Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ MINH NGỌC

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM (VINAMILK)
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN BÌNH GIANG

HÀ NỘI, 2016

HÀ NỘI - năm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là luận văn của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của
Tiến sỹ Nguyễn Bình Giang. Các kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa
từng đuợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Việc tham khảo các nguồn tài
liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định.
Tác giả luận văn

Đỗ Minh Ngọc


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 ....................................................................................................................6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .......................................................................6
VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ...........6
1.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ................................................................6
1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...............................................13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .........................................................................................25
Chương 2 ..................................................................................................................26
THỰC TRẠNG VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
VINAMILK .............................................................................................................26
2.1. Tổng quan về Vinamilk......................................................................................26
2.2. Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Vinamilk ....................................31
2.3. Thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk ...................................42
2.4. Đánh giá nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk ......................................50
2.5. Đánh giá các nhân tố tác động tới nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk
bằng ma trận SWOT..................................................................................................54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .........................................................................................56
Chương 3 ..................................................................................................................59
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VINAMILK ....59
3.1. Xu thế phát triển của ngành sữa Việt Nam và thế giới ......................................59
3.2. Định hướng của Vinamilk về nâng cao năng lực cạnh tranh .............................65
3.3. Các chiến lược kết hợp .......................................................................................67
3.4. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk .....................................68
3.4. Một số kiến nghị.................................................................................................76
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .........................................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AEC:

ASEAN Economic Community
Cộng đồng kinh tế ASEAN

CIEM:

Central Institute for Economic Management
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

FAO:

Food and Agriculture Organization of the United Nations
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc

FDA:

Food and Drug Administration
Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ

FMCG:

Fast Moving Consumer Goods
Nhóm hàng tiêu dùng nhanh

M&A:

Mergers and acquisitions
Mua bán và sáp nhập


OECD:

Organization for Economic Co-operation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

R&D:

Research & development
Nghiên cứu và phát triển

VINAMILK:

Vietnam Dairy Products Joint Stock Company
Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT

Bảng

1

Bảng 2.1

Các mặt hàng của Vinamilk

27

2


Bảng 2.2

Kết quả hoạt động kinh doanh của Vinamilk

30

3

Bảng 2.3

Bảng cân đối kế toán của Vinamilk

31

4

Bảng 2.4

Cơ cấu lao động phân theo trình độ của Vinamilk

33

5

Bảng 2.5

Danh sách một số nhà cung cấp lớn của Vinamilk

38


6

Bảng 2.6

Dòng sản phẩm của các công ty sữa

39

7

Bảng 2.7

Phân tích điểm mạnh điểm yếu của một số đối thủ cạnh tranh

41

Nội dung

Trang

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

Biểu đồ

Nội dung

Trang


1

Biểu đồ 2.1 Doanh thu của Vinamilk theo phân khúc sản phẩm

34

2

Biểu đồ 2.2 Thị phần sữa bột Việt Nam

50

3

Biểu đồ 2.3 Thị phần sữa nước Việt Nam

51

DANH MỤC CÁC HÌNH
STT

Hình

1

Hình 1.1

Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael E.Porter

17


2

Hình 1.2

Những yếu tố trong phân tích đối thủ cạnh tranh

18

3

Hình 2.1

Mạng lưới phân phối của Vinamilk

27

4

Hình 2.2

Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Vinamilk

29

Nội dung

Trang



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là vấn đề rất quan trọng mang tính quyết
định sự tồn tại của doanh nghiệp. Cạnh tranh vừa là động lực thúc đẩy, vừa là công
cụ đào thải, chọn lựa khắt khe của thị trường đối với các doanh nghiệp. Trong điều
kiện hội nhập, mức độ cạnh tranh thực tế ngày càng cao, các doanh nghiệp làm thế
nào để tồn tại và phát triển, đó là một câu hỏi có nhiều đáp án khác nhau. Tuy
nhiên, mấu chốt nằm ở năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Với năng lực
cạnh tranh tốt sẽ giúp doanh nghiệp đứng vững và vượt qua khó khăn dễ dàng hơn.
Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế quốc tế, điều đó
tạo ra nhiều cơ hội cũng như những thách thức trong cạnh tranh của cả nền kinh tế
nói chung cũng như đối với từng ngành và từng đơn vị sản xuất kinh doanh nói
riêng. Cũng trong những năm qua, Vinamilk đã duy trì được vai trò chủ đạo của
mình trên thị trường trong nước và cạnh tranh có hiệu quả với các hãng sữa nước
ngoài để duy trì vị trí là thương hiệu số 1 Việt Nam trong ngành thực phẩm, tốc độ
tăng trưởng hàng năm ở mức 30%. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, Vinamilk
vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và thế mạnh của mình để thỏa mãn và khai thác
tốt hơn nhu cầu thị trường. Bên cạnh các đối thủ từ các cường quốc như Hà Lan với
nhãn hiệu Dutch Lady, New Zealand với Dumex, Hoa Kỳ với Abbott, Mead
Johnson, Nestle... thị trường sữa Việt Nam còn đón nhận sự tham gia của một loạt
đối thủ cả mới lẫn cũ như Hà Nội Milk, Ba Vì, TH True Milk, Mộc Châu, Nutifood,
Dalatmilk, Lothamilk, Vixumilk, Casmilk... Để vượt qua những thử thách mới, duy
trì và gia tăng vị thế, Vinamilk cần xây dựng một hệ thống thị trường trong nước
phát triển một cách bền vững, đủ năng lực cạnh tranh với các đối thủ mạnh.
Xuất phát từ những vấn đề trên cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng
của việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, học viên đã quyết định chọn vấn đề: “Giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk)” làm
đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh của mình.
1



