Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề cương quản lý nhà nước vè kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.63 KB, 22 trang )

Đề cương quản lý nhà nước vè kinh tế vĩ mô
Câu 2:
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước
lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài
nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều
kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích
và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực
hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân ( tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng
kinh tế ...).
Qúa trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc đã
định. Những nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp quản
lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh
tế.
Các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần phải
đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản lý
kinh tế. Phương pháp quản lý kinh tế thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tuỳ
thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội
ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước. Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao
gồm :
3.1 Các phương pháp hành chính : Các phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách
tác động trực tiếp bằng các quyết đinhj dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng
và khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình
huống nhất định.
Phương pháp này có hai đặc điểm cơ bản là :
- Tính bắt buộc : các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tacs động hành chính,
nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng.
- Tính quyền lực : các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính
đúng với thẩm quyền của mình.
Vai trò của các phương pháp hành chính là xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống;
khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống; có thể giấu được ý đồ hoạt động và giải


quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng.
Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nằm vững những yêu cầu chặt
chẽ sau :
- Quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận
chứng đầy đủ về mặt kinh tế.


- Khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra
quyết định, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện
tượng trốn tránh trách nhiệm, không sử dụng những quyền hạn được phép.
3.2. Các phương pháp kinh tế : Là phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua các
lợi ích kinh tế để cho đối tượng bị quản lý lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong
phạm vi hoạt động. Các phương pháp kinh tế chính là các phương pháp tác động của Nhà nước
thông qua sụ vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, các định mức kinh tế - kỹ thuật;
tức là về thực chất các phương pháp kinh tế là một biện pháp để sử dụng các quy luật kinh tế.
Đặc điểm của các phương pháp kinh tế là nó tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng
bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt, đưa ra những điều
kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức việc
thực hiện nhiệm vụ.
Việc sử dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn được Nhà nước định hướng, nhằm thực hiện các
nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế từng thời kỳ của đát nước. Nhưng đây không phải là
những nhiệm vụ gò ép, mệnh lệnh chủ quan mà là những mục tiêu, nhiệm vụ có căn cứ khoa học
và cơ sở chủ động. Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng các phương pháp kinh tế theo
những hướng sau :
- Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của hệ
thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từng phân hệ, từng cá nhân của hệ thống.
- Sử dụng các định mức kinh tế ( mức thuế, mức lãi suất ngân hàng v.v...), các biện pháp đòn
bẩy, kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp phát triển
sản xuất theo hướng vừa lợi nhà, vừa ích nước.
- Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước và thu hút được

tiềm năng của Việt kiều cũng như các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Xu hướng chung ngày nay
của các quốc gia là mở rộng việc áp dụng các phương pháp kinh tế.
Để thực hiện hiệu quả phương pháp này cần chú ý đến :
- Hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan hệ thị trường.
- Thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho các
cấp dưới.
- Các cán bộ quản lý phải là những người có trình độ và năng lực về nhiều mặt. Bởi vì sử dụng
phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu biết và thông thạo nhiều loại kiến thức và
kinh nghiệm quản lý đồng thời phải có bản lĩnh tự chủ vững vàng.
3.3. Phương pháp giáo dục : Phương pháp giáo dục trong quản lý Nhà nước về kinh tế là cách
thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng
quản lý Nhà nước về kinh tế, nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ
trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.


Phương pháp giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối tượng của quản lý là con
người - một thực thể năng động và là tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội. Phương pháp giáo
dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý.
Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân biệt phải
- trái, đúng - sai, lợi - hại, đẹp - xấu, thiện - ác, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó
với doanh nghiệp. Phương pháp giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp
khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sát đến từng người lao động, có
tác đông giáo dục rộng rãi trong xã hội.
Nội dung của phương pháp giáo dục bao gồm :
- Giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để mọi người dân đều hiểu, đều ủng hộ
và đều quyết tâm xây dựng đất nước, có ý chí làm giàu.
- Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, có năng suất, có hiệu quả, có tổ chức.
- Xoá bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ nghĩa cá nhân, thu
vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đình, đầu óc thiển cận, hẹp hòi, tư tưởng địa phương, cục bộ, bản
vị, phường hội, bình quân chủ nghĩa, không chịu để ai hơn mình, ghen ghét, đố kị nhau, tác

phong làm việc luộm thuộm, tuỳ tiện, cửa quyền, không biết tiết kiệm thời giờ, thích hội họp.
- Xoá bỏ tàn dư tư tưởng phong kiến, thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, thích đặc
quyền đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm thanh niên, coi thường phụ nữ.
- Xoá bỏ tàn dư tư tưởng tư sản, với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức, chủ
nghĩa tự do vô Chính phủ "cá lớn nuốt cá bé".
- Xây dựng tác phong đại công nghiệp; tính hiệu quả, hiện thực, tính tổ chức, tính kỷ luật, đảm
nhận trách nhiệm, khẩn trương, tiết kiệm.
Các hình thức giáo dục bao gồm : sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, đài
phát thanh, truyền hình...), sử dụng các đoàn thể, các hoạt động có tính xã hội. Tiến hành giáo
dục cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội chợ triển lãm v.v... sử dụng các
doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả v.v...
Như vậy việc sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Tính
khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó để tác động trên
cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật
biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm
năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra. Quản lý kinh tế có hiệu quả nhất khi biết
lựa chọn đúng đắn và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ thuật quản
lý, của Nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.

Câu 3:


Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước
lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài
nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều
kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Về chức năng quản lý kinh tế, nhà nước thực hiện các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô tập trung
với 4 nội dung cơ bản:
Một là nhà nước thực hiện chức năng tạo môi trường đầu tư an toàn, minh bạch, thuận lợi và
bình đẳng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự ổn định

về chính trị, kinh tế, xã hội cho sự phát triển của nền kinh tế, duy trì pháp luật, trật tự an toàn xã
hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế
vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường và xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo
điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường.
Hai là nhà nước thực hiện chức năng định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông
qua chiến lược, kế hoạch, các chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm các nguồn lực, khai
thông quan hệ kinh tế…
Ba là nhà nước thực hiện chức năng hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự
thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Bốn là kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nền kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản
quốc gia, bảo vệ môi trường, trật tự kỷ cương của nền kinh tế. Bốn chức năng này đều có vai trò
quan trọng như nhau và gắn chặt nhau không thể tách rời.
Nội dung chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng việc sử dụng hệ
thống các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô : công cụ luật pháp, công cụ chiến lược chiến lược quy
hoạch, kế hoạch, chương trình mục tiêu và công cụ tài chính, tiền tệ giá cả. Do đó, quá trình đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế gắn với quá trình đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô.
Về công cụ luật pháp, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trên cơ sở luật pháp, các văn bản
dưới luật. Hệ thống pháp luật là chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường, duy trì trật tự kỷ cương kinh tế, điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ
chức trong kinh doanh theo các hướng xác định. Chính vì vậy, pháp luật kinh tế phải rõ ràng,
đồng bộ, thực tế, ổn định và phù hợp với luật pháp kinh tế quốc tế.
Về công cụ chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội : Nhà nước thông qua việc hoạch
định chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp
hoạt động và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng đã lựa chọn.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được xem như là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục
tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế- xã hội, gắn với chọn lọc các phương tiện,
biện pháp chủ yếu để đạt mục tiêu đó. Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho
nền kinh tế và định hướng cho sự vận động của nền kinh tế.



- Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế đồng thời cũng phải thể hiện quan điểm phát triển
nhanh nhưng bền vững, với mục tiêu tăng trưởng GDP dựa trên các giải pháp huy động và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, khắc phục những điểm yếu, phát huy mọi thế mạnh, nắm bắt tốt
những cơ hội và dự đoán mọi thách thức, rủi ro để có những giải pháp ứng phó phù hợp.
Về công cụ các chính sách tài chính - tiền tệ - giá cả : đây là những công cụ chủ yếu của quản lý
kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường bởi lẽ kinh tế thị trường thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì
vậy, Nhà nước cần phải nắm các công cụ này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài
chính, tiền tệ, giá cả để điều tiết thị trường, tác động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển của
nền kinh tế, nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Một số chính
sách quan trọng mà nhà nước sử dụng để quản lý điều tiết nền kinh tế thị trường bao gồm :
- Một là ngân sách Nhà nước : ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc quản lý vĩ
mô toàn bộ nền kinh tế, nó giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô trên các lĩnh vực như : điều tiết thị
trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát, định hướng phát triển sản xuất, hoạt động đầu tư, hoạt
động tài chính, điều chỉnh lĩnh vực thu nhập.
- Hai là chính sách thuế : chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền tài chính quốc gia,
thuế không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực của Nhà nước mà còn giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô.
Thuế là công cụ điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh đúng hướng trên cơ sở Nhà nước sử
dụng chính sách thuế có phân biệt giữa các ngành, nghề, các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau,
chính sách này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ hoặc tạo
sự tác động ngược lại. Thuế là công cụ để điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư khác nhau,
điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế giữa các vùng, các miền để đảm bảo thực hiện chính sách xã hội,
sự phát triển kinh tế - xã hội tương đối đồng đều giữa các vùng, các miền đất nước. Trong điều
kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ điều tiết áp lực cạnh tranh, bảo hộ sản
xuất trong nước, điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và thực hiện chính sách kinh tế mở cửa.
- Ba là chính sách giá cả : quản lý giá cả của thị trường bằng chính sách “giá” là một trong những
nội dung chủ yếu về sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Sự can thiệp này
nhằm các mục tiêu : điều tiết quan hệ cung - cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh

nghiệp, các ngành kinh tế, điều tiết quan hệ cạnh tranh, bảo hộ các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Những mục tiêu trên được thực hiện trên cơ sở Nhà nước xác định chính sách giá cả hợp
lý trong từng thời kỳ, chính sách này bao gồm 3 nội dung cơ bản : định giá trực tiếp, quản lý gián
tiếp, khống chế tổng mức vật giá. Phạm vi hàng hóa do Nhà nước định giá trực tiếp chỉ giới hạn
trong một số ít sản phẩm cơ bản có tính chiến lược hoặc có tính phục vụ xã hội như: than, dầu
mỏ, điện, hàng không, bưu điện…
Tuy nhiên việc Nhà nước định giá trực tiếp cũng không thể đi ngược quy luật cung cầu của thị
trường trong thời gian dài. Hình thức thứ hai là Nhà nước chỉ đạo mức giá (quản lý gián tiếp)
thông qua việc xác định mức giá cao nhất, giá bảo hộ thấp nhất, nhịp độ thả nổi, chênh lệch kinh
doanh…trong giá cả hàng hóa. Hình thức quản lý này đòi hỏi phải điều chỉnh thường xuyên giá
cả chỉ đạo để làm cho nó tiếp cận với giá cả thị trường. Hình thức nhà nước khống chế từng mức
giá cả có mục đích, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức giá cả và biện pháp khống chế từng


mức giá cả là hệ thống các biện pháp như: biện pháp hành chính, biện pháp tài chính, biện pháp
tiền tệ, biện pháp khống chế lương và hối suất…
- Bốn là hệ thống ngân hàng : ngân hàng là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” và được Nhà
nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập môi trường tài chính lành mạnh, phù
hợp với yêu cầu đầu tư, phát triển kinh tế và là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính, tiền
tệ quốc gia. Vai trò đó được thực hiện thông qua việc tổ chức hoạt động ngân hàng hai cấp trong
nền kinh tế thị trường bao gồm : Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Ngân hàng
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung ứng và
điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền. Các ngân hàng thương mại thực hiện chức
năng kinh doanh tiền tệ, thực hiện các dịch vụ tài chính, ngân hàng. Công cụ sử dụng trong hoạt
động ngân hàng là hệ thống luật, văn bản dưới luật, lãi suất, chiết khấu, hệ thống thị trường tài
chính- tiền tệ… Hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp, trong từng điều kiện cụ thể về quy
mô, hiệu quả .. sẽ giữ được vai trò trung tâm tín dụng, trung tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán và
từ đó có thể khống chế, kiểm soát, điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Thực tế nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường mới chỉ ở mức manh nha, tức là còn ở giai đoạn
thấp, sơ khai và còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển; tính cạnh tranh còn kém, sản phẩm còn

nghèo nàn; công tác quản lý nhà nước về kinh tế cũng còn nhiều hạn chế như : công tác dự báo
kém, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi thời kỳ mới, hệ thống pháp luật và cơ chế
chính sách chưa đồng bộ, nhất quán, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá
cả, kế hoạch hóa, thương mại, phân phối, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa thật tốt, chậm
được đổi mới và lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước còn cồng kềnh, kém hiệu quả, năng lực và phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, một bộ phận
cán bộ quản lý tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp... Chính những hạn
chế này là rào cản lớn cho sự phát triển kinh tế .
Câu 11:
1. Đánh giá tăng trưởng kinh tế
1.1. Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng cao và đi dần vào thế ổn định. Sự tham gia của
các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp đã tạo điều kiện cho sản xuất công nghiệp đa
dạng hơn cả về quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, chủng loại và chất lượng sản phẩm. Giá trị
sản xuất công nghiệp đóng góp trong tăng trưởng kinh tế năm 2003 là 10,4% và năm 2004 là
10,2%. Trong đó tốc độ tăng giá trị sản xuất thời kỳ 2001 - 2004 trung bình đạt 15,25%.
1.2. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục phát triển khả quan. Với điều kiện thời tiết khắc
nghiệt, thiên tai, lũ lụt và sự bùng phát của dịch cúm gia cầm kéo dài nhưng sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp và thuỷ sản vẫn tăng trưởng với những con số khả quan. Giá trị sản xuất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản nói chung năm 2004 theo giá so sánh năm 1994 đạt 172,8 nghìn tỷ đồng;
trong đó nông nghiệp đạt 133,2 nghìn tỷ đồng; lâm nghiệp đạt 6,2 nghìn tỷ đồng và thuỷ sản đạt
33,4 nghìn tỷ đồng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân thời kỳ 2001-2004 của ngành là
5,25%. Trong khu vực nông thôn đã từng bước thực hiện đa dạng hoá ngành nghề; nhiều cơ sở
sản xuất công nghiệp sử dụng lao động và vật liệu chỗ được đầu tư phát triển, các loại hình dịch
vụ đi kèm cũng phát triển góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động nông nghiệp - nông thôn, nâng


cao thu nhập và đời sống dân cư nông thôn. Kinh tế nông thôn có nhiều tiến bộ rõ rệt, các hợp
tác xã được thành lập đã và đang hoạt động có hiệu quả, tạo thêm nhiều sản phẩm và dịch vụ cho
đời sống xã hội và xuất khẩu. Hạ tầng nông thôn không ngừng được cải thiện. Nhiều làng nghề
truyền thống được khôi phục và phát triển, thu hút thêm nhiều lao động tạo việc làm và tăng thu

