triển cây
Bương nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp nguyên liệu chế biến cho tỉnh Điện
Biên và các tỉnh lân cận.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận
- Qua quá trình thực hiện đề tài tạo cơ hội tiếp cận phương pháp nghiên
cứu khoa học, giải quyết vấn đề khoa học ngoài thực tiễn.


3

- Làm quen với một số phương pháp được sử dụng trong nghiên
cứu đề tài cụ thể.
- Học tập và hiểu biết thêm về kinh nghiệm, kỹ thuật trong thực tiễn tại
địa bàn nghiên cứu.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Biết cách tiếp cận thực tiễn những vấn đề trong sản xuất, kinh doanh

rừng, quản lý nguồn tài nguyên rừng hiện nay, nâng cao tính bền vững của hệ
sinh thái rừng.
- Giúp nắm rõ hơn về đặc điểm phân bố và sinh trưởng phát triển của
loài cây Bương.


4

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học vấn đề nghiên cứu
Thân cây Bương lông to, dài, có khả năng chống mối mọt cao nên
thường được dùng làm cột buồm, làm nhà. Các dân tộc vùng cao dùng Bương
lông làm máng dẫn nước, làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy, chế biến
thay thế cho gỗ có hiệu quả cao, lá dùng để gói bánh. Măng Bương to, ăn
ngon, ăn tươi hoặc phơi khô, cũng có thể đóng hộp. Một bụi cây to có thể cho
tới 180kg măng tươi/bụi/năm. Măng tươi của Bương lông được thị trường rất
ưa chuộng vì có vị hơi đắng rất đặc biệt, măng đầu vụ có thể bán 3.0005.000đ/kg; trọng lượng măng lúc khai thác có thể đạt tới 15kg/măng. Có bụi
một năm thu được 10 - 15 măng. Một số hộ buôn bán còn mua măng tươi về
sau đó luộc và bảo quản trong chum, vại to để 4 - 5 tháng sau mới bán cho
được giá.
2.2. Nghiên cứu về cây tre trúc ở trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Nghiên cứu về tre trúc trên thế giới
2.2.1.1. Nghiên cứu chung về tre trúc
Các nghiêu cứu về tre - trúc trên thế giới đã bắt đầu từ khá lâu và rất đa
dạng. Nghiên cứu về các loài tre trúc Ấn Độ (Gamble 1896)[15] trong đó tác
giả mô tả hình thái của 151 loài tre trúc phân bố ở Ấn Độ và một số nước láng
giềng như Pakistan, Srilanca, Myanma, Malaysia và Indonesia. Tác giả cũng
cho rằng các loài tre - trúc là loài chỉ thị rất tốt về các đặc điểm và độ phì của
đất. Ở Trung Quốc cũng có rất nhiều các nghiên cứu về phân loại, các kỹ

thuật tạo giống, kỹ thuật trồng, chăm sóc, khai thác, chế biên và cả về thị
trường tre trúc và các sản phẩm sản xuất từ tre trúc (Nguyễn Ngọc Bình
và Phạm Đức Tuấn 2007)[2].


5

2.2.1.2. Nghiên cứu về phân loại, phân bố
Các loài tre trúc phân bố tự nhiên ở các vùng nhiệt đới, á nhiệt đới và
ôn đới, từ vùng thấp tới độ cao 4.000 m (so với mực nước biển), song tập
trung chủ yếu ở vùng thấp tới đai cao trung bình (Nguyễn Hoàng Nghĩa,
2005)[8]. Các loài tre trúc có thể mọc hoang dại hoặc được gây trồng và có
một đặc điểm nổi bật là có mặt ở rất nhiều các môi trường sống khác nhau
(Dransfield and Widjaja, 1995)[14].
Theo Rao and Rao (1995), cả thế giới có khoảng 1250 loài tre trúc của
75 chi, phân bố ở khắp các châu lục, trừ châu Âu. Châu Á đặc biệt phong phú
về số lượng và chủng loại tre trúc với khoảng 900 loài của khoảng 65 chi
(Rao and Rao 1995; 1999)[17].
Bảng 2.1 là số liệu năm 1995 về sự đa dạng của các loài tre trúc trên thế
giới. Từ đó tới nay có nhiều loài tre trúc mới đã được tìm ra và phân loại
trong đó có Việt Nam làm tăng số loài tre trúc đã được xác định.
Bảng 2.1: Phân bố của các loài tre trúc trên thế giới (Biswas 1995)
Số