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh tranh không phải là một chủ đề mới, nó
đã được đề cập khá nhiều từ các công trình nghiên cứu khoa học, các luận văn thạc
sỹ. Một số công trình nghiên cứu mà tác giả được biết như:
- Nguyễn Mỹ Hạnh (2005), “Năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Sữa
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học
Ngoại thương;
- Phạm Minh Tuấn (2005), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ
phần Sữa Việt Nam – Vinamilk”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh.
Các nghiên cứu này đã tiến hành cách đây trên 10 năm khi mà năng lực cạnh
tranh của Vinamilk khác bây giờ và môi trường cạnh tranh của ngành cũng khác
hiện nay.
- Vũ Thu Hà (2014), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần
Sữa Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nghiên cứu này chỉ phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh chứ chưa phân tích
được thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk.
Các nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh khá phong phú, đề cập tới
nhiều nội dung như: các cơ chế chính sách, hệ thống tổ chức, các khía cạnh quản lý,
chất lượng dịch vụ, marketing... nhưng ít có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện về Nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk hoặc tính cập nhật chưa
cao. Những vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu luận văn cần phải trả lời, đó là:
Năng lực cạnh tranh của Vinamilk là gì và được đánh giá theo những tiêu chí nào?
Thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk như thế nào? Những giải
pháp để nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh cho Vinamilk là gì?
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là đánh giá thực trạng nâng cao năng lực

cạnh tranh, tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực cạnh tranh của

2


Vinamilk; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh
của Vinamilk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp;
- Phân tích và đánh giá thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của
Vinamilk;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của Vinamilk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là công tác nâng cao năng lực cạnh
tranh của Vinamilk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tập trung vào nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh tranh
tại các ngành hàng truyền thống, chiếm tỷ trọng chính trong tổng doanh thu của
Vinamilk, đó là các nhóm sản phẩm có nguyên liệu từ sữa.
- Phạm vị không gian: Tại Vinamilk;
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Thu thập số liệu
+ Các nguồn dữ liệu thứ cấp cơ bản: Thu thập số liệu và thông tin từ các
phòng ban chức năng của Vinamilk. Bên cạnh đó, một số thông tin có liên quan
được thu thập thông qua tham khảo các nghiên cứu trước đây mà được đăng tải trên
các ấn phẩm khoa học và các báo cáo trên website của Vinamilk.
Nguồn nội bộ: Các báo cáo chức năng khác nhau trong Công ty (báo cáo về

chi phí, báo cáo về doanh thu, hoạt dộng phân phối chức năng…).
Nguồn bên ngoài: Cơ quan thống kê và quản lý nhà nuớc; Các tổ chức, hiệp
hội; Sách, tạp chí học thuật chuyên ngành; Luận văn, khóa luận, kết quả hội nghị;

3


+ Các phương pháp tìm kiếm dữ liệu thứ cấp: Thư viện, tập hợp những thông
tin tóm tắt từ tạp chí chuyên ngành khác nhau, sử dụng các báo cáo tài chính, báo
cáo thuờng niên của Công ty hay từ các nghiên cứu của các công ty chứng khoán.
- Phương pháp phân tích
+ Sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
+ Trên cơ sở hệ thống hóa các lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, về các nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, luận văn
sẽ xác định khung nội dung của công tác nâng cao năng lực cạnh tranh. Luận văn sẽ
đối chiếu thực tiễn ở Vinamilk với khung nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh để
xem Vinamilk đã thực hiện tốt nội dung nào, đã thực hiện nhưng chưa tốt nội dung
nào, còn chưa thực hiện nội dung nào, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân khiến
Vinamilk chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt một số nội dung. Các nguyên nhân
được phân làm hai loại là nguyên nhân chủ quan (do chính Vinamilk) và nguyên
nhân khách quan (do môi trường ngành và môi trường nền kinh tế chung). Cơ sở lý
luận, nguyên nhân chủ quan và định hướng tương lai của Vinamilk là cơ sở để luận
văn đề xuất các giải pháp cho Vinamilk nâng cao năng lực cạnh tranh hơn nữa. Để
khắc phục các nguyên nhân khách quan cho Vinamilk, luận văn sẽ nêu một số kiến
nghị.
+ Các phương pháp nghiên cứu khác cũng được sử dụng bao gồm phương
pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, mô
hình hóa, đồ thị hóa, kết hợp giữa phương pháp định tính và định lượng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Hệ thống hóa một số vấn đề về lý luận và thực tiễn năng

lực cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Làm rõ yếu tố cấu
thành, mối quan hệ, ảnh hưởng của các yếu tố đến nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
- Về mặt thực tiễn: Tổng hợp và đánh giá đúng thực trạng nâng cao năng lực
cạnh tranh; những tồn tại, hạn chế và hệ thống các yếu tố cấu thành ảnh hưởng đến
nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở phân

