Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

BÁO CÁO BỆNH KÍ SINH TRÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 48 trang )

BỆNH KÍ SINH TRÙNG
I.

KHÁI NIỆM:
- Bệnh kí sinh trùng là những bệnh do động vật không xương sống kí sinh trên cơ
thể vật chủ gây nên. Bệnh có tính truyền nhiễm, lây từ cá thể này sang cá thể
khác.

II. CÁC LOẠI ĐỘNG VẬT KÍ SINH:
- Tất cả cả loại kí sinh, chủ yếu là những động vật bậc thấp, có nguồn gốc sống tự
do. Do khủng hoảng về vận chuyển và nhu cầu mở rộng phạm vi phân bố , các sinh
vật này tiến hóa theo hướng lấy cơ thể sinh vật khác, làm môi trường sinh sống.
- Các loài động vật kí sinh tập trung ở các nghành sau:
1. Nghành động vật nguyên sinh (Protozoa): là những động vật đơn bào, kích
thước hiển vi. Có 3 lớp chủ yếu gây bệnh cho người và động vật.
Lớp trùng roi: nhóm kí sinh đường sinh dục như các loài thuộc họ
Chilomastic và Trichomonas gây bệnh tiêm la ngựa. Nhóm kí sinh đường tiêu hóa
thuộc giống Giaradia và Trichomonas. Nhóm kí sinh đường máu thuộc họ
Trypanosonidae.
Lớp trùng chân giả (Rhizopoda), gồm 4 giống, điển hình là giống
Entamoeba, kí sinh ở đường tiêu hóa, gây bệnh lị amip. Một số kí sinh ở gan, phổi
não, lách, da gây các ổ loét (abscess). Một số loại có lợi, ví dụ Entamoeba colin ăn
bào nang của trùng roi Giardia.
Lớp trùng bòa tử (Sporozoa) điển hình là giống Plasmodium gồm nhiều loài.
Trong đó có 4 loài gây bệnh sốt rét cho người là P.fanciparum, P.vivax, P.malariae
và P.ovale. Trung gian truyền bệnh là muỗi thuộc giống Anopheles. Một số loài
khác thuộc bộ Coccidiida gây bệnh cầu trùng.
2. Ngành dung dẹp (Plathelminles), là những động vật đa bào thấp, thân hình
lá, kích thước lớn gồm 2 lớp:
Lớp sán lá (Trematoda). Thân dẹp hình lá, không phân đốt, kí sinh nội quan.
Phần lớn trải qua 2 kí chủ và có vòng đời phức tạp. Kí chủ trung gian là động vật


thủy sinh. Ví dụ cua đồng, ốc, cá là kí chủ trung gian của sán lá ruột, lá phổi
(Paragonimus ringeri) , sán lá ruột gan (Fasciola hepatica)...


Lớp sán dây (Cestoda) cơ thể dài, dẹp chia làm 3 phần: đầu, cổ và các đốt
thân, mỗi đốt thân là 1 cơ quan hoàn chỉnh, vòng đời phức tập. Điển hình là sán
dây (Teania solium và Teania saganita), thể trưởng thành sống trong ruột người,
thể ấu trùng kí sinh ở lợn, bò. Sán dây (Diphyllobthrium masoni), thể trưởng thành
kí ở chó mèo, thể ấu trùng sống trong ếch nhái..
3. Ngành giun tròn (Nemathelminthes),
Thân hình ống hay dạng chỉ dài, kí sinh trong ống tiêu hóa, nội quan người
và động vật. Trước khi sống tại 1 nội quan, ấu trùng di hành trong máu tới các cơ
quan có thể gây nhiều biến chứng bất thường. Điển hình có giun đũa (Ascaridata),
giun kim (Oxyuruta), giun lươn, giun tóc, giun móc, giun chỉ, giun đầu gai, ,...
Phần lớn kí sinh gây bệnh đường tiêu hóa, lây trực tiếp thông qua kí chủ trung
gian. Một số kí sinh ở da, mô thần kinh mô cơ, tổ chức bạch huyết, lây truyền qua
bệnh chân khớp. Ví dụ giun chỉ gây bệnh phù chân voi lây truyền qua muỗi.
4. Ngành giun đốt (Anelides)
Thân tròn hay thân dẹp, hình lá, phân đốt, gồm những loài ngoại kí sinh và
nửa kí sịnh, không gây bệnh nguy hiểm nhưng hút máu gây hạ, truyền bệnh tạo cơ
hội cho các bệnh khác phát triển. Đại diện có các loài trong họ đỉa và họ vắt.
5. Ngành chân đốt (Arhtopoda) là nhũng động vật không xương sống chân
phân đốt, thân phủ kitin, điển hình lớp hình nhện, lớp côn trùng.
Lớp hình nhện (Archnida) cơ thể chia làm 2 phần: đầu ngực và bụng. Có 4
đôi chân, không có râu. Đại diện các loài trong bộ ve bét, mò, mạ, ghẻ, là những
sinh vật nửa và ngoại kí sinh, gây hại và là trung tâm truyền bệnh.
Lớp côn trùng (Insecta) cơ thể chia làm 3 phần; đầu, ngực và bụng, có 3 đôi
chân và 1 đôi râu. Sống tự do hoặc nửa kí sinh, gây hại và làm môi giới truyền
bệnh. Ví dụ ruồi nhà ăn máu mủ, truyền dich tả, lở mồm lông móng. Muỗi huyết
máu truyền sốt rét. Ruồi trâu hút máu truyền bệnh trùng roi. Rận, bọ chét hút máu

truyền dịch hạch.
III. Hình thức kí sinh và quy luật chi phối đời sống kí sinh:
1. Các hình thức kí sinh: Dựa vào tính chất kí sinh có thể chia làm 3 hình
thức.


- Nửa kí sinh: còn gọi là hình thức kí sinh tạm thời, sinh vật kí sinh chỉ đến
với kí chủ trong khoảng thời gian nhất định. Ngoài thời gian trên chúng sống độc
lập không phụ thuộc kí chủ. Ví dụ: muỗi, ve, đỉa,...
- Ngoại kí sinh: sinh vật kí sinh sống kí trên bề mặt cơ thể kí chủ. Ví dụ:
ghẻ, chấy, rận,...
- Nội kí sinh: sinh vật kí sinh sống trong nội quan, các tổ chức bên trong cơ
thể. Ví dụ: giun, sán,...
2. Quy luật chi phối đời sống kí sinh: có 3 xu hướng biến đổi có tính quy
luật chi phối đời sống sinh vật kí sinh.
- Luật tiêu giảm các cơ quan vốn có, đã trơ nên không cần thiết. Ở bọn nửa
kí sinh sự tiêu giảm không sau sắc, có hiện tượng tiêu giảm hệ mạch, thể xoang
làm nhiệm vụ của hệ tuần hoàn. Ở bọn ngoại kí sinh, sự tiêu giảm liên quan đến
đời sống cố định và chế độ ăn: cơ thể nhỏ, mắt và cánh tiêu giảm. Ở bọn nội kí
sinh sự tiêu giảm là sâu sắc: hệ tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, thần kinh và các giác
quan hoặc tiêu giảm, hoặc rất kém phát triển. Ở sán dây gần như tiêu giảm hoàn
toàn, chỉ còn lại 1 đầu sáng bằng mũi gim với các giác bám, mỗi đốt là 1 cơ quan
sinh sản.
- Luật xuất hiện các cơ quan thích nghi mới. Bọn ngoại kí sinh xuất hiện cơ
quan giao cấu, thụ tinh trong, một số noãn thai sinh. Hình thức sinh sản phong phú:
hữu tính lưỡng tính, vô tính theo kiểu liệt sinh (trùng sốt rét), ấu trùng sinh (sán lá),
làm tăng nhanh số lượng cá thể. Số lượng sinh sản nhiều, 1 sán dây có thể sinh sản
11 tỉ trứng trong đời cá thể.
- Phần lớn các sinh vật sống trên 1 kí chủ hay nhiều kí chủ đều trải qua 1
giai đoạn phát triển bên ngoài cơ thể kí chủ, chờ cơ hội xâm nhập, tạo nên 1 vòng