Diện tích

Nƣớc - Vùng

Số


Số

Diện tích

loài

(ha)

lãnh thổ

chi

loài

(ha)

300 2.900.000 Singapore

6

23

825.000 Bănglađet

8

20

Nƣớc


Số chi

Trung Quốc

26

Nhật Bản

13

237

Ấn Độ

23

125 9.600.000 Papua New Guinea

Việt Nam

16

92* 1.492.000 Srilanka

Myanma

20

90


2.200.000 Hàn Quốc

Inđônêxia

10

65

50.000 Đài Loan

Phillipnines

8

54

Mađagaxca

11

40

Malaysia

7

44

Châu Mỹ


20

45

Thai Lan

12

41

4

4

1.000.000 Ôxtralia

6.000.000

26
7

14

10

13
40

(Nguồn: Theo Biswas(1995) và một số tác giả khác)


140.000


6

Tre trên thế giới có phân bố ở 3 khu vực lớn: Châu Á Thái Bình
Dương, Châu Phi và Châu Mỹ. Các loài tre lớn thuộc chi Bambusa và
Dendrocalamus phân bố ở khu vực Châu á Thái Bình dương. Trên thế giới có
36.77 triệu ha rừng tre. Diện tích tre của châu Á là 23.6 triệu ha, trong đó Ấn
độ 11.36 triệu ha, Trung Quốc 5.44 triệu ha, Indonesia 2.08 triệu ha, Lào 1.61
triệu ha, Myanmar 0.85 triệu ha, Việt Nam 0.81 triệu ha[15], [22].
Theo Đỗ Văn Bản (2005), mỗi năm thế giới tiêu thụ khoảng 1 triệu đến
2 triệu tấn măng. Úc tiêu thụ hàng năm vào khoảng 4000 đến 12000 tấn măng
thái mỏng nhập khẩu. Canada và châu Âu là những nước nhập khẩu chính của
sản phẩm măng đóng hộp. Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái
Lan, Malayxia và Singapore là những nước tiêu thụ nhiều măng tươi, măng
ướp đông lạnh, măng tươi hấp hơi và măng hộp. Chỉ riêng một tỉnh ở Thái
Lan đã chế biến 68.000 tấn măng luộc mỗi năm. Không kể lượng măng tiêu
thụ tại địa phương, Nhật Bản đưa ra thị trường 90.000 tấn măng Moso và
nhập khẩu trên 100.000 tấn măng từ Thái Lan, Đài Loan và Trung Quốc. Đài
Loan có mức độ tiêu thụ măng như Nhật Bản, nhưng vẫn xuất khẩu sang Nhật
khoảng 140.000 tấn măng D. latiflorus và một lượng lớn măng Moso. Sau đây
là diện tích trồng tre trúc của một số nước có diện tích tre trúc lớn:
Trung Quốc diện tích trồng chuyên lấy măng khoảng 100.000 ha và
trên 3 triệu ha rừng chuyên sản xuất thân Tre và kết hợp với cung cấp măng.
Số lượng loài Tre - Trúc có tới 500 loài và 50 chi. Trung Quốc thời điểm cách
đây khoảng 50 - 60 năm, rừng thâm canh Tre - Trúc lấy măng trung bình đạt
25 – 30 tấn/ ha/ năm, có loài cho năng suất từ 60 - 100 tấn/ha/năm[19].
Đài Loan trồng khoảng 9000 ha Điềm trúc (D. latiflorus), hàng năm
xuất khẩu trên 40.000 tấn măng. Tổ chức INBAR năm 1994 đưa ra danh mục

19 loài Tre - Trúc được ưu tiên đưa vào phương hướng hành động của Quốc
tế, 18 loài được ghi nhận là quan trọng trong đó 10 loài có thể kinh doanh lấy
măng[21].