nhập cho dân cư.
1.3. Lĩnh vực dịch vụ đã phát triển tích cực với yêu cầu của nền kinh tế. Thương mại nội địa
được sắp xếp lại tạo điều kiện thuận lợi cho bán buôn, mở rộng phạm vi trao đổi mua bán hàng
hoá với thị trường nông thôn, miền núi. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,... được mở
rộng với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Các hoạt động huy động vốn, cho vay, đặc biệt là tín dụng cho người nghèo phát triển mạnh.
Hoạt động xây dựng đã đạt được trình độ tiên tiến trong khu vực. Nhiều dự án công trình được
thực hiện đáp ứng nhu cầu đô thị hoá và phục vụ dân sinh. Dịch vụ vận tải, du lịch và dịch vụ
bưu chính viễn thông cũng phát triển nhanh, bước đầu đáp ứng cho nền kinh tế và nhu cầu nhân
dân.
1.4. Xuất nhập khẩu duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm
2004 đạt trên 25 tỷ $, tăng nhanh một phần do yếu tố giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực
tăng. Sự phục hồi kinh tế tại một số thị trường lớn ở nước ngoài cũng là một lý do khiến xuất
khẩu hàng hoá của ta tăng mạnh. Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2004 đạt 30 tỷ $, tình
trạng nhập siêu đã có xu hướng giảm dần nhưng vẫn có xu hướng cao. Lượng mặt hàng nguyên
vật liệu chủ yếu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu cũng tăng mạnh để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
xuất khẩu.
2. Những thành tựu đạt được trong xóa đói giảm nghèo nhờ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đã rất
thành công xét về mức giảm nghèo tương ứng với mỗi phần trăm tăng trưởng kinh tế. Năm 2002,
khi GDP theo đầu người tăng 4,9%/năm thì tỷ lệ nghèo giảm 6,1%/năm (chuẩn nghèo 2001), tức
là 1% tăng trưởng trong GDP đầu người tương đương với 1,2% giảm nghèo. Công tác xoá đói
giảm nghèo được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các tỉnh vùng đặc biệt khó khăn, tỷ
lệ hộ nghèo cao và nguy cơ tái nghèo lớn. Phong trào xoá đói giảm nghèo được tuyên truyền sâu
rộng với sự tham gia của toàn xã hội. Theo chuẩn nghèo quốc gia, đến cuối năm 2004, cả nước
còn 1,4 triệu hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn khoảng 8,3%, bình quân mỗi năm giảm
trên 2%. Trong 64 tỉnh, thành phố, có 36 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo dưới 10%, trong đó có 12 tỉnh tỷ
lệ hộ nghèo dưới 5%; có 4 tỉnh có hộ nghèo trên 20%. Từ năm 2001- 2003 trên 11 triệu lượt
người nghèo được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, bình quân 3,66 triệu người/năm. Trên 7 triệu
học sinh được miễn giảm học phí (bình quân 2,33 triệu/năm), trên 4 triệu học sinh được hỗ trợ vở
viết, sách giáo khoa, hỗ trợ học bổng (bình quân 133 triệu/năm). Trên 230 nghìn hộ nghèo được

hỗ trợ về nhà ở, trên 10 nghìn hộ nghèo dân tộc thiểu số được hỗ trợ về sản xuất, tỷ lệ hộ nghèo
dân tộc thiểu số được sử dụng nước sạch, sử dụng điện được nâng cao. Chương trình xoá đói
giảm nghèo đã góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn ở các xã nghèo, xã đặc biệt khó
khăn miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu cả về phát triển kinh tế và xã hội.
3. Những thách thức và bài học kinh nghiệm.
3.1. Những thách thức và khó khăn


* Trong tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực và Thế giới, Việt Nam đang phải đối mặt
với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi chất lượng phát triển còn thấp, hiệu
quả còn hạn chế, sức cạnh tranh kém, mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của ta là nông sản thì
trong những năm gần đây giá cả không ổn định và xu hướng giảm.
* Tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao, phần lớn là những hộ gặp nhiều khó khăn trong việc giảm
nghèo. Đa số người nghèo ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Nghèo đói
không phân bổ đồng đều giữa các vùng, tỷ lệ hộ nghèo đói ở khu vực các xã miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng hải đảo, dân tộc ít người và những vùng thường xuyên hứng chịu thiên tai địch
hoạ còn cao; tình trạng cơ sở hạ tầng của các xã nghèo chậm được cải thiện.
* Những thành tựu giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững, hàm ẩn nguy cơ tái nghèo
cao. Người nghèo vẫn có nguy cơ bị tổn thương cao trước những rủi ro của cuộc sống. Số hộ
nằm ráp ranh chuẩn đói nghèo cao, thu nhập bấp bênh khiến nguy cơ tái nghèo cao.
* Sự chênh lệch thu nhập, mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng,
giữa các tầng lớp dân cư, giữa vùng giàu và vùng nghèo có xu hướng tiếp tục gia tăng. Chênh
lệch cũng có xu hướng tăng trong nội bộ vùng, đặc biệt là trong đô thị.
* Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp trong khi vừa phải phát triển chung của đất nước, vừa
phải đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, trong khi khai thác nguồn lực bên ngoài còn hạn chế. Thị
trường tài chính còn trong giai đoạn hình thành nên khả năng huy động đầu tư còn yếu.
* Nguồn lao động dư thừa còn nhiều, lao động có trình độ còn ở tỷ lệ thấp. Tỷ lệ thất nghiệp ở
khu vực nông thôn còn lớn. Người nghèo có nguy cơ ngày càng nghèo hơn trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập bởi ít có cơ hội hoặc không có cơ hội tham gia vào quá
trình này.

* Các cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo và hỗ trợ cho người tuy đã được thực hiện, song
chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa rõ ràng minh bạch ở một số địa phương và chưa thích ứng với
điều kiện cụ thể của từng vùng, từng nhóm người nghèo, hiệu quả thực hiện còn chưa cao, chưa
tác động mạnh tới người nghèo.
3.2. Những bài học kinh nghiệm
* Những thành tựu đạt được trong thời gian qua là nhờ kinh kinh tế phát triển, tăng trưởng liên
tục, ổn định; đầu tư cho nông nghiệp nông thôn; chính sách ruộng đất phát huy hiệu quả cho
phép thực hiện xoá đói giảm nghèo trên diện rộng, nên đời sống của người nông dân ở nông thôn
- khu vực tập trung đông người nghèo - đã được cải thiện rõ rệt.
* Chương trình xoá đói giảm nghèo đã được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của chính quyền đoàn
thể từ Trung ương đến cơ sở, triển khai thực hiện tích cực, được nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Người nghèo đã bước đầu có nhận thức đúng để vươn lên, biết tận dụng các cơ hội và sử dụng có
hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng tự mình thoát nghèo.
* Các chính sách, cơ chế, giải pháp xoá đói giảm nghèo được thực hiện một cách có hệ thống,
đồng bộ, có mục tiêu mang tầm nhìn chiến lược đã đi vào cuộc sống của người dân tạo những


hiệu ứng tích cực. Tuy nhiên chính sách, cơ chế cần phải được thực hiện một cách linh hoạt theo
điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương.
* Hệ thống tổ chức, cán bộ đã được hình thành và bước đầu hoạt động tốt ở địa phương, đội ngũ
thanh niên tình nguyện đã góp phần tích cực trong quá trình thực hiện Chương trình xoá đói
giảm nghèo. Đã xuất hiện nhiều mô hình xoá đói giảm nghèo có hiệu quả và đã được nhân rộng
và có hiệu ứng lan toả tích cực.
* Đa dạng hoá việc huy động các nguồn lực, trước hết là huy động nguồn lực tại chỗ kết hợp với
sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước; mở rộng hợp tác quốc tế về kinh nghiêm, kỹ thuật, tài chính cho
xoá đói giảm nghèo.
Câu 12:
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên
nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước,
các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện

hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế dược thực hiện thông qua cả ba loại cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà
nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ).
3. Các phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế :
Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích
và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực
hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân ( tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng
kinh tế ...).
Qúa trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc đã
định. Những nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp quản
lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh
tế.
Các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần phải
đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản lý
kinh tế. Phương pháp quản lý kinh tế thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tuỳ
thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội
ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước.
Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm :
-Các phương pháp hành chính : Các phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách
tác động trực tiếp bằng các quyết đinhj dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng
và khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình
huống nhất định.