4


tích thực trạng, có đầy đủ căn cứ khoa học và điều kiện thực hiện giải pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk hướng đến mục tiêu trung và dài hạn.
7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1. Cở sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Chương 2. Thực trạng về nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk.
Chương 3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa hai hay nhiều đối thủ để giành lấy những
điều kiện có lợi cho mình trong một hoàn cảnh, một không gian xác định. Cạnh
tranh trong kinh tế là sự đấu tranh giữa hai hay nhiều chủ thể hoạt động kinh tế
trong một hoàn cảnh cụ thể để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng những

phương cách khác nhau hay giành lấy sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm
của mình cung cấp.
Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là
doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả
thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa
với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập
cho người lao động và chủ doanh nghiệp”.
Theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh (1998): “Đối với doanh nghiệp,
năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và
vào đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất
và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”.
Theo Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được gắn
kết với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: các giá trị chủ yếu
của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp các
doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình.
Theo Michael Porter, năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo ra những sản
phẩm có quy trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị gia tăng cao, phù hợp với nhu
cầu khách hàng, hoặc sản phẩm có chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng lợi nhuận.
Theo TS.Lê Đăng Doanh: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo
bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận cho doanh nghiệp trong
môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”.
Theo Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2004), năng lực cạnh tranh là việc gia tăng
giá trị nội sinh và ngoại sinh của doanh nghiệp [12, tr.18].
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh
6


tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày
càng cao, bằng việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài

nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát
triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến hiện
nay, theo đó, năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với đối
thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp. Các quan niệm này có thể gặp
trong các công trình nghiên cứu của Mehra (1998), Ramasamy (1995), Buckley
(1991), Schealbach (1989) hay ở trong nước như của Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế Trung ương (CIEM). Cách quan niệm như vậy tương đồng với cách tiếp cận
truyền thống đã nêu trên.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn được coi là khả năng chống chịu
trước sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách năng
lực của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa
và dịch vụ trên thị trường thế giới. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
(CIEM) cho rằng: năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp “không bị
doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh
tranh như vậy mang tính chất định tính, khó có thể định lượng.
Năng lực cạnh tranh có thể đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức
sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu
quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế. Theo M.Porter (1990), năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh
tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu và
nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh còn được xem như là khả năng tạo dựng, duy trì, sử
dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, có khả năng tạo ra
năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra
thu nhập cao và phát triển bền vững.
Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

vẫn chưa được hiểu thống nhất. Trong luận văn này, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp được hiểu là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu
7


thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu
tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
Một cách gọi khác của năng lực cạnh tranh mà chúng ta có thể thấy là “sức
cạnh tranh”. Theo Hoàng Phê (2003), “sức” là từ khả năng hoạt động, làm việc, tác
động hoặc chịu tác động đến đâu [9, tr.878]. Trong Từ điển thuật ngữ chính sách
thương mại (2001): “Sức cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp, hoặc một
ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác đánh bại về kinh tế”.
Sức cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của
đồng nghiệp [11, tr.349]. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh và được
đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế
hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng
loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ
ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh của một doanh
nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng
hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà
không phải trợ cấp. Một trong nhiều những nỗ lực để thống nhất khái niệm này,
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh
tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa nhằm kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành
và quốc gia “Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia,
khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế”.
Có thể thấy thuật ngữ năng lực cạnh tranh và sức cạnh tranh đều có cùng nội
hàm và sau đây chúng tôi sẽ sử dụng chung chúng là thuật ngữ năng lực cạnh tranh.
1.1.2. Đặc điểm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có những đặc điểm sau.
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đưa ra phù hợp với điều
kiện, bối cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh
tế thị trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn
đối thủ cạnh tranh; trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên
cơ sở tối đa hóa số lượng hàng hóa nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể
hiện ở thị phần; còn trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa
với mở rộng “không gian sinh tồn”, doanh nghiệp phải cạnh tranh không gian, cạnh
8


tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do vậy, quan niệm về năng lực cạnh tranh
cũng đang thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện khả năng tranh đua,
tranh giành của các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu
tố sản xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa mà cả khả năng mở rộng không gian sinh
tồn của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện được phương thức
cạnh tranh của doanh nghiệp đó, bao gồm cả những phương thức truyền thống và cả
những phương thức hiện đại không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà còn dựa vào lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không thể không bàn tới
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất cung cấp.
Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thì các hàng hóa dịch vụ do doanh nghiệp
cung cấp phải có năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ
thể hiện năng lực thay thế một sản phẩm dịch vụ khác đồng nhất hoặc khác biệt, có
thể do đặc tính, chất lượng hoặc giá cả sản phẩm dịch vụ đem lại. Năng lực cạnh
tranh của sản phẩm dịch vụ là một yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Trên cùng một thị trường, năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ và

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai khái niệm rất gần với nhau.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ chính là năng lực nắm giữ và
nâng cao thị phần của loại sản phẩm dịch vụ đó so với sản phẩm dịch vụ cùng loại
của một doanh nghiệp khác tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường và trong cùng
thời gian nhất định.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ có thể hiểu là sự vượt trội so với
các sản phẩm dịch vụ cùng loại trên thị trường về chất lượng và giá cả khi các sản
phẩm dịch vụ tham gia cạnh tranh đều đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu
dùng, mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên một đơn vị giá cả.
Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ người ta thường sử
dụng các chỉ tiêu chính như: sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, thị phần. Các chỉ tiêu
này là biểu hiện bên ngoài của năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ cho thấy
kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của sản phẩm dịch vụ. Khi đem
so sánh với đối thủ, chúng thể hiện một cách trực giác sức mạnh tổng thể và vị thế
hiện tại của sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường.