7

Thái Lan coi Tre - Trúc là nguồn đặc sản rừng quan trọng, là cây làm
giàu cho người dân nhiều nơi (Thammincha, 1995). Thái Lan ứng dụng nhân
giống loài Dendrocalamus asper vào sản xuất, vùng Đông Bắc Thái Lan
trồng hàng 100 triệu cây nhằm phục vụ chế biến xuất khẩu nâng cao đời sống
dân nghèo. (Rungnapar Pattanavibool, 1998. Bamboo research and
deverlopment in Thailand. Thailand Royal Forest Dipartment)[15].
Ấn Độ cũng là một trong những nước có nguồn tài nguyên Tre - Trúc
phong phú, có thể coi là nước đứng đầu về sử dụng Tre - Trúc làm nguyên
liệu bột giấy. Trong số các nguyên liệu sử dụng cung cấp cho nguyên liệu bột
giấy thì nguyên liệu từ Tre - Trúc chiếm 2/3. Cả nước có 80 nhà máy giấy
trong đó có 30 - 35 nhà máy sử dụng nguyên liệu từ Tre - Trúc (China
National Bamboo Research Center, 2001; 2008, Cultivation & integrated
utilization on Bamboo in China , 2000)[13].
Nhật Bản: Nguồn măng chính ở nhật bản là loài Phyllostachys
pubescen, cây trồng được cắt ngọn để lại chiều cao 9 – 12m nhằm lấy ánh
sáng mặt trời và tạo ra trạng thái ấm áp để ngăn ngừa những thiệt hại do tuyết
gây ra. Nhiệt độ 200C là tối thiểu để cho măng phát triển, măng được khai
thác trong suốt tháng 4, tháng 5 và tháng 11 , sản lượng thu được khoảng 10
tấn/ha/năm, phí tổn khoảng 1/10 – 1/3 giá trị sản phẩm. Hàng năm việc làm
đất và bón phân là yêu cầu cần thiết để đảm bảo măng ngon và mềm. Tại Nhật
bản có khoảng 8000 tấn măng được tiêu dùng cho mỗi năm (Xiao,1989,
Cultivation & Utilization on Bamboos) [18].
Nhìn chung qua những nghiên cứu về Tre - Trúc trên thế giới cho

chúng ta thấy tiềm năng của nguồn tài nguyên này, nó được xem như là
nguyên liệu chính có khả năng thay thế gỗ, là loài cây mang lại thu nhập
nhanh và cao cho người dân miền núi.


8

2.2.1.3. Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái của các loài tre trúc trên thế giới
Hầu hết các loài tre nứa đều yêu cầu nhiệt độ ấm và ẩm nên chúng
thường phân bố ở vùng thấp và đai cao trung bình và tập trung chủ yếu ở 2
bên xích đạo (Lin, 2000). Trên thế giới có khoảng 1.300 loài thuộc hơn 70
chi, phân bố ở 3 vùng chính: Châu á Thái Bình Dương, Châu Mỹ và Châu
Phi, trong đó vùng Châu Á Thái Bình Dương là trung tâm phân bố tre nứa
chiếm khoảng 80% tổng số loài và diện tích toàn thế giới (Lin, 2000)[23].
Phần lớn tre trúc mọc tự nhiên ở độ cao dưới 500m so với mặt nước
biển, thích hợp ở vùng khí hậu nóng ẩm, có lượng mưa trung bình 1500mm
- 2500 mm/năm, nhiệt độ bình quân 21-270C, cây mọc thích hợp ở những
đất có tầng canh tác dầy, nhiều mùn, ẩm, có thành phần cơ giới nhẹ và
thoát nước tốt[24].
2.2.2. Nghiên cứu về tre trúc ở Việt Nam
Tre - Trúc thuộc họ Hồ Thảo (Poacae Barnh), lớp cây một lá mầm.
Trên thế giới hiện nay có khoảng 1300 loài thuộc 70 chi, nước nhiều Tre nhất
là Trung Quốc với khoảng 50 chi với 500 loài, ở Việt nam có 29 chi 150 loài
(Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, 2006)[9].
Tre - Trúc là lâm sản ngoài gỗ có rất nhiều công dụng, có thể nói từ
thân, gốc, rễ, lá, quả đều được sử dụng triệt để, bộ phận được sử dụng rộng rãi
đó là thân khí sinh. Do thân khí sinh của Tre - Trúc có nhiều đặc tính tốt nên
sử dụng trong xây dựng nhà cửa, đóng đồ gia dụng, làm bố mảng, cầu phao.
Hiện nay công nghiệp phát triển, Tre - Trúc là nguồn nguyên liệu quý giá cho
sản xuất giấy cao cấp, cho ván sàn, ván ép, đồ mộc cao cấp, chiếu trúc, than