Phương pháp này có hai đặc điểm cơ bản là :
- Tính bắt buộc : các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tacs động hành chính,
nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng.
- Tính quyền lực : các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính

đúng với thẩm quyền của mình.
Vai trò của các phương pháp hành chính là xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống;
khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống; có thể giấu được ý đồ hoạt động và giải
quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng.
Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nằm vững những yêu cầu chặt
chẽ sau :
- Quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận
chứng đầy đủ về mặt kinh tế.
- Khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra
quyết định, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện
tượng trốn tránh trách nhiệm, không sử dụng những quyền hạn được phép.
3.2. Các phương pháp kinh tế :
Là phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để cho đối tượng bị
quản lý lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động. Các phương
pháp kinh tế chính là các phương pháp tác động của Nhà nước thông qua sụ vận dụng các phạm
trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, các định mức kinh tế - kỹ thuật; tức là về thực chất các phương
pháp kinh tế là một biện pháp để sử dụng các quy luật kinh tế.
Đặc điểm của các phương pháp kinh tế là nó tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng
bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt, đưa ra những điều
kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức việc
thực hiện nhiệm vụ.
Việc sử dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn được Nhà nước định hướng, nhằm thực hiện các
nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế từng thời kỳ của đát nước. Nhưng đây không phải là
những nhiệm vụ gò ép, mệnh lệnh chủ quan mà là những mục tiêu, nhiệm vụ có căn cứ khoa học
và cơ sở chủ động. Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng các phương pháp kinh tế theo
những hướng sau :
- Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của hệ
thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từng phân hệ, từng cá nhân của hệ thống.
- Sử dụng các định mức kinh tế ( mức thuế, mức lãi suất ngân hàng v.v...), các biện pháp đòn bẩy,
kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp phát triển sản

xuất theo hướng vừa lợi nhà, vừa ích nước.


- Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước và thu hút được
tiềm năng của Việt kiều cũng như các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Xu hướng chung ngày nay
của các quốc gia là mở rộng việc áp dụng các phương pháp kinh tế. Để thực hiện hiệu quả
phương pháp này cần chú ý đến :
- Hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan hệ thị trường.
- Thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho các
cấp dưới.
- Các cán bộ quản lý phải là những người có trình độ và năng lực về nhiều mặt. Bởi vì sử dụng
phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu biết và thông thạo nhiều loại kiến thức và
kinh nghiệm quản lý đồng thời phải có bản lĩnh tự chủ vững vàng.
3.3. Phương pháp giáo dục :
Phương pháp giáo dục trong quản lý Nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước
vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng quản lý Nhà nước về kinh tế,
nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao.
Phương pháp giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối tượng của quản lý là con
người - một thực thể năng động và là tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội. Phương pháp giáo
dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý.
Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân biệt phải
- trái, đúng - sai, lợi - hại, đẹp - xấu, thiện - ác, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó
với doanh nghiệp.
Phương pháp giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một cách uyển
chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sát đến từng người lao động, có tác đông giáo dục rộng
rãi trong xã hội. Nội dung của phương pháp giáo dục bao gồm :
- Giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để mọi người dân đều hiểu, đều ủng hộ
và đều quyết tâm xây dựng đất nước, có ý chí làm giàu.
- Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, có năng suất, có hiệu quả, có tổ chức.

- Xoá bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ nghĩa cá nhân, thu
vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đình, đầu óc thiển cận, hẹp hòi, tư tưởng địa phương, cục bộ, bản
vị, phường hội, bình quân chủ nghĩa, không chịu để ai hơn mình, ghen ghét, đố kị nhau, tác
phong làm việc luộm thuộm, tuỳ tiện, cửa quyền, không biết tiết kiệm thời giờ, thích hội họp.
- Xoá bỏ tàn dư tư tưởng phong kiến, thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, thích đặc
quyền đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm thanh niên, coi thường phụ nữ.
- Xoá bỏ tàn dư tư tưởng tư sản, với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức, chủ
nghĩa tự do vô Chính phủ "cá lớn nuốt cá bé".


- Xây dựng tác phong đại công nghiệp; tính hiệu quả, hiện thực, tính tổ chức, tính kỷ luật, đảm
nhận trách nhiệm, khẩn trương, tiết kiệm.
Các hình thức giáo dục bao gồm : sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, đài
phát thanh, truyền hình...), sử dụng các đoàn thể, các hoạt động có tính xã hội. Tiến hành giáo
dục cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội chợ triển lãm v.v... sử dụng các
doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả v.v...
Như vậy việc sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Tính
khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó để tác động trên
cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật
biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm
năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra. Quản lý kinh tế có hiệu quả nhất khi biết
lựa chọn đúng đắn và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ thuật quản
lý, của Nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.
Câu 13:
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế được hiểu là những nhiệm vụ tổng quát mà nhà
nước phải thực hiện để phát huy vai trò và hiệu lực của mình.
1.Chức năng định hướng:
– Định hướng cho sự phát triển kinh tế là việc xác định con đường và hướng dự vận động của
nền kinh tế nhằm đạt đến mục đích ( mục tiêu ) nhất định.Căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội
của đất nước trong từng thời kỳ.

– Chức năng định hướng:
+ Trong nền kinh tế thị trường nhà kinh doanh và tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh thường
chạy theo thị trường một cách bị động, dễ gây ra thua lỗ thất bại và đổ vỡ,gây thiệt hại cho nền
kinh tế.
+ Nhà nước phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế – xã hội đã
được Đảng và nhà nước định ra.Nhà nước định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà
kinh doanh , các tổ chức kinh tế hoạt động định hướng theo mục tiêu chung của đất nước.
+ Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý , cách thức và phương pháp tác động gián tiếp .
2.Chức năng tạo lập môi trường cho sự phát triển
– Môi trường cho sự phát triển kinh tế là tập hợp tất cả các yếu tố , điều kiện tạo nên khung cảnh
tồn tại và phát triển của nền kinh tế.
– Bao gồm các loại môi trường:
+ Môi trường kinh tế, Môi trường pháp lý, Môi trường chính trị , Môi trường văn hóa – xã hội,
Môi trường kỹ thuật, môi trường dân số, môi trường quốc tế
– Nhà nước phải đảm bảo các môi trường cho nền kinh tế phát triển.