đời phức tạp.
- Tất cả các đăc điểm này nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa sự tồn tại của cá
thể và sự tồn tại của loài, đảm bảo tính liên tục của loài trong đời sống kí sinh.
IV. Sự xâm nhập và lây bệnh của kí sinh trùng:


1. Sự xâm nhập: kí sinh trùng xâm nhập vào cơ thể vật chủ theo 4 con con
đường chủ yếu
- Xâm nhập qua thức ăn, nước uống. Nang trứng chứa ấu trùng cảm nhiễm
theo thức ăn nước uống vào đường tiêu hóa, dưới tác dụng các dịch tiêu hóa ấu
trùng được giải phóng thành dạng kí sinh, di hành trong máu 1 thời gian, đến 1 giai
đoạn nhất định chúng sống cố định tại nơi thích hợp.
.
- Xâm nhập qua da: ấu trùng giun móc, giun lươn, sán lá,... bám và xâm
nhập vào cơ thể qua da. Một số khác như ghẻ, chấy, rận,.., kí sinh trực tiếp trên da.
- Xâm nhập qua động vật trung gian: phần lớn các kí sinh trùng máu xâm
nhập vào cơ thể phải qua các trung gian là côn trùng chích hút: muỗi Anopheles
truyền bệnh sốt rét, ve Boophilus truyền bệnh lê dạng trùng, muỗi Culex fatigan
truyền bệnh giun chỉ,...
2. Tác hại của kí sinh trùng: kí sinh trùng gây hại đối với kí chủ dưới các
hình thức sau;
- Tác động cơ giới: vòi chích hút, giác bám, móc bám, tạo các vết thuwowg
cơ giới gây lở loét ở da (ghẻ), gây thủng ruột, làm tắc ống mật (giun đũa), gây
absess ở gan (sán lá gan), gây rối loạn tuần hoàn, nghẽn mạch, tắc mạch (ấu trùng
giun đũa),...
- Chiếm đoạt dinh dưỡng. Kí sinh trùng tiêu thụ 1 khối lượng lớn dinh
dưỡng đã tiêu hóa sẵn, hút máu, dịch tế bào, phá hủy hồng cầu,... làm kí chủ hao
mòn , còi cọc dẫn đến chết.
- Tiết độc tố: các sản phẩm trao đổi chất của kí sinh trùng gây hại đối với kí
chủ. Kí sinh trùng còn có khả năng tiết độc tố chống lại sức đề kháng của kí chủ,

gây tan máu hoại huyết, đầu độc thần kinh...
- Mở đường cho bệnh khác phát sinh: các vết thương cơ giới, sự hủy hoại
thần kinh, máu và sức đề kháng của cơ thể là điều kiện thuận lợi cho các bệnh khác
phát sinh. Một số kí sinh trùng là trung gian truyền bệnh.
3. Đặc điểm của bệnh kí sinh trùng:


- Biểu hiện không rõ rệt, khả năng tái nhiễm cao: các triệu chứng không rõ,
chung chung không đặc thù, ít có biểu hiện cấp tính. Vì vậy dễ chủ quan, xem nhẹ
dẫn đến tỷ lệ tái nhiễm cao.
- Mang đặc điểm vùng và tính xã hội. Kí sinh trùng phát triển phụ thuộc vào
yếu tố địa lí khí hậu và điều kiện xã hội. Những vùng khí hậu nóng ẩm, xã hội kém
phát triển, dinh dưỡng vệ sinh kém..., bệnh kí sinh trùng được phổ biến.
- Bệnh có thời hạn: tuổi thọ của kí sinh trùng là có thời hạn, nếu vệ sinh tốt,
chống được sự tái nhiễm, bệnh tự hết sau 1 thời gian.
V. Phản ứng của cơ thể đối với kí sinh trùng:
1. Phản ứng tế bào:
Khi bị kí sinh trùng xâm nhập vào các tế bào bạch cầu di động được huy
động đến nơi kí sinh trùng để tiêu diệt, thông qua hoạt động thực bào. Các tế bào
tại nơi kí sinh trùng xâm nhập tăng sinh bao vây, làm vôi hóa kí sinh trùng.
2. Phản ứng dịch thể:
Các độc tố của kí sinh trùng có tính kháng nguyên kích thích cơ thể kháng
thể, làm trung hòa độc lực tạo miễn dịch, hình thành trạng thái cân bằng giữa kí
sinh trùng và kí chủ.
3. Miễn dịch kí sinh trùng: Tồn tại 2 loại miễn dịch
- Miễn dịch tự nhiên: do bản chất di truyền, kí chủ có khả năng không bị
nhiễm 1 số bệnh 1 số loại kí sinh trùng, hoặc nhiễm ở mức đọ nhẹ và chỉ 1 giai
đoạn nhất định. Khả năng không bị nhiễm là hiện tượng miễn dịch hoàn toàn, cơ
thể ngăn cản giữ lại và vô hiệu hóa toàn bộ mầm bệnh, tống chúng ra khỏi cơ thể.
Ví dụ trâu bò không mắc bệnh giun đũa gà và ngược lại. Khả năng nhiễm ở mức

độ nhẹ hoặc chỉ ở giai đoạn nhất định là miễn dịch không hoàn toàn. Ví dụ bệnh
giun đũa chỉ nhiễm ở lợn ở 1 đến 3 tháng tuổi, lợn trưởng thành hầu như không bị
nhiễm.
- Miễn dịch tạp nhiễm: được hình thành trong quá trình phát triển cá thể.
Khác với bệnh truyền nhiễm, miễn dịch kí sinh trùng chỉ mang tính tương đối. Tỷ
lệ tái nhiễm cao, thời gian miễn dịch ngắn khả năng miễn dịch kí sinh trùng được
thể hiện các mức độ sau;