hoạt tính, thủ công mỹ nghệ…, có thể nói Tre - Trúc thay thế được gỗ trong
nhiều lĩnh vực. Với công nghệ chế biến cao, những sản phẩm sản xuất từ Tre Trúc không những đẹp mà còn có độ bền cao, khả năng chịu nén, chịu lực tốt.
Thân Tre - Trúc có tỷ trọng cao, nhiều lỗ hổng và nhiều chất khoáng, thân Tre


9

được Cacbon hoá có nhiều ứng dụng như làm chất khử mùi, điều hòa độ ẩm,
ngăn cản điện từ, than được sử dụng nhiều trong cuộc sống như nấu ăn. Nhiệt
lượng 1 kg than hoạt tính có thể đạt 7703 kcal/kg cao hơn so với than hoạt
tính gỗ, than có khả năng lọc nước tốt...v.v. Gốc, thân Tre - Trúc có thể tạc
tượng, thân ngầm và cành đều có thể sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ. Lá một
số loài có thể xuất khẩu, lá dựng chế biến thuốc kháng sinh chống một số
bệnh như cảm, cúm…Việt Nam có 10 loài Tre - Trúc cho măng ăn ngon (Mai
ống, Luồng, Lồ ô, Là Ngà, Trúc Sào, Vầu Đắng, Tre gầy…). Tuy nhiên, các
loài cho măng ngon năng suất cao, chất lượng tốt chưa được phát triển, việc
khai thác măng chỉ dừng lại ở mức độ tận dụng (Nguyễn Ngọc Bình, Phạm
Đức Tuấn, 2007)[2], [20].
2.2.2.1. Nghiên cứu về phân loại, phân bố tre trúc ở Việt Nam
Nước ta có địa hình phức tạp, nằm trong vành đai nóng, giàu nhiệt và
ẩm, chịu ảnh hưởng rất lớn của chế độ gió mùa. Đặc điểm này đã ảnh hưởng
đến tất cả các thành phần của tự nhiên từ lớp vỏ phong hoá màu đỏ vàng giàu
sắt và nhôm đến lớp thực bì. Vì vậy, tài nguyên thực vật rừng Việt Nam rất
giàu về số lượng và phong phú về chủng loại. Ngoài trên 1000 loài cây gỗ lớn
và nhỏ, Tre (gọi chung cho tất cả các loài thuộc họ Phụ Tre – Bambusoideae)
là lâm sản đứng sau gỗ và có thể thay thế cho gỗ trong nhiều lĩnh vực, nhất là
trong tình trạng cây gỗ của rừng nước ta ngày càng cạn kiệt.
Việt Nam có thể coi là một đất nước của tre trúc, có điều kiện thiên
nhiên ưu đãi cho sự sinh trưởng, phát triển của tre trúc, từ miền ngược đến
miền xuôi đâu đâu cũng thấy hiện diện của tre trúc. Tre trúc dễ trồng, sinh

trưởng nhanh, sớm cho khai thác, dễ chế biến nên được sử dụng trong rất
nhiều các mục đích khác nhau của con người, đặc biệt là người dân nông
thôn cả miền đồng bằng và miền núi. Nhìn chung, tre trúc có thể được sử
dụng trong xây dựng, thực phẩm, phục vụ mục tiêu văn hoá, và một số các