– Nhà nước phải làm gì để tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế.
3.Chức năng điều tiết.
– Nhà nước sử dụng quyền năng chi phối của nhà nước lên các hành vi kinh tế của chủ thể trong
nền kinh tế , ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động kinh tế,ràng buộc chúng
phải tuân thủ các quy định đã có sẵn,nhằm bảo đảm sự phát triển bình thường của nền kinh tế.
– Lý do nhà nước điều tiết:
+ Nhà nước phải điều tiết nền kinh tế thị trường.
+ Quá trình phát triển kinh tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố,yếu tố không ổn định do nhiều
nhân tố khách quan tạo nên nhà nước cần phải điều tiết.
+ Nhà nước điều tiết quan hệ kinh tế vĩ mô , điều tiết quan hệ cung cầu,quan hệ lao động sản
xuất , quan hệ phân phối,quan hệ phân bố các nguồn lực.
– Nhà nước phải làm gì để điều tiết chức năng này :
+ Nhà nước phải xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ và thực thi hệ thồng chính sách .Ví dụ :

chính sách tiền tệ,tài chính,thu nhập…
+ Nhà nước bổ sung các hàng hóa khi cần thiết hỗ trợ công dân lập nghiệp.
+ Bổ sung cho thị trường hàng hóa và dịch vụ khi cần thiết.Khi nền kinh tế cần một số mặt hàng
mà tư nhân không cung cấp được.
– Phương thức bổ sung :
+ Bổ sung trực tiếp.
+ Bổ sung gián tiếp nhà nước đóng vai trò tiêu dùng.
4.Chức năng kiểm tra, giám sát.
– Quá trình hoạt động kinh tế luôn diễn ra không bình thường .Do đó thường xuyên kiểm tra
giám sát để phát hiện những nguy cơ tiêu cực để quản lý.
– Nội dung kiểm tra giám sát :
+ Việc thực hiện đường lối chủ trương, chính sách và các kế hoạch, pháp luật.
+ Việc sử dụng các nguồn lực.
+ Việc bảo vệ môi trường.
+ Khai thác tài nguyên, xử lý chất thải.
+ chất lượng sản phẩm và hàng hóa.
Ví dụ:


Vụ án Vinashin là một trong các vụ án kinh tế lớn nhất từ trước tới nay tại Việt Nam, liên quan
tới số tiền thất thoát rất lớn. Một loạt các quan chức của Vinashin bị đưa ra xét xử với tội danh
“cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra
tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Phiên xử vào ngày 27/3 này tại Hải
Phòng.
Cơ chế giám sát hiện hành chưa làm rõ trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước trong hoạt
động giám sát, đánh giá DNNN. Chủ sở hữu thực hiện giám sát chủ yếu qua các báo cáo định kỳ
của doanh nghiệp, nhưng hiện nay lại chưa đủ công cụ để đánh giá tính xác thực của các báo cáo
này.
Thế nên mới có chuyện các tập đoàn như Vinashin, Vinalines, Sông Đà… được xếp hạng A ngay
trước giai đoạn bị đổ vỡ hoặc vi phạm pháp luật. Và trước hàng loạt sai phạm nghiêm trọng tại

các tập đoàn này, đại biểu Quốc hội đã chất vấn gay gắt, song lần lượt Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải – đơn vị chủ quản của hai đơn vị này đều từ chối trách
nhiệm!
Trong 4 – 5 năm qua, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã thành lập các công ty con, công ty
cháu tràn lan để kinh doanh những lĩnh vực nhiều rủi ro như chứng khoán, bất động sản, tài
chính… song các cơ quan giám sát không nắm được thông tin và cũng không kiểm soát được.
Một trong những nguyên nhân là không có hệ thống chỉ tiêu giám sát về vấn đề này”, báo cáo
viết
Câu 14:

Câu 15:
* Tăng trưởng kinh tế ở nước ta có tầm quan trọng hàng đầu không chỉ do nước ta có điểm xuất
phát thấp (kinh tế - kỹ thuật, xã hội ...) đi lên CNXH, phải tăng trưởng nhanh để sớm thoát khỏi
tình trạng kém phát triển, rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, khoa học – công nghệ so với
các nước trong khu vực và thế giới, mà chỉ có tăng trưởng nhanh mới có thể thực hiện được các
mục tiêu phát triển xã hội như, tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư, xóa đói giảm nghèo, phát
triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa ... thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
* Trong gần 25 năm qua (1986-2011), nền kinh tế Việt Nam đã có số tăng trưởng liên tục, tốc độ
cao, khá ấn tượng và rất đáng tự hào. Thể hiện thời kỳ Chiến lược 1991-2000 đạt 7,4%/năm và
thời kỳ 10 năm 2001-2010 đạt 7,2%/năm. Tính từ năm 1976 đến nay, thời gian tăng trưởng liên
tục của nền kinh tế Việt Nam là gần 30 năm, vượt kỷ lục 23 năm của Hàn Quốc.
Nhờ có sự tăng trưởng liên tục và cao trong nhiều năm:
+ Quy mô của nền kinh tế đã lớn lên đáng kể. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo
giá so sánh gấp 2 lần so với năm 2000, theo giá thực tế gấp 3,4 lần. Kim ngạch xuất khẩu tăng
hơn 4 lần/năm 2000. Năm 2010, GDP/người/năm đạt 1.200 USD (năm 1990 là gần 100 USD).


+ Tăng trưởng kinh tế ngay sau khi đổi mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế kéo
dài nhiều năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất đã đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng
nước kém phát triển và bước vào nhóm nước đang phát triển có nhu nhập trung bình thấp theo

xếp hạng của WB.
+ Tăng trưởng kinh tế đã góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc: Lao động, việc làm,
thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, tiến bộ
và công bằng xã hội từng bước được thực hiện ...
+ Nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu, đầy đủ vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều, vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao ...
* Tuy nhiên, nhìn nhận một các khách quan có thể thấy rằng tốc độ phát triển kinh tế chưa thật
tương xứng với tiềm năng và cơ hội mà đất nước đã có được. Tăng trưởng kinh tế trong những
năm qua vẫn chủ yếu theo bề rộng, chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu, chất lượng tăng
trưởng thấp, hiệu quả của tăng trưởng hạn chế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh
nghiệp và sản phẩm hàng hóa còn thấp kém... Cụ thể:
(1) Tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, tăng vốn đầu tư và lao
động rẻ. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ngành tăng trưởng thuần túy dựa vào khai thác, sử
dụng tài nguyên như các ngành nông, lâm, thủy sản, khai thác... luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn
khoảng 30% GDP trong giai đoạn 1991-2009. Động lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp có tỷ lệ chi phí trung gian cao, phụ thuộc vào
nhập khẩu tiêu tốn ngoại tệ, thường gây ô nhiễm môi trường và khu vực dịch vụ chưa có tăng
trưởng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh, nhưng cơ cấu xuất khẩu thay đổi chậm, chủ
yếu là xuất hàng thô, sơ chế, khoáng sản, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu thấp.
(2) Hiệu quả và chất lượng đầu tư thấp (chất lượng tăng trưởng thấp)
+ Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế ngày càng dựa nhiều và vốn
FDI, nhưng nguồn vốn này phân bổ không đều, chất lượng chưa cao và cũng chưa đóng góp
nhiều vào chất lượng tăng trưởng.
+ Đầu tư dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư thấp, nhất
là nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Hiệu quả đầu tư thể hiện ở chỉ số ICOR (tỷ lệ vốn đầu
tư/GDP) có xu hướng tăng cao trong thời kỳ 1991-2009. Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục
thống kê, giai đoạn (1991-1995), bình quân là 3,5; giai đoạn (1996-2000) là 4,8; giai đoạn (20012005): 5,1; trong hai năm 2008, 2009 là 8,0. Chỉ số ICOR cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư
thấp và sụt giảm, năng lực cạnh tranh giảm. Theo khuyến cáo của WB hệ số ICOR 3,0 là hệ số
phản ánh đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững đối với các nước

đang phát triển. Điều muốn nói là ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước
hệ số ICOR rất cao, năm 2009 có thể lên đến 12,0, trong khi đó ICOR chung của nền kinh tế là
8,0.
(3) Những nền tảng cơ bản của tăng trưởng (ổn định kinh tế vĩ mô, thể chế kinh tế - xã hội, giáo
dục và y tế cơ bản, cơ sở hạ tầng) còn nhiều bất cập, năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện.