9


Tuy nhiên để phân tích sâu hơn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, xét về
mặt dài hạn và các nhân tố bền vững thì phải phân tích các yếu tố cấu thành năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp
Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh tồn tại như một quy luật kinh tế khách
quan và do vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh luôn được đặt ra đối với các
doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Trên
thị trường ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về tài chính,
công nghệ, quản lý và có sức mạnh thị trường làm cho cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Nâng cao năng lực cạnh tranh là một đòi hỏi cấp bách cho bất kỳ doanh nghiệp
nào, để doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh một cách lành mạnh trên thương trường.

Không những thế, với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện ngay,
việc nâng cao năng lực cạnh tranh ở các doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng
và quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi lẽ suy cho cùng, mục đích
cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là mang lại càng nhiều lợi
nhuận, khi đó việc nâng cao năng lực cạnh tranh tại doanh nghiệp được xem như là
một chiến lược không thể thiếu trong định hướng phát triển và nó góp phần vào việc
hoàn thành mục tiêu của doanh nghiệp.
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển
bền vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao. Các doanh nghiệp cần phải có
các chiến lược và giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm vượt trội so với
các đối thủ. Điều này sẽ giúp quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Nâng cao
năng lực cạnh tranh không chỉ nhằm mục đích là đem lại lợi ích cho doanh nghiệp,
mà còn góp phần vào sự tăng trưởng của ngành và cả quốc gia.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.4.1. Năng lực tài chính
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thể hiện ở các chỉ tiêu lợi nhuận là
cơ sở để xác định năng lực kinh doanh của doanh nghiệp; tiềm lực tài chính với quy
mô, cơ cấu tài sản, nguồn vốn hợp lý với từng ngành hoạt động sản xuất, kinh
doanh, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời tốt... là một trong những yếu tố quan
trọng thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp đánh giá hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính sẵn có để có thể đầu tư đổi mới
công nghệ sản xuất, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh khi cần thiết.

10


Năng lực tài chính thể hiện qua các chỉ tiêu: Cơ cấu tài sản; cơ cấu nguồn vốn; khả
năng thanh toán, các tỷ suất sinh lời...
1.1.4.2. Trình độ công nghệ
Công nghệ là hệ thống quy trình và kĩ thuật chế biến vật chất hoặc thông tin.

Để đầu tư sản xuất kinh doanh, công nghệ có vai trò quyết định. Để sản xuất một
sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và cạnh tranh được trên thị trường phải có
máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến. Ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học kĩ
thuật, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời và được áp dụng ngay vào sản xuất tạo ra
những lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên
tiến. Vì vậy mỗi doanh nghiệp không ngừng phải đổi mới thiết bị công nghệ để sao
cho phù hợp với mỗi doanh nghiệp nhằm tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.1.4.3. Chất lượng nguồn nhân lực
Đây là yếu tố có liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong đó, đối với người công nhân, chất lượng lao động (được thể
hiện ở khả năng tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ) quyết định chất lượng sản phẩm,
còn đối với cán bộ quản lý, chất lượng lao động (được thể hiện ở trình độ tổ chức
quản lý, điều hành công việc) quyết định hiệu quả công việc, khả năng tiết giảm chi
phí, cắt giảm giá thành sản phẩm.
1.1.4.4. Năng lực quản trị
Ban lãnh đạo của doanh nghiệp: bộ phận đầu não của doanh nghiệp, nơi xây
dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp, đề ra mục tiêu đồng thời giám sát
kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Trình độ quản lý, kinh doanh của ban
lãnh đạo ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ phát huy được
trí tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, phát huy tinh thần đoàn kết và
sức mạnh tập thể đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh
được nhanh chóng và chính xác, tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải
quyết những vấn đề nảy sinh, đối phó được với những biến động của môi trường
kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Đội ngũ cán bộ: Đóng vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp trên thương trường bởi vì đội ngũ cán bộ, lao động là những người
trực tiếp thực hiện nghiệp vụ chuyên môn.

11



1.1.4.5. Năng lực nghiên cứu và phát triển
Đổi mới được hiểu là sự thay đổi, cải tiến bất kỳ cái gì trong cách thức mà
doanh nghiệp hoạt động cũng như trong sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp sản
xuất và cung ứng. Đổi mới bao gồm sự cải tiến và sáng tạo mới các sản phẩm, quá
trình sản xuất, cơ cấu tổ chức quản lý và sản xuất - kinh doanh, các chiến lược. Điều
này thể hiện được tính linh hoạt và năng động của doanh nghiệp thích ứng với điều
kiện môi trường kinh doanh
Đổi mới có thể coi là lợi thế quan trọng nhất tạo nên lợi thế cạnh tranh và từ
đó tạo nên khả năng của doanh nghiệp. Nếu đổi mới thành công thì doanh nghiệp sẽ
tạo ra những nét độc đáo, khác biệt mà các đối thủ cạnh tranh không có. Từ đó giúp
tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm của doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp đồng thời tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp
1.1.4.6. Năng lực marketing
Các doanh nghiệp đang phải đối đầu với một cuộc canh tranh khốc liệt trên
thị trường. Do đó, việc nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường cũng chính là lẽ sinh
tồn của các doanh nghiệp. Để nâng cao sức canh tranh, bên cạnh các yếu tố chính
như giá cả, chất lượng thì chính sách marketing rất được coi trọng đặt biệt trong giai
đoạn hiện nay.
Marketing là tổng thể các hoạt động của doanh nghiệp hướng tới thoả mãn,
gợi mở những nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường để đạt mục tiêu lợi
nhuận. Các chính sách marketing giúp nâng cao thế lực của doanh nghiệp trước các
đối thủ cạnh tranh, marketing giúp các doanh nghiệp quảng cáo các sản phẩm của
mình cho nhiều người biết đến, biện pháp marketing giúp cho các doanh nghiệp
nâng cao uy tín của mình bằng quảng cáo, xúc tiến bán hàng, giới thiệu cho ngưòi
tiêu dùng biết chất lượng, giá cả và những lợi thế sản phẩm của mình so với các đối
thủ cạnh tranh khác.
1.1.4.7. Mạng lưới phân phối, thị trường tiêu thụ
Mạng lưới phân phối đảm bảo hợp lý, đáp ứng được cho việc thực hiện thị