10

công dụng khác. Tre trúc cũng là nguồn nguyên liệu lý tưởng để sản
xuất giấy. Thân tre trúc có chứa lượng sợi cao (40-60%) và chiều dài sợi
khoảng 1,5-2,5 mm (tối đa là 5mm), là nguyên liệu tốt cho sản xuất giấy
(Nguyễn Hoàng Nghĩa 2005)[8].
Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về diện tích tre nứa, với 194 loài tre trúc
thuộc 26 chi được các nhà khoa học phát hiện ở Việt Nam đã phần nào đánh
giá được tính đa dạng về thành phần loài tre trúc ở nước ta. Tuy nhiên, mới
chỉ có 80 loài đã tạm thời được định danh, còn lại là các loài chưa có tên.
Trong nhiều năm trở lại đây, rất nhiều chi, loài mới được các nhà khoa học
Việt Nam nghiên cứu và bổ sung vào danh lục tre nứa của nước nhà. Công
trình đầu tiên nghiên cứu về tre nứa ở Việt Nam là Camus and Camus (1923)
đã thống kê có 73 loài tre trúc của Việt Nam. Năm 1999 Phạm Hoàng Hộ
(Cây cỏ Việt Nam)[4], đã thống kê được 123 loài, số lượng các loài tre trúc
của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Không dừng lại ở đó vào giai đoạn 20012003, Nguyễn Tử Ưởng, Lê Viết Lâm (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
Nam) cùng với GS. Xia Nianhe, chuyên gia phân loại tre (chi Bambusa) của
Viện thực vật học Quảng Châu, Trung Quốc đã xác định ở Việt Nam có 113
loài của 22 chi, kiểm tra và cập nhật 11 tên khoa học mới, đặc biệt đưa ra
được 6 chi và 22 loài tre lần đầu đầu được định tên khoa học ở Việt Nam bổ
sung cho hệ thực vật Việt Nam, đưa ra 22 loài cần được xem xét để xác nhận
loài mới.
Phạm Hoàng Hộ (1999) đã giới thiệu 23 chi, 121 loài nhưng có loài
không có mô tả, các loài khác mô tả rất ngắn không đủ các thông tin cần thiết

để nhận biết chúng ngoài thực địa (Phạm Hoàng Hộ, 1999, Cây cỏ Việt Nam,
tập 3, trang 600-627)[4].
Lê Viết Lâm và các tác giả (2005) đã thống kê được 22 chi và 122 loài.
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2005) đã giới thiệu 25 chi, 216 loài, công trình của


11

Nguyễn Hoàng Nghĩa có thể coi là một tài liệu duy nhất từ trước đến nay đã
liệt kê đầy đủ nhất về số lượng chi, loài tre với nhiều thông tin có ý nghĩa về
phân bố, đặc tính hình thái, sinh thái, công dụng và có giá trị như một cẩm
nang tra cứu, đặc biệt là nhận dạng loài tre (Lê Viết Lâm, 2005, Điều tra bổ
sung thành phần loài, phân bố và một số đặc điểm sinh thái các loài tre chủ
yếu ở Việt Nam)[5].
Theo Nguyễn Tử Ưởng (2000), Việt Nam có 1.489.068 ha rừng tre
thuần loại hoặc hỗn giao gỗ + tre, chiếm 4,53% diện tích toàn quốc với tổng
trữ lượng là 8.400.767.000 cây. Trong đó: Rừng tre trúc tự nhiên có
1.415.552 ha bằng 14,99% diện tích rừng tự nhiên với trữ lượng là
8.304.693.000 cây bao gồm: Rừng thuần loại tre trúc có 789.221 ha bằng
8,36% diện tích rừng tự nhiên với trữ lượng 5.863.091.000 cây; Rừng hỗn
giao gỗ tre có 626.331 ha bằng 6,63% diện tích rừng tự nhiên với trữ lượng
2.441.602.000 cây. Rừng tre trúc trồng có 73.516 ha bằng 4,99%diện tích
rừng trồng với trữ lượng 96.074.000 cây. Diện tích rừng tre trúc trồng bằng
5,06% diện tích rừng tre trúc tự nhiên nhưng trữ lượng tre trúc trồng chỉ bằng
1,16% trữ lượng tre trúc tự nhiên. Như vậy số cây trên 1 ha ở rừng tre tự
nhiên gấp gần 5 lần số cây ở rừng trồng. Diện tích và trữ lượng tre trúc đáng
quan tâm nhất là vùng Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, Đông Nam Bộ
rồi đến Tây Bắc (Nguyễn Tư Tưởng, 2000, Tài nguyên tre Việt Nam)[12].
Quá trình khảo sát đã phát hiện ra một số chi được coi là mới đối với
nước ta là chi Giang (Maclurochloa) với 17 loài, chi Tre quả thịt