Các yếu tố đóng góp vào việc gia tăng chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế (chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả các thị trường nhân tố sản xuất: lao động, đất
đai, công nghệ; năng lực đổi mới, sáng tạo công nghệ) còn thiếu và yếu.
Theo Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) khi khảo sát 133 vùng lãnh thổ và quốc gia
thì Việt Nam có chỉ số rất thấp về chất lượng cơ sở hạ tầng (111/133), chất lượng đường sá
(120/133), chất lượng cung cấp điện (103/133), chi phí cho giáo dục cơ sở (103/133), chất lượng
các trường đào tạo và quản lý (11/133).
Theo Báo cáo của WEF về năng lực cạnh tranh toàn cầu, năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ
2001 đến nay hầu như không được cải thiện, thậm chí Việt Nam còn bị tụt hạng về năng lực cạnh
tranh trong năm 2008, 2009. Năm 2009 xếp thứ 75/133 nước tham gia xếp hạng; năm 2008:
70/134 nước. Như vậy năm 2009 năng lực cạnh tranh bị tụt 5 hạng so với năm 2008.
(4) Trên thực tế, việc gắn kết giữa tăng trưởng với tiến bộ, công bằng xã hội còn chưa chặt chẽ.
Tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chưa bền vững, tăng trưởng chưa gắn chặt với giảm nghèo, tăng
trưởng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc: việc làm cho người lao động, phân hóa
giàu nghèo gia tăng, sự chênh lệch về trình độ phát triển, về thu nhập... giữa các vùng, miền ngày
càng lớn, môi trường bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng, tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp
và có xu hướng gia tăng, đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm ...
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010) Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm: ... Phải thực sự coi trọng chất
lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế,
đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô ...
Câu 16:
Chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) là hai công cụ quan trọng
trong điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô của bất kỳ một quốc gia nào. Hai chính sách này tuy

có những chức năng riêng nhưng lại có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau
trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế chung của mỗi quốc gia
tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 đã có những kết quả tích cực, cơ bản hoàn thành được các
mục tiêu đề ra. Các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục phát huy hiệu
quả. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp so với năm 2011. Cán
cân thanh toán quốc tế cải thiện; lãi suất giảm mạnh; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được
đảm bảo; kim ngạch xuất khẩu ước tăng đáng kể so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra; dự trữ ngoại hối
được cải thiện; tỷ giá ổn định. Khó khăn trong sản xuất, kinh doanh từng bước được tháo gỡ và
có chuyển biến tích cực.
Nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế tập trung vào ba lĩnh vực trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư, tái cơ
cấu ngân hàng thương mại và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã và đang được triển
khai tích cực... Những chuyển biến tích cực trên có phần quan trọng là do CSTK và CSTT đã
được ban hành kịp thời, hết sức linh hoạt, đi liền với thực tiễn, đặc biệt là hai chính sách này đã
ăn khớp với nhau hơn...


Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật nêu trên, sự phối hợp của hai chính sách vĩ mô này
vẫn còn nhiều hạn chế, có những lúc còn chưa thực sự nhịp nhàng. Lúc CSTT “thắt” quá chặt,
trong khi CSTK lại mở rộng; có lúc tín dụng mở rất nhanh nhưng đầu tư nhà nước lại mở chậm.
Liều lượng và mức độ sử dụng các công cụ từng thời kỳ, giai đoạn chưa tạo ra sức mạnh kết hợp
tổng thể. Sự phối hợp trong việc hoạch định và thực hiện mục tiêu chính sách ở tầm ngắn hạn và
dài hạn, sự phối hợp trong việc sử dụng các công cụ còn hạn chế.
Thực tế những năm qua, để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, nhiều thời điểm quan điểm nới rộng
cùng lúc đã được cả hai chính sách nói trên áp dụng, triển khai (cho vay tăng trưởng tín dụng
cao, tăng đầu tư công...). Điển hình là năm 2009, “liều thuốc” nói trên đã giúp Việt Nam tăng
trưởng 5,3% và kiềm chế lạm phát ở mức 6,8%.
Tuy nhiên, bước sang năm 2010, trong khi CSTT đã giảm dần mức độ nới lỏng thì CSTK lại
chưa được thắt lại tương ứng, nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2009. Kết
quả là, dù tốc độ tăng trưởng năm 2010 đạt 6,78%, nhưng lạm phát lại tăng tới 11,75% (cao gần
gấp 2 lần so với năm 2009). Năm 2011, mức mục tiêu kìm giữ lạm phát được đặt ra ban đầu là

dưới 7%, thấp hơn nhiều so với mức lạm phát bình quân của 3 năm liền trước đó (12,73%).
Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã buộc phải cắt giảm cung tiền và
tăng trưởng tín dụng một cách đột ngột, gây ra những hệ quả không mong muốn như lãi suất cho
vay và nợ xấu tăng cao, thanh khoản căng thẳng, thị trường chứng khoán suy kiệt, bất động sản
đóng băng. Kết quả, lạm phát năm 2011 tăng vọt lên 18,13%. Bước sang năm 2012, các chỉ tiêu
tăng trưởng được đề ra cơ bản đều đạt được và phù hợp với tình hình thực tiễn, đặc biệt lạm phát
đã trở lại tăng ở mức một con số đúng như mục tiêu ban đầu nhưng tăng trưởng tín dụng lại
không như mong muốn.
Có những thời điểm CSTT và CSTK được điều hành khá độc lập, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng
dẫn đến sự xung đột, triệt tiêu hoặc làm giảm hiệu quả của 1 trong 2 chính sách. Bên cạnh đó,
trong quá trình thực thi chính sách cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp phát sinh trong kết hợp
hai chính sách này đó là sự lựa chọn chính sách và phương thức vận hành. Cụ thể như:
Thứ nhất, CSTK thắt chặt thể hiện ở việc giảm đầu tư công, bên cạnh việc thu hẹp danh mục và
quy mô đầu tư để tái cấu trúc lại đầu tư công đang dẫn đến tình trạng tồn tại nhiều sản phẩm và
công trình hay dự án dở dang. Trong trường hợp Chính phủ không chấp nhận sự phá sản của
ngân hàng, các khoản nợ được tái cơ cấu sẽ do Nhà nước gánh chịu. Điều này vô hình chung sẽ
chuyển các khoản nợ DN thành nợ của Nhà nước và khiến Nhà nước vừa là chủ nợ vừa là con
nợ. DN và ngân hàng có thể đổ gánh nặng và chuyển các loại rủi ro này lên CSTK do Chính phủ
hoạch định.
Thứ hai, với CSTT thắt chặt, các DN tiếp cận nguồn vốn khó khăn, mặc dù cơ chế nới lỏng tín
dụng đã được áp dụng cuối năm 2011, nhưng vẫn chưa được thực hiện triệt để trong thực tế.
Chính sách này làm cho DN trong nước khó mở rộng sản xuất - kinh doanh, tạo khả năng sáp
nhập, mua lại DN trong điều kiện DN nước ngoài có tiềm lực lớn, nguy cơ bị thôn tính và thâu
tóm lớn hơn. Hơn nữa, khi các DN trong nước khó mở rộng thị phần ngay trên thị trường trong
nước thì các DN có vốn đầu tư nước ngoài có thể chớp lấy cơ hội này để mở rộng thị trường, gây


ảnh hưởng và tạo được những nền tảng để phát triển trong chu kỳ tiếp theo. Đây là yếu tố gây
khó khăn không nhỏ đối với các DN trong nước.
Thứ ba, khó khăn khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới với khoản nợ nước ngoài, mặc dù