trường mục tiêu của doanh nghiệp. Trong đó, thể hiện cho thấy phần thị trường tiêu
thụ của doanh nghiệp hiện tham gia vào ngành đang nắm giữ trong mối tương quan
với các đối thủ cạnh tranh. Tiêu chí này phản ánh thực trạng năng lực cạnh tranh
hiện tại của doanh nghiệp, qua đó, có thể xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị
trường so với đối thủ cạnh tranh.

12


1.1.4.8. Hình ảnh thương hiệu
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, để trở thành một doanh nghiệp có
sức cạnh tranh trên thương trường, công việc đầu tiên bao giờ cũng cần có thương
hiệu mạnh. Tuy nhiên, để xây dựng một thương hiệu mạnh thì điều này không dễ
dàng. Cần có sản phẩm tốt không đơn thuần là có chất lượng cao mà đòi hỏi các sản
phẩm phải đa dạng về mẫu mã, màu sắc, luôn cải tiến để gây ấn tượng tốt cho khách
hàng, sản phẩm còn phải mang nét đặc trưng văn hóa và đáp ứng tốt nhu cầu thị
trường, tạo sự khác biệt so với các doanh nghiệp khác. Đạt đến điều này sẽ tạo cho
doanh nghiệp một lợi thế cạnh tranh rất mạnh của doanh nghiệp mà các doanh
nghiệp khác không thể bắt chước được.
1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Các phương pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nâng cao năng lực cạnh tranh là một hoạt động nhằm thúc đẩy một doanh
nghiệp nào đó nào đó phát triển ở một mức độ cao hơn bằng một hệ thống các
phương pháp có cơ sở khoa học qua đó tạo ra các ưu thế nhất định trong hoạt động
sản xuất kinh doanh trên thị trường hướng tới việc đạt các mục tiêu kinh doanh. Có
thể nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng các phương pháp sau đây.
1.2.1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Về nguyên tắc, sản phẩm chỉ có thể tồn tại trên thị trường khi có cầu về sản
phẩm đó. Muốn sản phẩm tiêu thụ được, doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường
để đưa ra những sản phẩm mà người tiêu dùng ưa chuộng. Ở đây có một số lưu ý:

Thứ nhất, ngày nay các sản phẩm nói chung có vòng đời tương đối ngắn, kể
cả các vật phẩm tiêu dùng lâu bền như các đồ dùng gỗ, điện tử, phương tiện đi lại…
Người tiêu dùng luôn đòi hỏi sản phẩm phải có thêm nhiều chức năng mới, hình
dáng, mẫu mã đẹp hơn và thay đổi theo thị hiếu, mức thu nhập, điều kiện sống…
Do đó, doanh nghiệp phải có sản phẩm mới để cung cấp, cũng như phải thường
xuyên cải tiến sản phẩm cũ cho phù hợp với yêu cầu mới của người tiêu dùng. Để
làm được, doanh nghiệp phải chi phí nhiều tiền của, thời gian và công sức để nắm
bắt xu hướng thay đổi nhu cầu của thị trường. Công đoạn này trong doanh nghiệp
thường được gọi là giai đoạn thiết kế và nó cũng góp phần tạo ra nhiều giá trị gia
tăng cho doanh nghiệp. Ở các nước lạc hậu, khả năng thiết kế còn ở trình độ thấp,
các doanh nghiệp có thể mua, thuê bản quyền thiết kế của các doanh nghiệp tiên
tiến hơn theo các hình thức chuyển giao công nghệ hoặc gia công. Để góp phần tạo
nên sức cạnh tranh cho sản phẩm, việc mua bản quyền thiết kế có lợi hơn thuê, nhất
13


là khi doanh nghiệp có khả năng cải tiến thiết kế đó để mang lại bản sắc riêng có
của doanh nghiệp. Những sáng tạo thêm sẽ tạo cho sản phẩm của doanh nghiệp một
thị trường độc quyền nhờ tính khác biệt của sản phẩm.
Thứ hai, áp dụng các công nghệ phù hợp, vừa bảo đảm tạo ra các sản phẩm
có chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường, vừa có chi phí sản xuất thấp. Cách
thức để doanh nghiệp có thể làm chủ loại công nghệ đó là:
- Doanh nghiệp luôn là đơn vị đi đầu trong nghiên cứu, phát minh công nghệ
của ngành. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có các cơ sở nghiên cứu mạnh về thiết bị,
về nhân lực có trình độ phát minh cao và triển khai nghiên cứu hiệu quả. Hoạt động
phát minh đòi hỏi chi phí tốn kém và có độ rủi ro cao nên các doanh nghiệp có quy
mô lớn và tiềm lực tài chính mạnh mới có tính khả thi cao.
- Doanh nghiệp có khả năng chuyển giao công nghệ từ tổ chức khác và cải
tiến để nó trở thành công nghệ đứng đầu. Đây là con đường thích hợp với mọi loại
hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, để chuyển giao công nghệ hiệu quả, doanh nghiệp