+ Hạn chế sự miễn nhiễm, ngăn cản quá trình xâm nhập của mầm bệnh,
giảm số lượng mầm bệnh lọt vào cơ thể.
+ Làm ngừng sinh trưởng, giảm khả năng sinh sản của kí sinh trùng.
+ Rút ngăn thời gian sống, kí sinh trùng không sống đến tuổi trưởng thành.
Kết quả giảm tác hại, làm nhẹ các triệu chứng của bệnh.
VI. Một số bệnh kí sinh trùng chung cho người và động vật:
1. Bệnh sán lá gan:
Đặc điểm sinh học. Bệnh do hai loài sán lá Fasciola gigantica và Fasciola
hepatica gây nên. Kí sinh chủ yếu ở loài nhai lại nhưng cũng gặp ở người và các
loài dộng vật khác. Sán trưởng thanhfkis sinh ở ống dẫn mật. Cơ thể hình lá dài 2575 mm, rộng 3-12 mm. Có hai giác bám, giác bụng lớn, giác miệng nhỏ hơn.
Trứng theo phân ra ngoài, phát triển ngay trong vỏ hình thành ấu trùng
Miracidium, nếu điều kiện không thuận lợi có thể tồn tại trong vỏ 8 tháng. Gặp
điều kiện thuận lợi Miracidium bật nắp vỏ ra ngoài, bơi tự do, vào ốc kí chủ trung
gian Limnaea viridis hoặc L.swihoei, phát triển và sinh sản vô tính thành các Redia
tiếp tục sinh sản thành các Cercaria. Từ một Miracidium sau thời gian phát triển
trong cơ thể ốc có thể sinh sản thành 150-200 Cercaria. Cercaria kết kén bám chắc
vào cây cỏ thủy sinh biến thành Adolescaria. Trâu bò hay động vật khác ăn phải
kén ấu trùng
trên vào đường
tiêu hóa, ấu
trùng được giải

phóng vào máu,
di hành một thời
gian vào gan và
sống cố định ở
ống dẫn mật.
Sán trưởng
thành có thể tồn
tại 6-11 năm
trong cơ thể kí
chủ.


Triệu chứng. Bệnh thường ở thể mãn tính, con vật lông xù, nhợt nhạt, ỉa
chảy, ho, gầy yếu kiệt sức rồi chết. Ở thời kì sán di hành có thể những biến chứng
cấp tính, thiếu máu, gan sưng to, suy nhược toàn thân rồi chết.
Phòng và điều trị. Thuốc được dùng thường là Tetracloruacacbon (CCl4),
cho uống thuốc hoặc tiêm, Liều dùng 0,4 ml/1kg khối lượng cơ thể. Công
tacsphongf bệnh hiệu quả là tiêu diệt và ngăn ngừa phát tán mầm bệnh bằng các
biện pháp: ủ phân sinh học, làm khô và chăn dắt luân phiênđồng cỏ. Vệ sinh thức
ăn, nước uongs. Định kì kiểm tra, xét nghiệm phân tẩy sán cho vật nuôi. Đối với
người: không uống nước lã, không ăn rau sống rửa chưa sạch, đặc biệt là các loại
rau thủy sinh.
1.1 Sán lá gan bé
Phương thức lây truyền- Do người hoặc các vật chủ chính khác như chó, mèo… ăn cá sống hoặc cá chưa
nấu chín, có nang ấu trùng. Đến tá tràng, ấu trùng thoát nang, đến đường dẫn mật
và kí sinh tại đó.
- Trong cơ thể người, sán sống được 15-25 năm.
Tác hại
- Sán lá gan có thể gây xơ hóa gan, cổ chướng, thoái hóa mỡ ở gan, dần dần sẽ
dẫn đến ung thư gan.

- Vị trí kí sinh thường bị kích thích gây nên tiêu chảy,ngoài ra dễ gây hiện tượng
tắc ruột.
- Độc tố do sán tiết ra có thể gây nên tình trạng dị ứng, thiếu máu
Biểu hiện lâm sàng
- Giai đoạn khởi: chán ăn, ăn không tiêu, đau âm ỉ vùng gan, tiêu chảy hoặc táo
bón thất thường.
- Giai đoạn sau: đau vùng gan nhiều hơn, kèm theo thiếu máu, vàng da và cổ


trướng
1.2. Sán lá gan lớn:
- Bệnh sán lá gan lớn thường gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi.
- Sán lá gan lớn kí sinh chủ yếu ở động vật ăn cỏ như trâu, bò, chó, mèo, cừu.
Người là vật chủ ngẫu nhiên, tình cờ mắc bệnh.
Phương thức lây truyền
- Do ăn thực vật sống dưới nước như rau ngổ, rau rút, rau cải xoong
- Uống nước có nhiễm ấu trùng sán chưa bị diệt.
Triệu chứng
- Bệnh khởi đầu từ từ, sốt bất thường, có thể sốt cao, rét run hoặc sốt chỉ thoáng
qua rồi tự hết, đôi khi sốt kéo dài.
- Triệu chứng chính là ho về đêm, khó thở và khò khè nhiều.
- Đau bụng: đau vùng hạ sườn phải lan về phía sau hoặc vùng thượng vị.- Bệnh
nhân có cảm giác đầy bụng khó tiêu, rối loạn tiêu hoá, buồn nôn.
Sán lá ruột
Trong các loại giun sán gây bệnh cho người, có sán lá ruột. Loài sán này ký
sinh cả ở người và một số gia súc, đặc biệt rất phổ biến ở loài lợn.
Sán lá ruột ký sinh trong ruột người và gây bệnh cho người, nhưng cách lây bệnh
không đơn giản. Chu kỳ của sán lá này rất phức tạp, cần nhiều vật chủ, nhiều giai
đoạn phát triển khác nhau không lây trực tiếp từ con sán nằm trong ruột lợn sang
người qua miếng lòng lợn.

Sán lá dài 30-70mm, chiều ngang 14-15mm, ký sinh trong ruột và đẻ trứng ở
đấy. Trứng sán theo phân ra ngoài làm nhiễm bẩn các nguồn nước. Sau một thời
gian, ấu trùng dần dần hình thành trong trứng. Sau 2-3 tuần lễ ấu trùng phát triển
hoàn chỉnh trong trứng, phá vỡ vỏ trứng ra ngoài tìm ốc để ký sinh. Sau khi vào ốc,
ấu trùng tiếp tục phát triển thành ấu trùng có đuôi. Lúc này chúng lại bỏ ốc, sống
bám vào một số cây thủy sinh như bèo, ngó sen, củ niễng... Người ta ăn phải những
cây thủy sinh này chưa nấu chín sẽ ăn theo cả ấu trùng sán lá vào ruột. Khi vào cơ