(Melocalamus) với 10 loài, chi Tre Bidoup (Kinabaluchloa) có 1 loài. Một số
loài mới được phát hiện là Tre lông Bidoup (Kinabaluchloa) có đặc điểm
ngoại hình giống loài cùng chi ở Malaixia (Wong, 1995) trúc dây Bidoup
(Ampelocalamus) có ngoại hình giống như trúc dây Ba Bể nhiều loài nứa
(Schizostachyum), le (Gigantochloa) và lồ ô (Bambusa). Một số chi có nhiều


12

loài là chi Tre (Bambusa) có 55 loài, chi Luồng (Dendrocalamus) có 21 loài,
chi Le (Gigantochloa) có 16 loài, chi Nứa (Schizostachyum) có 14 loài và chi
Vầu đắng (Indosasa) có 11 loài[21].
Tính tới năm 2001, tổng diện tích rừng tre trúc của Việt Nam có
khoảng 1.489.000 ha, trong đó 1.415.500 ha là rừng tự nhiên (thuần loài hoặc
hỗn loài), và khoảng 73.500 ha là rừng trồng tre trúc. Tính tới tháng 12/2004,
thì tổng diện tích rừng tre trúc của Việt Nam là 1.563.253 ha (Nguyễn Ngọc
Bình và Phạm Đức Tuấn,2007, Các loài tre rừng chủ yếu ở Việt Nam)[2].
Bảng 2.2: Hiện trạng tre trúc Việt Nam tính tới tháng 12/2004
Các loại rừng

Diện tích

tre trúc

(ha)

Phân chia theo chức năng
Rừng đặc

Rừng


Rừng sản

chủng

phòng hộ

xuất

799.130

82.409

343.035

373.686

682.642

113.850

319.266

249.526

81.484

285

10.186


71.013

Rừng tre trúc tự
nhiên thuần loài
Rừng tre trúc tự
nhiên hỗn loài
Rừng tre
trúc trồng

(Nguồn: theo QĐ 1116/QĐ/BNN-KL ngày 31 tháng 12 năm 2004)
Mặc dù sự phong phú như vậy, nhưng chỉ rất ít loài tre trúc được
nghiên cứu, gây trồng để làm nguyên liệu, chủ yếu là Trúc sào (Phyllostachys
edulis),

Luồng

(Dendrocalamus

barbatus),

Giang

(Ampelocalamus

patellaris), Diễn trứng (Dendrocalamus sp.), Vầu đắng (Indosasa angustata),
Nứa lá nhỏ (Neohouzeana sp.), Tre gai (Bambusa blumeana). Trúc sào được
trồng chủ yếu ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, là nguồn nguyên liệu để sản
xuất một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị như mành, chiếu, bàn nghế. Trong
chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng Trúc sào được xác định là cây trồng



13

cho các vùng Đông Bắc, Trung tâm Bắc Bộ, Tây Bắc. Luồng được trồng
nhiều ở Bắc Trung Bộ, là loài tre trúc quen thuộc trong xây dựng, sản xuất
ván nhân tạo. Có nhiều công trình nghiên cứu về cây Luồng như của Phạm
Văn Tích (1963)[10], Trịnh Đức Trình (1990)[11], Lê Quang Liên (1990,
2001)[6],... Tre gai, một loài tre rất quen thuộc với người dân ở vùng đồng
bằng, nhưng mới chỉ được gây trồng ở quy mô hộ gia đình; chủ yếu trồng ở
bờ rào quanh nhà, ven đường để cung cấp thân khí sinh sử dụng trong phạm
vi gia đình.
Ngoài các loài tre trúc thông dụng được trồng để cung cấp thân khí sinh
như nêu trên, nước ta còn có nhiều loài tre trúc cho măng ăn ngon như: Bương
mốc (Dendrocalamus aff. Sinicus) Mai ống (Dendrocalamus giganteus), Tre gầy
(Dendrocalamus sp.), Luồng (Dendrocalamus barbatus), Trúc sào (Phyllostachys
pubescens), Lồ ô (Bambusa procera), Là ngà (Bambusa bluemeana)..., tuy nhiên
việc đầu tư cho nghiên cứu gây trồng, phát triển theo hướng kinh doanh măng còn
nhiều hạn chế.
Phong trào trồng tre trúc lấy măng ở nước ta phát triển mạnh mẽ
khoảng trên chục năm gần đây, chủ yếu một số loài nhập từ Trung Quốc, Đài
Loan như: Điền trúc (Bát độ) (Dendrocalamus latiflorus), Lục trúc (Bambusa
oldhamii), Mạnh tông (Dendrocalamus asper), Tạp giao (Hybrid), và đã có
một số công trình nghiên cứu về các đối tượng này.
2.2.2.2. Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái của các loài tre trúc ở Việt Nam
Tre trúc có rất nhiều loại, mỗi loài có những yêu cầu riêng về điều kiện
ngoại cảnh. Nhìn chung, điều kiện khí hậu nhiệt đới thích hợp với phần lớn
loài tre trúc có thân mọc cụm, khí hậu á nhiệt đới thích hợp với loài có thân
mọc phân tán. Loại có thân mọc cụm sinh trưởng ở hầu hết các nơi trong điều
kiện khí hậu nước ta, từ vùng đồi núi cho tới đồng bằng, ven biển.