phải có kinh nghiệm và kỹ năng hoạt động trên thị trường công nghệ thế giới, có đội
ngũ người lao động sáng tạo và có môi trường doanh nghiệp khuyến khích sáng tạo.
Thứ ba, là cách thức bao gói sản phẩm thuận tiện và khả năng giao hàng linh
hoạt, đúng hạn. Trong môi trường cạnh tranh hiện đại, mức độ tiện lợi trong mua,
bảo quản, sử dụng sản phẩm trở thành tiêu chuẩn rất quan trọng để người tiêu dùng
lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp. Vì thế, nghiên cứu tìm ra quy mô bao gói
thuận tiện trong quá trình sử dụng, tìm ra cách thức bao gói không những đáp ứng
yêu cầu vệ sinh mà còn có giá trị thẩm mỹ cao, phù hợp với thị hiếu của khách
hàng. Ngoài ra, trong xã hội hiện đại, thời gian là vốn quý của người tiêu dùng, nếu
được thỏa mãn đúng lúc thì lợi ích thu được từ sản phẩm sẽ lớn hơn, sức hấp dẫn
của sản phẩm tăng lên. Ngày nay, các doanh nghiệp đều tìm các phương thức giao
hàng tiện lợi, thoải mái, tốn ít thời gian và đặc biệt là đúng hẹn cho sản phẩm của
mình. Thương mại điện tử, hệ thống giao hàng tại nhà theo đặt hàng điện thoại, thiết
lập mạng lưới tiêu thụ hiệu quả… là những cách thức giúp doanh nghiệp phục vụ và
giữ khách hàng hiệu quả.
1.2.1.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào sức
cạnh tranh của sản phẩm. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao hơn,
giá cả thấp hơn, dịch vụ bán hàng tiện lợi hơn so với các đối thủ khác thì doanh
nghiệp sẽ giành được thị phần xứng đáng. Tuy nhiên, thực tế, khách hàng có thể
14


mua hàng hóa ở cửa hàng gần nhà, thích tiêu dùng sản phẩm mà họ đã trải nghiệm
là phù hợp, tiêu dùng loại sản phẩm mà họ hiểu biết nhiều, hoặc ưu tiên mua hàng ở
các cửa hàng sang trọng… Để tiêu thụ hết số lượng sản phẩm tối ưu của mình, các
doanh nghiệp phải tìm cách tận dụng các sở thích tiêu dùng của khách hàng thông
qua hoạt động chiếm lĩnh các điểm bán hàng tối ưu, thông qua quảng cáo sản phẩm
đến nhiều người tiêu dùng nhất, giới thiệu sản phẩm để khách hàng dùng thử, đa
dạng hóa chất lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm và chi phí bán hàng để tận dụng hết

các phân đoạn thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp còn kết hợp với các doanh nghiệp
khác thông qua hệ thống đại lý, liên doanh, mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở
những nơi có nhu cầu để mở rộng tối đa thị phần cho sản phẩm của mình.
1.2.1.3. Tăng năng lực của doanh nghiệp trên các phương diện tài chính, công
nghệ, nhân lực, quản lý
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp do chính sức mạnh về tài chính, công nghệ,
nhân lực và khả năng quyết sách đúng, linh hoạt của doanh nghiệp quy định. Ngày
nay, sức mạnh tài chính của doanh nghiệp không chỉ do tiềm lực tài chính của chủ
sở hữu doanh nghiệp quy định mà ở mức độ lớn hơn, do uy tín của doanh nghiệp
đối với các tổ chức tài chính, ngân hàng quy định. Nếu có uy tín, doanh nghiệp có
thể tìm kiếm các nguồn tài chính lớn tài trợ cho các dự án hiệu quả của mình. Nếu
không, để vay được vốn, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện khắt khe, hoặc
huy động được ít, hoặc lãi suất huy động cao. Trên thị trường tài chính, uy tín của
doanh nghiệp do quy mô tài sản, do truyền thống làm ăn đứng đắn và hiệu quả, do
các quan hệ đối tác lành mạnh… quy định. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh
nghiệp phải xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh chân chính, hiệu quả, lâu dài
và luôn giữ gìn uy tín doanh nghiệp như tài sản vô giá của doanh nghiệp.
Để có đội ngũ người lao động có tay nghề cao, doanh nghiệp phải có chiến
lược đào tạo và giữ người tài. Trong xã hội hiện đại đào tạo nguồn nhân lực, nhà
nước và người lao động có vai trò quyết định. Để nâng cao năng suất lao động và
tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược đào
tạo nghiệp vụ chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu của mình. Do đó, chương trình đào
tạo, kế hoạch đào tạo hiệu quả chính là một trong những phương thức mà doanh
nghiệp sử dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, doanh nghiệp cần chú
trọng xây dựng chính sách đãi ngộ như chính sách lương, thưởng hợp lý để giữ ổn
định lực lượng lao động của mình, nhất là những lao động giỏi.