thể ấu trùng bám vào ruột non, ký sinh và trưởng thành ở đấy. Thời gian từ lúc ấu
trùng vào cơ thể đến khi trưởng thành khoảng 90 ngày.
Bệnh sán lá ruột gặp phổ biến ở nhiều nước châu Á, nhất là ở những vùng có
nhiều hồ ao, có nhiều cây thủy sinh được dùng làm thức ăn cho người và gia súc.
Như vậy người hoặc lợn bị sán lá ruột là do ăn những cây thủy sinh có ấu
trùng sán chưa được nấu chín. Tại VN, lợn bị bệnh này rất phổ biến vì thức ăn
chính của lợn là bèo. Người ít bị bệnh sán lá ruột hơn vì người ít ăn các loại cây củ
mọc dưới nước (như củ ấu, ngón sen, củ niễng...) sống.
Triệu chứng của bệnh sán lá ruột như sau: Trong giai đoạn đầu bệnh nhân
chỉ bị mệt mỏi, thiếu máu nhẹ, sức khỏe giảm sút... Khi bệnh toàn phát, người bệnh
bị đau bụng kèm theo tiêu chảy. Phân lỏng không có máu, nhưng nhày và có lẫn
nhiều thức ăn không tiêu. Bệnh nhân thường đau bụng ở vùng hạ vị, đau kèm theo
tiêu chảy, đôi khi có thể xảy ra những cơn đau dữ dội. Nếu người bệnh có nhiều
sán và không được điều trị, bệnh sẽ ngày càng nặng, có thể bị phù nề, tràn dịch ở
nhiều nội tạng và chết trong tình trạng suy kiệt.
Việc điều trị sán lá ruột không khó, miễn là chúng ta chú ý phát hiện bệnh
sớm và chữa sớm. Hiện nay y học có nhiều loại thuốc chữa giun sán tốt, trong đó
gồm cả sán lá ruột. Thuốc men và liều lượng cụ thể do thầy thuốc quyết định.
Để phòng bệnh này chúng ta không nên ăn những cây thủy sinh chưa nấu
chín. Ngoài ra phải quản lý tốt nguồn phân, không dùng phân tươi bón cho cây
trồng, nhất là những cây trồng dưới nước.

2. Bệnh sán lá phổi
Bệnh sán lá phổi do loài sán hình bầu dục, to bằng hạt cà phê ký sinh trong
phổi hoặc màng phổi gây nên. Sán lá phổi tạo nên những ổ áp xe bằng đầu ngón


tay và gây ho
ra máu hoặc tràn dịch màng phổi.
Phương thức lây truyền
- Lây qua đường ăn uống: Khi ăn tôm, cua nước ngọt có ấu trùng nang sán
lá phổi nấu chưa chín.
Triệu chứng lâm sàng
- Sán ký sinh tại phổi:
+ Ho có đờm, có thể lẫn máu hoặc ho ra máu. Sau một thời gian ho mãn
tính, ho nhiều vào buổi sáng.
+ Có thể sốt hoặc không sốt.
- Sán ký sinh ở não: đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, có thể nôn vọt và xuất
hiện cơn động kinh,…
- Sán ký sinh ở gan: đau hạ sườn phải, áp xe gan,…
3 Sán dây:


Đặc điểm sinh học. Sán dây lợn (Taenia sodium), sán dây bò ( T.saginata)
trưởng thành sống ở ruột người. Thân hình trải dài 1,5-12m, đầu nhỏ đường kính từ
1-2 mm, có 4 giác bám. Ở sán dây lợn còn có thêm 2 vòng móc bám, mỗi vòng có
22-28 vòng móc, bám rất chắc vào niêm mạc phần cổ nhỏ thắt lại, là nơi sản sinh
các đốt sán. Đốt non nhỏ, ở phía trên, đốt già to ở phía dưới. Mỗi đốt có cơ quan
sinh dục đựcvà cái rất phát triển, đốt già rộng 7 mm, dài 10-18 mm, chứa đầy
trứng. Mỗi lần rụng từ 5-7 đốt, theo phân hoặc chủ động chui ra ngoài. Trứng phát
triển thành ấu trùng bên trong vỏ trứng, theo thức ăn, nước uống vào ruột bò, lơn,
ấu trùng thoát vỏ ra ngoài, qua thành ruột vào máu di hành và kí sinh cố định ở tổ

chức cơ. Sau 34 tháng phát
triển thành ấu
trùng hình hạt
gạo
( Cysticercus).
Người ăn thịt
bò lợn sống
hoặc chưa nấu
chín có ấu trùng
hạt gạo
( Cysticercus),
dưới tác dụng
của dịch tiêu
hóa, ấu trùng
được giải phóng
bám vào niêm
mạc ruột phát triển thành sán dây trưởng thành. Sán dây trưởng thành tồn tại trong
ruột người từ 5-25 năm, sinh sản khoảng 11 tỉ trứng. Mỗi cơ thể người chỉ tồn tại 1
sán dây. Ở người tỉ lện mắc bệnh Taenia sodium là 10%, mắc Taenia saginata là
90% trong tổng số mắc bệnh sán dây.
Triệu chứng. Ấu trùng kí sinh ở tổ chức cơ bò, lợn, triệu chứng không rõ, chỉ
thấy con vật đi lại khó khăn, kém ăn, bại liệt rồi chết. Mổ thịt thấy có ấu trùng hình
hạt gạo màu vàng trắng bám ở cơ, mô mỡ, nên gọi là bệnh “gạo lợn” hay “gạo bò”.


Ở người sán trưởng thành kí sinh ở ruột gây viêm ruột nhăn, rối loạn tiêu hóa, gầy
yếu, gảm khả năng chống bệnh.
Phòng và điều trị. Hiện chưa có thuốc điều trị thật hiệu quả, thuốc
Yomesane được coi là thuốc tốt nhất hiện nay. Ngoài ra có thể sử dụng các loại
thuốc nam như hạt cau, hạt bí, ngô, vỏ lựu,...

Bài thuốc trị sán dây cho người: nhân hạt bí ngô 50g, hạt cau già 70-100g,
nghiền thành bột đun với 500 ml nước, sắc cạn còn 100ml, sắc lại 2 lần như trên,
tổng cộng được 300ml nước, trộn lẫn sắc cạn con 100 ml. Sáng sớm, không ăn
sáng, ăn hạt bí ngô, sau 1 giờ uống nước sắc hạt cau, sau tiếp nửa giờ uống 20-30g
Sunphatmanhe (MgSO4). Sau 40 phút đến 4 giờ đốt sán và đầu sán ra hết.