đang ở mức vừa phải, đòi hỏi ngân sách nhà nước phải gánh chịu khi đồng tiền của các chủ nợ
hay đối tác cung cấp ODA có hoàn lại với lãi suất ưu đãi có xu hướng mạnh lên so với đồng Việt
Nam. Điển hình như năm 2011, Việt Nam tiếp nhận hơn 7 tỷ USD vốn ODA đây là nguồn vốn
quan trọng nhưng cũng đặt ra áp lực trả nợ và những công việc phải xử lý thông qua CSTK dài
hạn. Đây là áp lực lớn đối với CSTK của Việt Nam.
Thứ tư, tính phức tạp của việc phối hợp hai loại chính sách này còn do mức độ đòi hỏi cao trong
liên kết và phối hợp giữa nhiều cơ quan khác nhau trong hoạch định và thực hiện. Những vấn đề
liên quan đến các tham số kinh tế vĩ mô quan trọng. Bên cạnh đó, năng lực phối hợp điều hành
của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như hiệu lực và hiệu năng của chính sách ban hành đang
là những vấn đề cần hoàn thiện.
Thứ năm, bản chất của CSTT là kiểm soát cung tiền hoặc lãi suất nhằm duy trì mức lạm phát
mục tiêu và góp phần tăng trưởng kinh tế. CSTK thực hiện chi tiêu công và phải có trách nhiệm
đảm bảo các khoản chi tiêu đó đem lại hiệu quả bởi cơ chế phân bổ vốn hợp lý, đó là nhân tố
quyết định đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo nền tảng cho CSTT phát huy hiệu lực.
Thiếu điều kiện nền tảng này, các điều tiết mở rộng hay thu hẹp CSTK thực chất không đem lại
kết quả bền vững, ngược lại, CSTT có thể phải gánh cho những vấn đề của CSTK.
Quy mô chi ngân sách cao, tới gần 30% GDP (là mức cao so với thế giới); tỷ trọng chi đầu tư
phát triển ở mức cao, thể hiện mức độ chi phối của Chính phủ vào khu vực sản xuất và phần nào
làm giảm hiệu quả và tính cạnh tranh của khu vực này (đến lượt nó, khả năng tạo ra nguồn thu
cho ngân sách sẽ hạn chế); chi tiêu dàn trải cho nhiều đối tượng, thiếu quy hoạch và chiến lược
chi tiêu trong trung và dài hạn; hiệu quả sử dụng nguồn vốn này còn thấp; vấn đề quản lý và
giám sát chi tiêu còn hạn chế...
Thứ sáu, CSTT và CSTK chưa có có sự phối hợp nhịp nhàng trong việc hoạch định và thực hiện
mục tiêu chính sách ở tầm ngắn hạn và dài hạn. Trong thời gian từ năm 2008 đến nay, cả CSTK
và CSTT đều được vận dụng tối đa cho các yêu cầu ổn định vĩ mô, khôi phục hệ thống DN, đảm
bảo an sinh xã hội. Tuy vậy, các yêu cầu này được thực hiện một cách bị động khi vấn đề đã nảy
sinh và các chính sách được sử dụng để giảm nhẹ hậu quả.
Vì thế, trong quá trình triển khai, mỗi chính sách thường sử dụng công cụ riêng của mình và theo
đuổi các mục tiêu chính sách riêng. CSTT một mặt nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát nhưng vừa
phải duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đôi khi các mục tiêu này lại mâu thuẫn với yêu

cầu tăng trưởng hoặc tháo gỡ khó khăn cho hệ thống DN. CSTK cũng vừa phải thực hiện yêu
cầu kiểm soát hoặc cắt giảm chi tiêu, vừa thực hiện chức năng hỗ trợ các DN, tập đoàn nhà nước,
đảm bảo an sinh xã hội. Vì thế mà rất khó thực hiện yêu cầu cắt giảm chi tiêu cũng như yêu cầu
đảm bảo phân bổ chi tiêu đúng đối tượng và có hiệu quả (bởi các đối tượng tiếp nhận vốn ngân
sách lại thường sử dụng không hiệu quả). Tình trạng này dẫn tới mâu thuẫn và khó khăn trong
việc phối hợp giữa hai chính sách ở Việt Nam.


Trong năm 2012, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng
hơn trong điều hành chính sách, đặc biệt trong phát triển thị trường trái phiếu chính phủ. Việc
Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán phối hợp đưa tín phiếu kho bạc lên giao dịch thành công trên
thị trường thứ cấp đã góp phần tăng quy mô thị trường nợ, tăng tính đồng bộ giữa CSTT và
CSTK.
Thứ bảy, thiếu nền tảng kỹ thuật làm căn cứ cho sự phối hợp chính sách. Nền tảng dự báo những
biến động vĩ mô trên cơ sở nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng trong và ngoài nước là căn cứ
quan trọng cho việc xây dựng mục tiêu, lựa chọn công cụ chính sách và vạch ra lộ trình thực hiện
chính sách. Các thông tin và kết quả dự báo chính xác sẽ giúp kiểm soát độ trễ trong các tác dụng
của từng chính sách, tạo nên sự bình tĩnh, bài bản của các quyết sách, tránh những phản ứng tức
thời gây hệ lụy và sửa chữa sau đó. Hiện nay nền tảng dữ liệu, hệ thống thông tin, kỹ thuật dự
báo, đội ngũ chuyên gia, tư vấn trong dự báo chưa được quan tâm đúng mức. Nguồn lực dự báo
còn yếu và phân tán ở các đơn vị khác nhau. Các kết quả dự báo đôi khi mâu thuẫn và độ tin cậy
chưa được thẩm định.
Thứ tám, việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan chính sách chưa
được thiết lập một cách chính thức. Nhiệm vụ này chưa tạo thành thói quen cho các cơ quan
chính sách ở Việt Nam. Vì thế, thị trường không được cung cấp thông tin đầy đủ và cập nhật.
Các nhà làm chính sách mất đi một kênh triển khai chính sách hiệu quả thông qua kỳ vọng hợp
lý của thị trường. Việc cung cấp thông tin không chính thống cộng với mức độ thấp trong trách
nhiệm giải trình của các cơ quan chính sách còn gây nên sự thiếu tin tưởng của thị trường, đồng
thời không tạo cho các nhà làm chính sách áp lực trong việc xây dựng và cam kết thực hiện mục

tiêu.
Có thể thấy vấn đề bao trùm trong thực tế phối hợp chính sách thời gian qua là ở chỗ: chi tiêu
của Nhà nước đã vượt quá khả năng khai thác nguồn thu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế
khi chỉ số ICOR liên tục tăng theo thời gian. Phần chênh lệch gây áp lực lên hệ thống ngân hàng
và làm sai lệch bản chất hoạt động của hệ thống cũng như giảm hiệu lực của CSTT. Ðiều này
cộng với hệ thống ngân hàng đang trong tình trạng dễ tổn thương, liên kết hệ thống trong tình
trạng rủi ro cao, hoạt động trong bối cảnh thị trường vốn trung dài hạn chưa phát triển, tỷ lệ đòn
cân nợ rủi ro trong cấu trúc vốn của DN đang làm ảnh hưởng sâu sắc tới hiệu lực CSTT cũng
như khả năng phối hợp chính sách
Câu 17:
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng và quản lý
khu vực kinh tế nhà nước mà quan trọng hơn là quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân bao gồm cả
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để quản lý được nền kinh tế quốc dân. Nhà nước
phải thực hiện rất nhiều loạ công việc khác nhau. Những công việc này hình thành nên khái niệm
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế .


Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và
giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước tới nền kinh tế quốc dân. Là tập hợp những nhiệm
vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý nền kinh tế quốc dân.
Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân với tính cchs là
một hệ thống lớn phức tạp. Đó là tổng thể các nghành kinh tế, các vùng, các địa phương cùng các
sở kinh tế của chúng. Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân trên quy mô toàn xã hội việc thực
hiện hàng loạt chức năng, có sự phân biệt với chức năng quản lý sản xuất – kinh doanh của các
sơ sở kinh tế.
Câu 18:

Những thành tựu của kinh tế nông nghiệp khu vực đồng bằng sông Hồng trong hơn hai
thập kỷ qua là kết quả không thể phủ nhận do tác động của chính sách đổi mới trong cơ cấu và

quan hệ sử dụng mang lại. Tuy nhiên, thực trạng ruộng đất cũng như tình hình nông nghiệp, nông
thôn ở khu vực này hiện nay đang đặt ra những vấn đề cần được giải quyết thoả đáng và kịp thời.
1- Tình trạng giảm sút ngày càng nhanh chóng diện tích canh tác đã làm mất dần lợi thế và tiềm
năng phát triển nông nghiệp của vùng châu thổ sông Hồng. Ngoài lí do gia tăng nhanh chóng về
dân số và số hộ nông nghiệp còn có một nguyên nhân khác là sự tác động của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra với tốc độ ngày một nhanh ở khu vực này, với sự xuất hiện
của một loạt các khu công nghiệp như Nomura, Nomtec (Hải Phòng), các khu công nghiệp vừa
và nhỏ dọc theo Quốc lộ 5 thuộc các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, khu công nghiệp Nội Bài, Sài
Đồng (Hà Nội) v.v... Đặc biệt, Hà Nội là địa phương có diện tích đất canh tác giảm mạnh nhất do
quá trình mở rộng nhiều khu đô thị mới như Bắc Linh Đàm, Định Công, Mỹ Đình v.v… cùng
các trục đường cao tốc Hà Nội - Hoà Lạc, Hà Nội - Nội Bài v.v…
Hiện nay, quỹ đất nông nghiệp của đồng bằng sông Hồng chỉ chiếm khoảng 9,5% đất nông
nghiệp của cả nước. Trong khi đó, số hộ nông nghiệp chiếm 23,5%, khẩu chiếm 21% và lao
động nông nghiệp chiếm 19,5% tổng số hộ, khẩu và lao động nông nghiệp của cả nước
Như vậy, chỉ trong vòng 9 năm (1990 - 1998), trung bình hàng năm đất canh tác của châu
thổ sông Hồng giảm 150m2/hộ. Có đến 96% hộ nông dân có diện tích canh tác ở mức thấp, dưới
0,5ha.
Đất nông nghiệp không tăng, trong khi đó số khẩu trung bình hàng năm tăng lên 313.000 người,
khiến bình quân ruộng đất trên đầu người giảm mạnh. Đến năm 1998, bình quân ruộng đất/đầu
người còn 665m2, giảm 195m2 so với năm 1987 (860m2). Ở một số tỉnh như Hưng Yên, Hải
Dương, Nam Định..., con số này còn thấp hơn nhiều, thậm chí có nơi còn dưới 1 sào Bắc bộ ( tức
dưới 360m2/khẩu).
Trước thực trạng đó, nhằm khắc phục mâu thuẫn gay gắt giưã sự gia tăng dân số và sự
giảm sút nhanh chóng diện tích tích gieo trồng, một số địa phương đã kịp thời khuyến khích các
hộ nông dân chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp, hoặc tìm cách chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi và đa dạng hoá các ngành nghề sản xuất. Điển hình cho hướng đi này là trường
hợp của xã Phụng Thượng (Phúc Thọ, Hà Tây) đã chuyển sang nuôi các con vật quý hiếm như:


rắn, ba ba ...; hay ở xã Mễ Sở (Văn Giang, Hưng Yên) nhiều gia đình nông dân đã chuyển từ

trồng lúa sang sản xuất các cây ăn quả và tham gia làm dịch vụ, buôn bán.
2- Vấn đề nan giải thứ hai là tình trạng phân tán và manh mún ruộng đất. Ngoài lý do lịch sử
(ruộng đất ở vùng châu thổ vốn bị xé nhỏ từ thời phong kiến và thuộc địa), nguyên nhân trực tiếp
của tình trạng này là vì chính sách giao khoán ruộng đất theo nguyên tắc bình quân chủ nghĩa,
“có tốt, có xấu, có gần, có xa” dựa trên số nhân khẩu hoặc lao động của mỗi gia đình nhận ruộng.
Mỗi hộ thường phải canh tác trên 10 mảnh ruộng, cá biệt có nơi từ 15-20 mảnh. Điển hình ở xã
Trầm Lộng (huyện ứng Hoà, tỉnh Hà Tây), bình quân mỗi hộ phải canh tác trên 22 thửa ruộng ở
các cánh đồng khác nhau[24].
Thêm vào đó, diện tích các mảnh ruộng cũng rất nhỏ. Cá biệt có những nơi như ở Bắc Giang,
Bắc Ninh, mảnh ruộng rộng nhất đo được không quá 10 thước (khoảng 210m2)[25].Tình trạng
manh mún ruộng đất như trên đã và đang ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của sản xuất và sự phát
triển của kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp. Khắc phục tình trạng đó, một số địa phương bắt
đầu thực hiện biện pháp dồn điền, đổi thửa. Nhưng chế độ phân chia và giao ruộng đất hiện nay
đã làm chậm tiến độ và hạn chế hiệu quả của quá trình này ở các địa phương. Đó là chưa kể cho
đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa có chính sách và hướng dẫn cụ thể để thực hiện giải pháp nói
trên.
3- Bên cạnh đó, hiện tượng tích tụ, tập trung ruộng đất một cách tự do đang có xu hướng gia
tăng.
Mặc dù đây là một xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường hiện nay nhưng quá
trình tích tụ ruộng đất trên thực tế đang làm nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp do quá trình chuyển
nhượng không được thực hiện đúng các quy định do pháp luật quy định. Hầu hết các hộ chuyển
nhượng ruộng đất theo phương thức mua bán trao tay mà không làm thủ tục tại các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Thực trạng trên đòi hỏi chính quyền Nhà nước phải có các biện pháp cụ thể
và kiên quyết hơn nhằm kiểm soát và tiến tới chi phối chiều hướng hoạt động của thị trường đất
đai nói chung, ruộng đất nói riêng, tạo điều kiện cho nền nông nghiệp ở khu vực này và cả nước
tiếp tục phát triển lành mạnh và nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, những biến đổi trong cơ cấu và quan hệ sử dụng ruộng đất là nhân tố đầu tiên và
quan trọng nhất tạo nên sự tăng trưởng nhanh chóng và vững chắc của sản xuất nông nghiệp ở
vùng châu thổ sông Hồng nói riêng, cả nước nói chung trong thời kì đổi mới. Ngoài thành tựu

nổi bật về năng suất và sản lượng lương thực đã đạt được, sự thay đổi trong cơ cấu cây trồng,
vật nuôi cũng như sự phong phú và đa dạng hoá các ngành nghề và hoạt động dịch vụ ở các vùng
nông thôn đều được bắt nguồn và là hệ quả trực tiếp từ những thay đổi trong quan hệ sử dụng
ruộng đất và phương thức quản lý nông nghiệp theo đường hướng đổi mới của Đảng và Nhà
nước Việt Nam từ những năm 1980. Tuy nhiên, thực trạng ruộng đất ở khu vực này đang đặt ra
nhiều vấn đề mới và phức tạp, cần được xem xét và giải quyết kịp thời. Bên cạnh nỗi lo thiếu đất
canh tác và canh tác ngày càng khó khăn trong điều kiện ruộng đất bị chia nhỏ, xu hướng mua
bán và tích tụ ruộng đất một cách tự do, cùng với hiện tượng lợi dụng chiếm đoạt đất công và
tranh chấp ruộng đất đang trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội nhưng vẫn còn bỏ ngỏ. Và
lời giải cho những bài toán đó không phải ở các nhà nông học hay các hộ nông dân, mà trước hết


thuộc về trách nhiệm của các cơ quan xây dựng chính sách và những người thực thi chính sách
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của đất nước.



×