14

Tre là cây ưa sáng và ẩm nên trồng tre tốt nhất là chọn nơi đất sâu, dày, ven
sông suối. Nhưng tre cũng chịu được khô hạn như các loài tre ở vùng Tây Bắc
Việt Nam, chịu khô hạn rất tốt như Mạy sang (Dendrocalamus membranaceus),
Mạy bông (Bambusa tulda). Những loài tre không chịu được khô hạn thì khi gặp
điều kiện khô hạn, kích thước của chúng giảm đi rất nhiều. Một số loài tre ưa các
điều kiện đặc biệt của môi trường như loài Trúc dây (Ampelocalamus sp.) chỉ mọc
trên vùng núi đá vôi. Một số loài tre có thể chịu ngập khá lâu như: Tre gai
(Bambusa blumeana), Là ngà (Bambusa sinospinosa) và Lộc ngộc Thái lan
(Bambusa bambos). Hầu hết các loài tre không chịu được tác động thường xuyên;
nếu bị tác động không hợp lý chúng sẽ giảm kích thước rất rõ rệt như loài Nứa lá
to (Schizostachyum funghomii), Nứa lá nhỏ (Schizostachyum pseudolima), nếu bị
tác động mạnh chúng sẽ giảm kích thước thân từ 8 - 10cm xuống đến chỉ còn 2 3cm. Nhiều loài tre có hiện tượng nâng búi khi bị tác động không hợp lý.
Nhìn chung tre yêu cầu nhiệt độ bình quân hàng năm từ 22oC trở lên,
nhiệt độ bình quân tháng thấp nhất không dưới 8oC, lượng mưa hàng năm
1500mm, độ ẩm không khí hàng tháng 80% trở lên. Các loại tre trúc có thân
ngầm mọc tản có phạm vi phân bố tương đối hẹp hơn loại thân mọc cụm.
Phần lớn tre trúc mọc tản thích hợp với điều kiện khí hậu á nhiệt đới, ở
những nơi có nhiệt độ bình quân năm trên 14oC, nhiệt độ bình quân mùa
đông trên 4oC, lượng mưa từ 1000mm trở lên và phân bố đều.
Loại tre trúc mọc cụm nói chung không kén đất có thể sinh trưởng và
phát triển trên nhiều loại đất. Tuy vậy nơi có đất tốt, đầy đủ độ ẩm thì sinh
trưởng tốt hơn, cây tre cao to hơn, lóng tre dài hơn nơi đất xấu khô hạn.
2.2.2.3. Những nghiên cứu về chọn giống và kỹ thuật gây trồng tre trúc ở
Việt Nam
Đây là lĩnh vực về tre trúc được nghiên cứu nhiều nhất, như thống kê
đã có tới 52 công trình nghiên cứu kể từ năm 1963 tới này. Các nghiên cứu

tập trung vào các vấn đề nhân giống, khảo nghiệm, kỹ thuật gây trồng, kỹ
thuật chăm sóc và khai thác các loại riêng biệt. Ngay từ năm 1963, Phạm