Phòng bệnh được coi là quan trọng, cần thực hiện các biện pháp sau:
Xây hố xí tự hoại, hố xí 2 ngăn, ủ phân thật hoai mới được sử dụng không
phóng uế bừa bãi.
Không ăn gỏi thịt sống, thịt tái, nem chua hay tiết canh lợn.
Không thả rông lợn, cho lợn ăn phân người, giữ gìn vệ sinh bãi chăn, vệ sinh
nước uống đối với trâu bò.
Sán dây nhỏ (Echinococcus)

Echinococcus là một loại sán dây nhỏ hay còn được gọi là sán kim. Bệnh
này phân bố ở nhiều nước thuộc châu Phi, Bắc và Nam Mỹ, Nam châu Úc, châu
Âu và một số nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Philippine, Việt Nam... Vật
chủ chính của sán kim là chó nhà, chó rừng, đôi khi là loài cáo. Bệnh ít được phát
hiện tại nước ta nhưng cần cảnh giác.
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
Vật chủ chính của sán kim là chó nhà, chó rừng, đôi khi là loài cáo. Con sán
trưởng thành dài 3-6mm, đầu có 4 dĩa hút và một hàng móc đôi, thân gồm ba đốt,
đốt sán cuối cùng có vài trăm trứng. Sau khi ký sinh và phát triển trong ruột chó,
đốt sán kim già tự động di chuyển ra ngoài hậu môn và bị vỡ làm trứng sán tung ra
khắp nơi. Khi đốt sán ra ngoài hậu môn sẽ kích thích gây ngứa, chó liếm hậu môn



rồi liếm lông nên lông chó cũng bị dính nhiều trứng sán và dễ dàng lây nhiễm cho
các vật chủ phụ khác như cừu, trâu, bò, ngựa, dê, lợn. Cừu là vật chủ phụ chủ yếu
và người là vật chủ phụ tình cờ.
Trứng của loài sán này theo phân chó ra ngoài có thể sống từ vài tuần đến
vài tháng trong đất, cỏ, rau.
Khi con người ăn rau sống hoặc vuốt ve chó, trứng sán dính vào tay, vào cơ
thể cư trú tại phổi, gan, lách, não. Tại đây trứng lớn dần thành ấu nang có dạng
bướu. Bướu tăng trưởng đủ độ có đường kính từ 1-7 cm, chứa trên 2 triệu đầu sán.
Bướu sán ký sinh ở gan có thể chèn ép ống dẫn mật gây vàng da. Khi bướu ở tim
trái vỡ, các đầu sán di chuyển lên não lách, thận, gan. Buồng tim phải, đầu sán di
chuyển lên phổi. Bướu ở thận gây đau lưng, tiểu máu. Bướu ở lách làm đau cạnh
sơn và xương sườn gồ lên. Bướu trong đốt xương sống có thể gây tổn thương tủy
sống. Bướu ở các xương làm xương trở nên xốp, dễ gãy. Khi bướu vỡ thường làm
cho người bệnh ngứa, nổi mề đay, nhiệt độ cơ thể tăng giảm thất thường, rối loạn
tiêu hóa, khó thở, tím tái, ngất, hôn mê. Nếu chất dịch trong bướu và máu có thể
gây sốc phản vệ.
Khi người hoặc các động vật khác ăn hay nuốt phải trứng sán, vào đến tá
tràng ấu trùng được giải phóng ra và chui vào thành ruột, theo tĩnh mạch, bạch
mạch, vào hệ thống đại tuần hoàn đi khắp cơ thể. Nếu không bị thực bào, ấu trùng
sán mất đi những giác và hình thành bọng sán. Sau khoảng 5 tháng, bọng sán thành
nang sán có đường kính khoảng 10 mm. Nang đầu sán chứa đầy nước.
Nang sán kim ở người có 3 loại gồm nang một bọc (aunilocular), nang
xương (osseous) phát triển trong mô xương và nang túi (alveolar) của
Echinococcus multilocularis. Loại nang một bọc gặp phổ biến ở người, ít gặp ở
động vật. Nang sán phát triển chậm trong nhiều năm, hình tròn; thường gặp với tỷ
lệ 66% ở gan, 22% ở phổi; 3% ở thận, 2% ở xương, 1% ở não và một số cơ quan
khác như cơ, lách, tim, mắt.
Cấu tạo nang sán (hydatidcyst) gồm lớp vỏ dày khoảng 1 mm và màng sinh sản
dày từ 22 đến 25 µm, ở trong là dịch màu hơi vàng. Nang ấp (brood capsule) chỉ có
màng sinh sản trong chứa những đầu sán. Nang sán con có cấu tạo lập lại của nang



sán mẹ.
Khi nang sán vỡ, có rất nhiều đầu sán non từ nang sán thoát ra tràn vào dịch
nang. Một nang sán trung bình chứa khoảng 2 triệu đầu sán non. Nếu chó ăn phải
nang sán, sau 7 tuần trong cơ thể chó có hàng triệu con sán trưởng thành. Nếu nang
sán vỡ trong cơ thể vật chủ, đầu sán non lại phát triển thành nang sán mới gọi là
nang sán thứ phát. Nang sán con trong dịch nang sán đôi khi có thể sinh ra nang
sán cháu.
Có một số nang sán do vôi hóa hoặc bị vi khuẩn xâm nhập, nó không có
nang ấp và không có đầu sán được gọi là nang “sạch” hoặc nang không đầu
(acephalocyst).
Biểu hiện bệnh
Khi sán kim Echinococcus granulosus xâm nhập và ký sinh trong cơ thể,
nang sán sẽ chèn ép các phủ tạng, cơ quan ở chung quanh và gây nên những biến
chứng quan trọng. Sự tổn thương và nguy hại còn tùy thuộc vào vị trí có nang sán
ký sinh.
Nếu nang sán bị vỡ, nó gây nên sự nhiễm độc, dị ứng, choáng quá mẫn và
đầu sán tràn ra ngoài tạo thành các nang sán thứ phát. Nang sán thứ phát có thể từ
2 đến 5 năm sau mới xuất hiện kể từ khi nang sán tiên phát bị vỡ và thường gây tử
vong ở giai đoạn này.
Chẩn đoán
Chẩn đoán phát hiện được nang sán kim thường rất khó do nang sán phát
triển chậm so với các loại u nang khác. Vì vậy, trên thực tế lâm sàng, nang sán kim
thường không phát hiện được kịp thời như trường hợp nang sán kim ở vòm họng
có khi phải mất tới 30 năm sau mới có triệu chứng nặng biểu hiện. Qua kỹ thuật
chụp phim X quang, có thể phát hiện được nang sán sớm. Xét nghiệm máu ghi
nhận bạch cầu ái toan tăng từ 20 đến 25% hoặc chẩn đoán huyết thanh miễn dịch
đặc hiệu sán kim cho kết quả dương tính là những dấu hiệu chỉ điểm, định hướng
quan trọng cho việc chẩn đoán bệnh.



Điều trị
Mặc dù bệnh sán kim
được phát hiện tại nước ta nhưng
đừng lãng quên một loại bệnh ký sinh
khả năng lây nhiễm từ loài chó nhà
chủ phụ ngẫu nhiên.