15



Về phần công nghệ, nếu doanh nghiệp giữ bản quyền sáng chế hoặc có bí
quyết riêng thì thị trường sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có tính độc quyền hợp
pháp. Do đó, năng lực nghiên cứu phát minh và các phương thức giữ gìn bí quyết là
yếu tố quan trọng tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngày nay, các doanh
nghiệp đều có xu hướng thành lập các phòng thí nghiệm, nghiên cứu ngay tại doanh
nghiệp; đề ra các chính sách hấp dẫn để thu hút người tài làm việc cho doanh
nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp tạo môi trường thuận lợi cho từng người lao động
phát huy sáng kiến cá nhân trong công việc của họ.
Ngày nay, thị trường nhân lực quản lý cao cấp đã hình thành, nhưng nhân lực
quản lý giỏi có tình trạng cung ít hơn cầu. Vì thế, bản thân doanh nghiệp phải tự tìm
kiếm và đào tạo nhân lực quản lý cho chính mình. Muốn có được đội ngũ nhân lực
quản lý tài giỏi và trung thành, ngoài yếu tố chính sách đãi ngộ, doanh nghiệp phải
định hình rõ triết lý dùng người, phải trao quyền chủ động cho các cấp và phải thiết
lập được cơ cấu tổ chức đủ độ linh hoạt, thích nghi cao với sự thay đổi. Tổng hợp
các năng lực tài chính, nhân sự và công nghệ là tỷ lệ và quy mô sinh lợi của doanh
nghiệp. Nếu cả hai tiêu chí tỷ suất và khối lượng lợi nhuận đều khả quan thì doanh
nghiệp có thêm sức mạnh tiềm tàng để hạ giá, chia sẻ lợi nhuận cho đối tác, đầu tư
cho nghiên cứu, tiếp thị… gián tiếp làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2. Yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.2.1. Yếu tố môi trường vĩ mô
a) Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế luôn chứa dựng những cơ hội và đe dọa khác nhau đối với
từng doanh nghiệp trong các ngành khác nhau và có ảnh hưởng tiềm tàng đến các
chiến lược của doanh nghiệp. Yếu tố kinh tế được thể hiện đặc trưng bởi các biến số
cơ bản như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ lạm
phát, lãi suất, tỉ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế, hệ thống thuế, các biến
động trên thị trường chứng khoán, thất nghiệp, đầu tư nước ngoài...
b) Yếu tố chính trị và pháp luật
Hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của Chính phủ, hệ thống luật
pháp hiện hành, các xu hướng ngoại giao của Chính phủ và những diễn biến chính

trị trong nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự ổn định hay không về chế độ
chính trị, hệ thống pháp luật và các chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ… tác
động đến việc hoạch định chiến lược và chương trình hành động của doanh nghiệp
nhằm nắm bắt cơ hội và giảm thiểu nguy cơ xảy ra, tạo ra môi trường thuận lợi cho
16


hoạt động của doanh nghiệp.
c) Yếu tố văn hóa - xã hội
Gồm những chuẩn mực, giá trị, trình độ dân trí, phong tục tập quán, thói
quen tiêu dùng, dân số, tỷ lệ tăng dân số, nghề nghiệp và phân phối thu nhập, tuổi
thọ và tỉ lệ sinh tự nhiên và sự phân bố dân cư. Sự thay đổi của các yếu tố văn hóa –
xã hội có thể tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp, do đó,
cần phải thường xuyên nắm bắt những thay đổi trong môi trường văn hóa – xã hội
để có những phản ứng kịp thời trước đối thủ cạnh tranh.
d) Yếu tố tự nhiên
Những tác động của thiên nhiên có ảnh hưởng lớn đến các quyết định kinh
doanh của các doanh nghiệp. Chính quyền ngày càng quan tâm đến vấn đề ô nhiễm
môi trường, thiếu năng lượng và sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra, khách hàng đặc biệt quan tâm đến sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên,
những sản phẩm thỏa mãn các điều kiện môi trường trong quá trình sản xuất.
Yếu tố tự nhiên có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khi
đầu tư nhà quản trị nào biết tận dụng kịp thời lợi thế của các yếu tố tự nhiên và
tránh những thiệt hại do tác hại của các yếu tố này gây ra sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh
hơn các đối thủ trong ngành.
đ) Yếu tố khoa học công nghệ
Ngày càng có nhiều công nghệ và kỹ thuật mới ra đời, tạo ra các cơ hội cũng
như nguy cơ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải xem xét công nghệ
và kỹ thuật mà mình đang sử dụng có bị lạc hậu không. Việc áp dụng công nghệ và
kỹ thuật mới hiệu quả thường tạo ra áp lực lớn cho doanh nghiệp đang ở giai đoạn

phát triển ban đầu hơn là doanh nghiệp lớn đã hoạt động lâu năm. Vì vậy, việc triển
khai công nghệ phải ổn định tương đối và phải phù hợp với khả năng của doanh
nghiệp và thời gian sử dụng công nghệ.
Yếu tố công nghệ được xem là yếu tố rất năng động, hàm chứa nhiều cơ hội và
đe dọa đối với doanh nghiệp. Áp lực và đe dọa của yếu tố công nghệ như: công nghệ
mới làm xuất hiện các sản phẩm thay thế đe dọa các sản phẩm truyền thống của ngành
hiện hữu; sự phát triển của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện hữu bị lỗi thời tạo
áp lực đổi mới công nghệ lên doanh nghiệp nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho những
người mới xâm nhập ngành; sự bùng nổ của công nghệ mới làm rút ngắn vòng đời
công nghệ tạo áp lực rút ngắn thời gian khấu hao so với trước đây. Bên cạnh những đe
dọa thì sự phát triển của công nghệ cũng tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp trong việc tạo
17


ra sản phẩm chất lượng hơn, giá rẻ hơn làm tăng khả năng cạnh tranh, đồng thời cũng
có thể tạo ra thị trường mới cho sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp.
Các yếu tố trong môi trường vĩ mô có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn
nhau, vì thế, để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần xem xét trong
mối quan hệ tổng thể, từ đó, tiên đoán, dự báo và xây dựng các chính sách phát triển
của doanh nghiệp cho phù hợp.
1.2.2.2. Môi trường ngành