15

Quang Độ[3] đã nghiên cứu và xuất bản ấn phẩm: “Trồng và khai thác tre
nứa trúc”. Đây là một trong những cuốn sách đầu tiên về đề tài tre trúc. Nội
dung cuốn sách trình bày sơ lược về đời sống tre nứa và phương pháp gây
trồng một số loài tre nứa trúc chủ yếu. Đây là một trong những nghiên cứu đã
rất tổng hợp từ cách nhận biết đến phân bố, sự tăng trưởng, cho đến trồng và
khai thác, chăm sóc rừng tre nứa. Sau đó, cũng có rất nhiều các nghiên cứu
về nhân giống, kỹ thuật trồng và khai thác các loài.
Việc tìm phương pháp nhân giống vừa đơn giản vừa tận dụng tối đa số
cành có trên thân, vừa sử dụng được cây giống ở các lứa tuổi đã được tác giả
Lê Quang Liên (2001)[6] với công trình “ Nhân giống luồng bằng chiết
cành” nhằm tìm ra phương pháp nhân giống có thể tận dụng được nhiều vật
liệu giống hom và nghiên cứu của tác giả đã cho thấy Luồng là một loài cây
có thể nhân giống bằng cành.
Nhìn chung vấn đề nghiên cứu về chọn giống và kỹ thuật gây trồng tre
trúc ở Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề:
- Nghiên cứu phương pháp chọn tạo giống (áp dụng công nghệ sinh
học) với các loài có giá trị
- Nghiên cứu kỹ thuật gây trồng, chăm sóc, khai thác đối với từng loài.
- Nghiên cứu về chọn giống các loài tre nứa cho các mục đích bảo
tồn, nguyên liệu chế biến, tre phong cảnh, tre lấy măng…
- Các kết quả nghiên cứu sẽ được sử dụng để xây dựng các quy
trình/quy phạm chọn tạo giống, trồng, chăm sóc, khai thác cho từng loài[19].
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên

2.3.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Tuần Giáo nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, là huyện cửa ngõ
phía Nam của tỉnh Điện Biên, cách Thủ đô Hà Nội 405 km. Huyện Tuần Giáo
qua các thời kỳ lịch sử đã thay đổi địa giới và tên gọi nhiều lần, mới đây nhất
ngày 14/11/2006, Chính phủ ra Nghị định 135/2006/NĐ - CP về việc điều


16

chỉnh địa giới hành chính xã, huyện; thành lập xã; mở rộng và đổi tên thị trấn
Mường Ẳng thuộc huyện Tuần Giáo; thành lập huyện Mường Ảng, tỉnh Điện
Biên, theo Nghị định 135/2006/NĐ-CP địa giới hành chính huyện Tuần Giáo
sau điều chỉnh còn 113.776,82 ha diện tích tự nhiên. Ranh giới của huyện
được xác định như sau:
+ Phía Đông giáp huyện Quỳnh Nhai (tỉnh Sơn La).
+ Phía Tây giáp huyện Điện Biên và huyện Mường Chà.
+ Phía Nam giáp huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La) và phía Đông huyện
Điện Biên Đông.
+ Phía Bắc giáp huyện Mường Chà, huyện Tủa Chùa.
2.3.1.2. Địa hình
Địa hình huyện Tuần Giáo hiểm trở và đa dạng: Khu vực núi non của
huyện chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam với 70% diện tích là các dãy
núi cao từ 800 m trở lên, độ dốc trung bình 12 - 200 ; vùng thung lũng hẹp
chiếm 10% diện tích tự nhiên, địa hình chia cắt, nằm giải giác ở các xã, vùng
đồi thoải chiếm 25 - 27% diện tích toàn huyện. Cao nhất là dãy Pú Huổi
Luông (2.179m), dãy Pơ Mu (1.848 m), có vùng thung lũng hẹp nằm rải rác ở
các xã.
Hệ thống sông suối khá dày đặc nhưng lưu lượng và khối lượng không
lớn. Trên địa bàn Tuần Giáo có các con suối Tông Ma, Nậm Mu, Nậm Mùn,
bản Phủ, Toả Tình, Tênh Phông, Nậm Pùa, Nậm Cô và sông Nậm Mức, sông

Đà, sông Mã chảy qua.
2.3.1.3. Khí hậu
Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa miền Bắc Việt Nam, hàng năm
có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến
tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình từ 18,20C cao nhất là 36 - 370C, lượng
mưa trung bình 1.805 mm/năm.


×