Echinococcus granulosus ít
ngành y tế cần quan tâm và
trùng ít gặp. Nó có rất nhiều
sang người mặc dù người là vật

Điều trị bệnh sán kim bằng phương pháp phẫu thuật được áp dụng cho
những nang sán có thể mổ được và bóc nguyên cả nang sán. Những trường hợp
nang sán không mổ được thì dùng phương pháp trị liệu sinh học bằng cách tiêm
nhiều lần cho bệnh nhân chất dịch được lấy ra từ các nang sán nước, xem như tiêm
một loại kháng nguyên; dần dần các nang sán ở bệnh nhân sẽ được thu nhỏ lại.
Phòng bệnh
Việc phòng bệnh chủ yếu và có hiệu quả nhất là không cho chó ăn các nang
sán khi giết mổ lợn, cừu, trâu, bò; các nang sán này cần được chôn lấp thật kỹ. Cần
chú ý, giữ gìn vệ sinh khi tiếp xúc, vui đùa với chó. Nếu gia đình nuôi chó nhà, nên
có chế độ chăm sóc cho chó, định kỳ phải khám bệnh phát hiện bệnh sán kim ở chó
và điều trị triệt để bệnh cho chó.
Một điều cộng đồng cần ghi nhớ để phòng bệnh chủ động là mặc dù bệnh
sán kim Echinococcus granulosus ít gặp nhưng nó dễ dàng có khả năng lây nhiễm
từ chó nhà sang người. Khi bị nhiễm bệnh thì việc phát hiện, chẩn đoán sẽ gặp rất
nhiều khó khăn, chậm trễ; việc điều trị cũng khá phức tạp, làm ảnh hưởng đến sức
khỏe, kể cả tính mạng con người.

4. Bệnh giun xoắn:
`
Đặc điểm sinh học. Bệnh do giun xoắn Trichinella spiralis gây nên. Giun
trưởng thành kí sinh trong ruột non của người và động vật. Giun đực nhỏ hơn giun
cái. Cơ thể dài 1,4-4 mm, đường kính 0.04-0.06mm. Giun trưởng thành chui qua
niêm mạc ruột, giao phối, giun cái sinh sản vào tuyến Liebeckun, hạch bạch huyết.
Một giun cái đẻ từ 1.000-10.000 ấu trùng trong kén, xoắn lại như cái vặn nút chai.


Ấu trùng có sức đề kháng cao, có thể tồn tại trong cơ thể lợn 11 năm, cơ thể người
20-30 năm. Sau khi kí chủ chết, ấu trùng vẫn có thể tồn tại trong thịt thối từ 2-4
tháng. Ấu trùng bị tiêu diệt ở 700C. Thịt ướp muối chỉ tiêu diệt được ấu trùng ở bên
ngoài. Người và động vật ăn phải thịt chưa xử lí kỹ, ấu trùng được giải phóng ra
khỏi kén, kí sinh tại ruột non, trở thành giun xoắn trưởng thành. Nguồn chưa ấu
trùng giun xoắn là thịt lợn, chó, mèo, gà, chim,và các loại động vật khác. Ngoài ra,
còn tìm thấy ấu trùng giun xoắn ở các loài côn trùng, hoặc thải ra theo phân lợn,
chuột, các loại động vật có vú khác.
Triệu chứng. Ở người, beenhjn biểu hiện rất nặng, xuất hiện ỉa chảy, nôn,
viêm, đau cơ, khó thở, khó nuốt, viêm não, mê sảng, có thể mù. Ở gia súc biểu hiện
nhẹ hơn, đôi khi không biểu hiện, vì vậy rất nguy hiểm trong việc đề phòng truyền
bệnh.
Phòng và điều trị. Thuốc điều trị có hiệu quả hiện nay là Thiabedazol,
Mebendazol kèm theo truyền máu và thuốc giãn cơ Mydocalm, phòng bệnh với
các biện pháp sau: bỏ thói quen ăn thịt gỏi, thịt tái, nem chua, tiết canh và các loại
thịt chế biến chưa chín khác.
Kiểm tra sát sinh chặt chẽ, phát hiện và xử lí triệt để thịt có ấu trùng giun
xoắn.
Giữ vệ sinh thức ăn, nước uống, tiêu diệt chuột, không để thức ăn, nước
uống nhiễm phân chuột và phân của động vật có vú khác.
5. Bệnh giun đầu gai

Bệnh giun đầu gai
do ký sinh trùng
Gnathostoma ký
sinh ở người gây ra,
đây là một loại ấu
trùng giun tròn.
Phương thức
lây truyền


- Ăn các thực phẩm dễ có nguy cơ mắc bệnh như các món được chế biến từ lươn,
cá, ếch, nhái, tôm...
- Uống nước chứa mầm bệnh còn sống, chưa nấu chín kỹ.
Triệu chứng lâm sàng
- Sốt, nổi mày đay, chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy và đau vùng thượng
vị;
- Đau hạ sườn phải;
- Nổi u cục có kích thước to nhỏ không đều, có thể tạo áp xe dưới;
- Da do ấu trùng kí sinh gây bội nhiễm và gây tử vong khi ấu trùng chui lên và
khu trú ở não.
Chẩn đoán
- Soi trực tiếp tìm ấu trùng giun đầu gai ở các vết loét,
- Xét nghiệm tổng phân tích máu,
- Xét nghiệm ELISA tìm kháng thể kháng giun đầu gai IgG
Phòng bệnh
- Không ăn các thức ăn thủy sản, hải sản như lươn, cá, ếch, nhái, tôm... còn sống
hoặc tái, chưa nấu chín kỹ.
- Uống nước đã đun sôi.
- Chế biến thịt lươn, cá, ếch, nhái, tôm... nên mang găng tay cao su bảo vệ, đề
phòng ấu trùng giun đầu gai có thể chui xuyên qua da.

6. Bệnh giun đũa chó (Toxocara canis), mèo (Toxocara cati)
Do ký sinh trùng của chó, mèo gây ra. Bệnh giun đũa ở chó, mèo ở người
có thể có 3 loại hội chứng: u hạt do ấu trùng, ấu trùng di chuyển nội tạng ở người,
ấu trùng di chuyển ở mắt.
Phương thức lây truyền
- Gián tiếp: tiếp xúc với các con vật bị nhiễm ấu trùng.


- Gián tiếp: ăn các thực phẩm có trứng giun đũa chó nhiễm.
- Trực tiếp: tay tiếp xúc mầm bệnh hay miệng, tả lót,…
Biểu hiện
- Nếu nhiễm trùng nhẹ, ấu trùng có thể lang thang trong gan, phổi,
tim, não, mắt gây tăng bạch cầu, sốt, gan to, viêm phế quản, giả
hen, viêm phổi, viêm cơ tim, động kinh hoặc trì trệ trí tuệ,…
- Nếu chúng di chuyển trong cơ thể người gây ra các triệu chứng
như u hạt do ấu trùng, hội chứng ấu trùng di chuyển trong tạng, Hội
chứng ấu trùng di chuyển trong cơ quan mắt.
Chẩn đoán
- Trên chó và mèo: xét nghiệm phân
- Trên người:
+ Công thức máu, CRP
+ Phương pháp ELISA tìm kháng thể IgG
+ Chụp cắt lớp vi tính (CT-scanner) ổ bụng
Phòng bệnh
- Hạn chế tiếp xúc chó mèo bị nhiễm và môi trường nghi ngờ có bệnh;
- Kiểm tra phân của những chó con hàng tuần và tẩy giun mỗi tháng cho đến khi
phân trở nên âm tính;
- Rửa tay cho trẻ con sau khi chơi ở nơi có cát và vật nuôi.
- Điều trị đặc hiệu bằng Albendazole 500 mg/ngày hoặc Mebendazole 400
mg/ngày, điều trị từ 3 - 4 tuần liền.