Hình 1.1: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael E. Porter [18, tr.48]
Môi trường vi mô bao gồm các yếu tố trong ngành và các yếu tố ngoại cảnh
đối với doanh nghiệp. Nó quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành
sản xuất kinh doanh đó. Có năm yếu tố cơ bản trong môi trường vi mô cần phân
tích là: đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung ứng, đối thủ tiềm ẩn mới và sản
phẩm thay thế, như sau.
a) Đối thủ cạnh tranh trong ngành
Là những doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm có chức năng tương đương

và sẵn sàng thay thế nên việc nghiên cứu về đối thủ cạnh tranh là quan trọng cho
một doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cạnh tranh xác định bản chất và mức độ cạnh
tranh trong kinh doanh hay dùng những thủ đoạn để giữ vững vị trí. Những doanh
nghiệp cũng phải nhận ra rằng sự cạnh tranh không ổn định. Ví dụ, những ngành
trưởng thành thường gặp sự cạnh tranh lớn khi tốc độ tăng trưởng giảm sút. Những
18


doanh nghiệp cạnh tranh mới cải tiến kỹ thuật thường thay đổi mức độ và bản chất
cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải phân tích mỗi đối thủ cạnh tranh để có được hiểu
biết về những hành động và đáp ứng của họ.
Doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích, đánh giá những điểm mạnh,
điểm yếu của đối thủ để xác định vị thế của mình, từ đó, xây dựng các chiến lược
kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh so với đối thủ.

Hình 1.2: Những yếu tố trong phân tích đối thủ cạnh tranh [18, tr.49]
b) Khách hàng
Đây là một phần của doanh nghiệp, khách hàng người mua sản phẩm, dịch
vụ của doanh nghiệp, có được khách hàng trung thành là một lợi thế lớn của doanh
nghiệp. Sự trung thành của khách hàng được tạo dựng bởi sự thỏa mãn những nhu
cầu của khách hàng và mong muốn làm tốt hơn. Các doanh nghiệp cần lập bảng
phân loại các khách hàng hiện tại và tương lai. Các thông tin thu được từ bảng phân
loại này là cơ sở định hướng quan trọng cho việc hoạch định kế hoạch nhất là các kế
hoạch liên quan trực tiếp đến marketing để nâng cao năng lực cạnh tranh.
c) Nhà cung ứng
Nhà cung ứng là những công ty kinh doanh và những người cá thể cung cấp
cho công ty và các đối thủ cạnh tranh các nguồn vật tư cần thiết để sản xuất ra
những mặt hàng cụ thể hay dịch vụ nhất định. Các nhà cung cấp có thể gây một áp
lực mạnh trong hoạt động của một doanh nghiệp. Việc nghiên cứu để hiểu biết về
19



những người cung cấp các nguồn lực cho doanh nghiệp là không thể bỏ qua trong
quá trình nghiên cứu môi trường. Đây là nhân tố có tác động rất lớn đến hoạt động
doanh nghiệp, là nguồn đầu vào góp phần tạo nên sản phẩm có chất lượng.
d) Các đối thủ tiềm năng
Đối thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với
mong muốn giành được thị phần và các nguồn lực cần thiết. Mặc dù không phải bao
giờ doanh nghiệp cũng gặp phải đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn mới, nhưng các doanh
nghiệp cần đề phòng, nếu có thì cần các biện pháp để phòng chống.
đ) Sản phẩm thay thế
Sức ép do có sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành
do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới các sản phẩm thay thế tiềm
ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại với các thị trường nhỏ bé. Vì vậy, các doanh
nghiệp cần không ngừng nghiên cứu và kiểm tra các mặt hàng thay thế tiềm ẩn.
Phần lớn sản phẩm thay thế mới là kết quả của cuộc bùng nổ công nghệ. Muốn đạt
được thành công, các doanh nghiệp cần chú ý và dành nguồn lực để phát triển hoặc
vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.
1.2.2.3. Môi trường doanh nghiệp
a) Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Lao động là lực lượng sử dụng công nghệ, điều khiển thiết bị sản xuất ra sản
phẩm hàng hóa. Thêm vào đó, lao động còn là lực lượng tham gia vào việc cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hóa quá trình sản xuất và đôi khi còn là lực lượng tạo ra cái mới…
b) Trình độ thiết bị, công nghệ
Nếu doanh nghiệp ứng dụng thiết bị, công nghệ phù hợp sẽ cho phép rút
ngắn thời gian sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành nhưng vẫn nâng cao
chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ mới và phù hợp còn giúp doanh nghiệp
nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp.
c) Năng lực tài chính của doanh nghiệp

Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy
động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động… Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn
sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sử dụng vốn. Ngoài ra, năng lực tài chính thể
hiện ở “vốn” của doanh nghiệp còn thể hiện sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, thể
hiện chỗ đứng của doanh nghiệp trên thương trường.
d) Trình độ và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp
20


×