7. Bệnh nhiễm giun móc chó, mèo (Ancylostoma caninum, Ancylostoma
braziliense)
Người bị nhiễm mầm bệnh thường do tiếp xúc với đất, cát ở ngoại cảnh của môi
trường sống bị ô nhiễm phân chó, mèo có ấu trùng giai đoạn lây nhiễm được (larva


filariform). Ấu trùng giun chui qua da, thường ở vùng da tay, da chân và di chuyển
ở mô dưới da. Bệnh thường gặp ở những người làm vườn, trẻ em chơi nghịch đất
cát, người đi chơi ngồi ở các bãi biển... Ấu trùng giun có thể tồn tại nhiều tuần, có
khi kéo dài hàng tháng. Trong một số các trường hợp, ấu trùng giun có khả năng
thoát ra thành mạch máu, lên phổi gây hội chứng Loeffler.
Hình 2: Ấu trùng giun di chuyển dưới da
người
Chẩn đoán xác định bệnh thường căn cứ
vào triệu chứng lâm sàng tại chỗ và dấu
hiệu dị ứng toàn thân. Sinh thiết da cho
thấy những u hạt chứa nhiều tế bào bạch
cầu đa nhân ái toan, có thể gặp được ấu trùng nằm giữa u hạt. Xét nghiện bạch
cầu đa nhân ái toan trong máu có thể tăng nhưng không đều.
Điều trị bệnh có thể dùng các loại thuốc chống giun như albendazole,
flubendazole, thiabendazole. Thông thường sử dụng thuốc thiabendazol với liều
lượng 25mg/kg cân nặng mỗi ngày, dùng trong 2 đến 3 ngày và nên kết hợp với
các thuốc chống dị ứng. Có thể điều trị tại chỗ bằng phương pháp đông lạnh ấu
trùng với khí nén freon (cryofluorane) hoặc bằng thuốc mỡ có chứa lindane 1%,
kem hexachlorocyclohexan (HCH) thoa lên đường hầm ấu trùng di chuyển.
8. Bệnh nhiễm sán dải chó, mèo (Dipylidium caninum)
Sán trưởng thành sống trong ruột non của chó, mèo. Đốt sán già theo phân
hoặc bò qua hậu môn ra ngoài. Trứng được phóng thích khi đốt sán co bóp hoặc
khi đốt sán bị tiêu nát. Trứng được phát tán ra môi trường hoặc bám vào lông hay ở
quanh hậu môn chó. Các loài bọ chét như Ctenocephalides canis, Ct. felis, Pulex

irritans nuốt vào ruột, phôi 6 móc sẽ phát triển thành nang ấu trùng có đuôi
(cysticercoid). Trẻ em tình cờ nuốt bọ chét, nang ấu trùng có đuôi trưởng thành ở
ruột non trong vòng 20 ngày. Trẻ em bị bệnh thường không có triệu chứng hoặc rối
loạn tiêu hóa nhẹ. Khi nhiễm nhiều sán, trẻ mệt mỏi, nhức đầu, đau thượng vị,


ngứa hậu môn, tiêu chảy, dị ứng. Chẩn đoán bệnh này dựa trên tìm thấy những đốt
sán hay chùm trứng trong phân. Điều trị bằng Niclosamide và Praziquantel.
9. Trùng bào tử (Toxoplasma gondii): mèo là ký chủ chính và vĩnh viễn
Người chỉ là ký chủ tình cờ của Toxoplasma gondii. Người bị nhiễm do nuốt
phải trứng nang hoặc ăn phải nang giả có trong thịt chưa nấu chín, hoặc trong sữa,
máu, nước tiểu của mèo bị nhiễm. Vào đến ruột của ký chủ, các thoa trùng trong
trứng nang hoặc nang giả được phóng thích để đi ký sinh các tế bào thuộc hệ võng
mô, não, cơ, trở thành những dạng hoạt động mới. Trong tế bào ký chủ, chúng tích
cực sinh sản bằng cách phân đôi cho ra những thế hệ mới, làm tăng nhanh dân số,
đi xâm chiếm tế bào mới, gây nên thể cấp tính. Giai đoạn này gây nguy hiểm cho
thai nhi, nếu người mẹ bị nhiễm T. gondii.

Ở thể nhẹ, bệnh nhân có có các triệu chứng sốt, nổi hạch và mệt mỏi, bệnh
tự khỏi không cần điều trị. Khi bị nhiễm với số lượng lớn, ký sinh trùng tăng sinh
mạnh, gây tổn thương hoại tử khu trú, tiếp theo đó, ký sinh trùng phát tán theo
đường máu gây thể bệnh lan tỏa. Tổn thương thường gặp ở não, mắt, cũng có thể
ở phổi, tim. Viêm não thường nặng, cuối cùng bệnh nhân hôn mê và tử vong. Tùy
thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà chọn lựa phương pháp chẩn đoán thích hợp:
phân lập ký sinh trùng, giải phẫu bệnh lý, thử nghiệm bì, chụp CT não… Điều trị
bệnh Toxoplasma gondii phải bảo đảm nguyên tắc là phải điều trị sớm sau khi
phát hiện sớm. Ba loại thuốc điều trị đặc hiệu có hiệu lực cao là sulfamid với liều
6g trong một ngày, dùng kéo dài 2 tuần; pyrimethamin với liều 100-200mg dùng
cho người lớn trong một ngày, chia làm 3 lần, điều trị một đợt từ 4 đến 6 tuần;
rovamycin với liều 150.000 đến 300.000 UI/kg cân nặng/ngày, kéo dài 1 tháng.

10. Bệnh do vi nấm ngoài da
Hắc lào (tinea ciroinata): chó, mèo bị bệnh hắc lào trên da, lây sang người do
tiếp xúc trong khi vuốt ve hoặc chải lông cho chó hoặc mèo. Sang thương đầu
tiên là sẩn đỏ, ngứa, lan rộng dần ra xung quanh vùng trung tâm lành tạo nên hình


vòng. Những vết thương gần nhau khi lan rộng sẽ hòa vào nhau thành hình đa
vòng.
Nấm má (tinea barbae): thường vết thương ở một bên (phải hay trái), đôi khi ở
cằm. Bệnh nhiễm do hôn hít thú nuôi trong nhà có vi nấm trên lông (T.
mentagrophytes, M.canis ở chó, mèo).

11. Bệnh do các loài ngoại ký sinh
Ve: gây hại cho người vì tạo nên vết thương chỗ ve cắn, gây liệt, truyền vi
trùng, siêu vi trùng và rickettsia.
Bọ chét: là trung gian truyền bệnh dịch hạch. Cơ chế truyền bệnh của bọ
chét là ụa máu có Pasteurella pestis trong khi đốt người.
Rận mu: hay còn gọi là rận lông mu, rận cua, chấy cua, rận bẹn. Rận mu có
tên khoa học là Pthirus pubis, thuộc bộ Anoplura [1] là một loài rận thuộc côn
trùng hút máu không có cánh sống và sinh sản ở vùng lông mu của con người như
vùng da lông mu, vùng sinh dục nhất là ở nam giới, ngoài ra rận mu còn ký sinh
trên mi mắt, lông mày, râu. Rất ít gặp trong tóc. Khi ký sinh trên cơ thể con người,
rận mu là tác nhân gây ra bệnh rận mu hay rận lông mu gây ra triệu chứng ngứa
ngáy ở những vùng nhạy cảm.
Hình thể
Rận mu có kích thước 0,8 - 1,2 mm. Đầu tương đối ngắn và nằm trong một
lõm của ngực. Ngực của rận lớn bề ngang, và dính liền với bụng thành một khối.
Chân có móng dài và khỏe, cong lại



Hình ảnh rận mu trên kính hiển vi của bệnh nhân do khoa Côn trùng cung cấp
Chu kỳ phát triển
Rận sống chủ yếu trên cơ quan sinh dục, trứng dài 0,6 - 0,8mm, dính vào
lông, tóc hay sợi vải nhờ chất keo. Trứng đẻ ra môi trường, thường đẻ trứng ở gốc
lông sau một tuần nở thành ấu trùng, ấu trùng lột xác 3 lần trong vòng hai tuần
thì trưởng thành. Trong suốt cuộc đời rận đẻ khoảng 50 trứng, vòng đời khoảng
một tháng
Đây là loài côn trùng có chu kỳ phát triển nội sinh tức hoàn tất vòng đời
ngay trên cơ thể ký chủ (con người). Rận có chu kỳ phát triển biến thái không
hoàn toàn (tức ấu trùng và con trưởng thành có hình dáng không khác nhau là
mấy). Rận sống được 2 ngày ở 50C không cần ăn và thường gặp ở người ở bẩn, ít
tắm rửa.
Khi nhiệt độ cơ thể tăng (sốt) hay giảm (lúc sắp chết), rận sẽ rời vật chủ, đi
tìm vật chủ khác


Dịch tễ học
Rận hiện diện khắp nơi trên thế giới và người là ký chủ duy nhất. Nơi sống
thích hợp là lông mu. Rận di chuyển rất chậm. Chúng hút máu trong thời gian dài.
Nhiệt độ thích hợp từ 15 - 380C nhưng chết khi quá 400C. Nóng ẩm ở 600C làm
trứng chết sau 15 - 30 phút
Rận thường lây truyền qua giao hợp, nhiễm con trưởng thành, ấu trùng hay
nhiễm trứng; nhiễm qua bàn cầu, khăn tắm, khăn trải giường thì hiếm hơn
Triệu chứng
Bệnh nhân bị rận mu có thể có sốt nhẹ, đau mỏi cơ bắp hoặc nổi hạch cổ,
hạch bẹn. Rận mu gây ảnh hưởng tới các sinh hoạt cá nhân, gây khó chịu, làm
giảm ham muốn tình dục, ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình.
Nếu bị bệnh, có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thấy rận mu hoặc trứng
bám trên vùng có lông, tóc của cơ thể.
Vai trò gây bệnh

Nước bọt gây kích thích, truyền vào người khi rận hút máu, tạo nên một nốt
sần nhô cao kèm theo ngứa nhiều thường là bộ phận sinh dục. Triệu chứng ngứa
thường xảy ra sau 1 hoặc 2 tuần nhiễm bệnh, mức độ nhạy cảm tùy thuộc vào
từng cơ thể. Ngứa gãi làm viêm và bội nhiễm vi trùng, tạo thành mủ, sau đóng
vảy. Nhiễm trùng nặng có thể loét da để lại sẹo chai cứng. Nếu lông mi bị nhiễm
rận, kèm theo nhiễm trùng thứ cấp có thể đưa tới viêm kết mạc mụn rộp và viêm


giác mạc.
Triệu chứng chung của bệnh rận là ngứa ngoài da, mất ngủ, tâm thần ức
chế. Ngứa là triệu chứng xuất hiện sớm và nổi bật. Di chứng của việc gãi như vừa
mô tả.
Người lớn thường bị nhiễm bệnh rận mu nhiều hơn trẻ em và độ tuổi
thường gặp là từ 15-40 tuổi.
Vai trò trung gian truyền bệnh
Rận cho tới nay chưa phát hiện chuyền bệnh gì. Tác hại mà chúng mang lai
đó là các biến chứng và các phiền phức cho người bệnh
Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng ngứa, gãi nhiều và di chứng của gãi là loét da do
nhiễm trùng thứ phát. Tìm trứng, ấu trùng và con trưởng thành.
Chẩn đoán xác định dựa trên soi kính hiển vi xác định trứng, ấu trùng và
con trưởng thành.
Điều trị
Vùng bị nhiễm có thể cạo lông, bôi Pommad Llindane, kem DEP, bôi
Permethrin 5%, 12 giờ sau tắm lại bằng savon. Điều trị liên tục một tuần vì thuốc
không diệt được trứng. Rận ở lông mi, lông mày có thể dùng kẹp gắp ra [2].


Phòng bệnh
Để phòng tránh loài rận này, cách tốt nhất là thường xuyên vệ sinh, tắm rửa

hàng ngày để giữ cho cơ thể sạch sẽ, không cho rận mu môi trường lý tưởng để
ký sinh.
Chú ý quan hệ tình dục an toàn và lành mạnh để tránh lây nhiễm bệnh.
Không nên mặc chung quần áo, không dùng chung chăn, chiếu và khăn tắm,
không quan hệ tình dục bừa bãi, không mặc quần lót chật, nhất là vào mùa nắng
nóng. Vệ sinh cơ thể, đặc biệt là vệ sinh vùng kín sạch sẽ, giữ vùng kín luôn khô
thoáng.
Phương pháp diệt rận hàng loạt ở khu tập thể hay gia đình bằng cách tẩm
hóa chất diệt côn trùng vào chăn, màn, quần áo đem lại hiệu quả cao.
Người dân hay nhân viên y tế đi vào vùng dịch bệnh lưu hành cần mặc
quần áo bảo hộ tẩm hóa chất xua, diệt côn trùng; quần áo trơn láng, bó sát cổ, cổ
tay, cổ chân.
12. Giun đũa, giun kim
- Giun đũa kí sinh ở ruột non của người, hút thức ăn đã được tiêu hóa.
- Giun kim trưởng thành sống kí sinh chủ yếu ở manh tràng, đại tràng.
Người nuốt phải trứng giun thường qua tay bẩn hoặc đồ vật đưa lên miệng.
Biểu hiện
Khi trẻ bị nhiễm giun đũa, giun kim thường có các biểu hiện sau:
- Gai mũi, dặng hắng, khạc nhổ khi có dị vật trong họng, có cơn ho gà.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×