Tải bản đầy đủ (.docx) (218 trang)

Tài liệu thuyết minh xuyên việt tuyến TPHCM phan thiết nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.96 KB, 218 trang )

TÀI LIỆU THUYẾT MINH XUYÊN VIỆT
Dzoãn Tiến Đạt
Tuyến Tp.HCM-> Phan Thiết (196 Km)-> Phan Rang (338km)-> Nha Trang
(466km)
Hành Trình Xuyên Việt
Địa phận Tp.HCM:
Sơ Lược Về Lịch Sử Hình Thành Của Thành Phố Hơn 300 Năm
Vào khoảng đầu thế kỷ XVII, cả vùng đất Nam Bộ ở trong tình trạng hầu hết đất đai đều
hoang vu, rừng hoang bạt ngàn, dân cư thưa thớt, hệ thống sông ngòi chằng chịt. Ở thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay đã hình thành một thị trấn nhỏ, hình thức cư trú tập trung ban
đầu. Trong số dân cư ở đây, người Khơmer chiếm đa số, cạnh đó còn có những người
Việt đầu tiên từ các tỉnh miền Trung vào đây sinh sống. Đây là nơi buôn bán trao đổi của
nhân dân trong vùng .
Sự xuất hiện của con người ở vùng này khá sớm, tồn tại nhiều nền văn hoá từ thời kỳ đồ
đá đến kim khí với di tích Bến Đò quận 9 .
Qua các dữ liệu trong quá khứ và hiện nay, chúng ta thấy trên vùng đất Nam Bộ từ sông
Tiền trở lên vùng Tây Bắc ra phía Bà Rịa ở phía Đông đã có giống người sinh sống và
tồn tại. Giống người đó ngày nay thuộc hai phần dân tộc chính là Mạ và Stiêng, người
Khơme đến sau chiếm một vùng đất trên rẻo đất phía Tây Tây Ninh .
Căn cứ vào thư tịch cổ và các chứng cứ khảo cổ học cho thấy ở miền Nam có sự tồn tại
của nền văn hóa sáng giá và vương quốc Phù Nam có nền văn hoá phát triển được mệnh
danh là văn hoá Óc Eo. Vương quốc này hiện diện từ thế kỷ II sau Công Nguyên cho đến
nửa đầu thế kỷ VIII. Có giả thiết cho rằng vào thời điểm này có một trận hồng thủy lớn
đã chôn vùi hải cảng Óc Eo phồn thịnh dưới lớp phù sa .
Sau đó một thời gian, nước Chân Lạp của người Khơmer đang ở sâu trong nội địa Nam
Lào mở rộng ra và chia thành hai miền :
_Lục Chân Lạp ở phía Bắc là miền núi đồi .
_Thuỷ Chân Lạp có biển và đầm lầy .


Thuỷ và Lục Chân Lạp thống nhất vào đầu thế kỷ IX, người Khơmer sống tập trung ở


vùng đất cao ráo gần Biển Hồ, xây dựng Ankor huy hoàng. Đồng bằng Nam Bộ nói
chung là một vùng gần như hoang dã, chỉ có vài số người Khơme sống rải rác ở vùng cao
.
1 .Thời chúa Nguyễn :
Người Việt vào miền Nam lúc nào sử sách không ghi lại. Không ghi vì họ không phải là
cánh quân chinh phục, cũng không có sứ mạng rao giảng gì cả, những di dân đầu tiên chỉ
là những nông dân nghèo phải tha phương cầu thực. Có thể vào cuối thế kỷ XVI, vào thời
Trịnh _Nguyễn phân tranh trong 9 trận đánh lớn kể từ năm 1692 đến 1672 chỉ có một trận
đánh lớn là do quân Trịnh chủ động gây chiến, đi từ Thăng Long vào nhưng đều thất bại.
Như vậy, qua mấy chục năm chiến tranh, sự thiệt hại nặng nề thuộc về chúa Trịnh. Điều
đó cho thấy những lưu dân người Việt buổi đầu vào đất Gia Định có thể là những người
này chạy loạn đến đây .
Cũng có người cho rằng những lưu dân đầu tiên của người Việt đặt chân đến vùng Mô
Xoài vào thời thuộc Minh. Sử sách đã ghi chép về tính hà khắc của bọn xâm lược Minh
đối với dân Việt đến nỗi người ta không sống được. Có lẽ lực lượng kháng chiến chống
quân Minh của quân dân nhà Trần đã rút vào Thuận Hoá. Cuộc kháng chiến thất bại, sẵn
có thuyền bè, lương thực, chắc chắn số người này sẽ căng buồm vào Nam nơi nghe nói
trù phú và hoàn toàn vô chủ (giai đoạn này không thể vượt đường bộ vì vùng đất từ núi
Bà Rịa vào Nam đến Hàm Tân còn là lãnh thổ của nước Chiêm Thành cho đến 1693).
Đến năm 1697, hai tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên với
3000 quân và 50 chiến thuyền trốn nhà Thanh chạy sang chúa Nguyễn cho vào Mỹ Tho
và Biên Hoà làm ăn. Họ lập ra phố chợ, phát triển sở trường thương mại. Năm 1698 khi
lưu dân đã khá đông, chúa Nguyễn cử Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh vào tổ chức bộ máy
chính quyền ở Gia Định và lập ra đơn vị hành chính như sau :
+ Lập dinh Phiên Trấn thuộc huyện Tân Bình .
+ Lập dinh Trấn Biên thuộc huyện Phước Long. Hai dinh này thuộc phủ Gia Định .
Đến năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, nâng Gia Định trấn thành Gia Định thành,
cho xây dựng thành Bát Quái vào năm 1790 vị trí nằm giữa bốn con đường hiện nay là
Đinh Tiên Hoàng, Lê Thánh Tôn, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu .



Từ năm 1802 đến năm 1808 đất Sài Gòn thuộc hai huyện Bình Dương và Tân Long, Sài
Gòn vừa là trụ sở của trấn Phiên An tại chợ Thị Nghè, vừa là trụ sở của Gia Định thành .
Tháng 7 năm 1832 tả quân Lê Văn Duyệt chết, vua Minh Mạng bỏ cấp thành Gia Định và
chia Nam Bộ ra thành Lục tỉnh.
Đến năm 1836 vua Minh Mạng cho xây thành Phụng sau khi phá bỏ thành Bát Quái với
vị trí ngày nay thuộc bốn con đường : Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Mạc Đỉnh Chi .
2. Sài Gòn thời Pháp thuộc:
Đầu thế kỷ XIX, tư bản Pháp phát triển cao đòi hỏi phải có một thị trường cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ hàng hoá sản phẩm sản xuất ở chính quốc. Hai nhân vật quan
trọng trong việc cổ vũ Pháp chiếm Việt Nam là giám mục Pellerin_cai quản địa phận Huế
và linh mục Huc_cựu thừa sai truyền giáo .
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 01-9-1858 Pháp huy động 3000 quân, 14 tàu chiến tấn
công Đà Nẵng. Ngày 02-2-1859 Pháp rời Đà Nẵng kéo vào đánh thành Gia Định bằng
đường biển rồi tiến vào sông Lòng Tàu, nhưng dọc sông Lòng Tàu có nhiều pháo đài do
quân triều đình đóng giữ và đánh trả quyết liệt. Chính vì vậy, đoàn quân viễn chinh phải
mất một tuần lễ mới vượt qua được. Tuy nhiên, đến chiều ngày 15-2-1859, quân Pháp
vẫn đến cửa ngõ thành Gia Định và bắn đại bác vào thành để yểm trợ cho bộ binh tiến lên
cổng thành .
Quân ta cầm cự đến 10g thì rút, bỏ lại hầu hết súng đạn, 200 khẩu đại bác, 8 chiến thuyền
trong xưởng, 85.000kg thuốc súng và nhiều kho gạo đủ để nuôi 7000-8000 người trong
một năm. Đến ngày 08-3-1859 Pháp huỷ thành Phụng và triều đình Huế ký hoà ước vào
ngày 05-6-1862 giao ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp là: Biên Hoà –Gia Định –
Định Tường. Sau đó là hoà ước 1867 giao ba tỉnh miền Tây : Vĩnh Long-An Giang –Hà
Tiên. Như vậy trên nguyên tắc chiến tranh giữa Pháp và triều đình Huế chấm dứt. Cả
Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp .
Ngày 08-1-1877 tổng thống Pháp ký sắc lệnh chính thức thành lập thành phố Sài Gòn.
Thành phố Sài Gòn được xếp vào loại thành phố cấp I .
Ngày 20-10-1879, thống đốc Nam Kỳ Le Myre deVillers ban hành nghị định thành lập



thành phố Chợ Lớn và xếp vào cấp II.
Ngày 17-10-1877, tổng thống Nam Kỳ ban hành sắc lệnh thành lập liên bang Đông
Dương trong đó có xứ Nam Kỳ. Ngày 12-11-1887, do sắc lệnh của tổng thống Pháp, Sài
Gòn được chọn làm thủ phủ Đông Dương .
3. Sài Gòn vào thời Mỹ-Nguỵ:
Bị sa lầy ở chiến trường Đông Dương, đặc biệt là sau thất bại Điện Biên Phủ, thực dân
Pháp buộc phải ngồi vào bàn hội nghị Genève, đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà về việc chấm dứt đưa tay sai Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng bù nhìn
tại miền Nam Việt Nam và nước ta bị chia cắt làm hai miền .
Với bản chất hiếu chiến độc tài, gia đình trị, Ngô Đình Diệm chẳng những không được
lòng dân mà ngay cả giới sĩ quan, binh lính cũng bất mãn. Chính vì vậy, ngày 01-11-1963
cuộc đảo chính lật đổ chế độ độc tài nổ ra kết thúc cuộc đời Diệm –Nhu trên đường từ
nhà thờ Cha Tam về Sài Gòn. Mỹ đưa Nguyễn Văn Thiệu, rồi Trần Văn Hương cuối cùng
là Dương Văn Minh lên nắm quyền tổng thống .
4. Thời kỳ thống nhất đất nước :
Từ năm 1974, bộ chính trị đã đề ra kế hoạch và nhiệm vụ cho Cách Mạng miền Nam
trong năm 1975-1976. Tuy nhiên, nếu có thời cơ thì giải phóng trong miền Nam ngay
trong năm 1975. Trên tinh thần đó, sau hàng loạt chiến thắng của quân và dân ta trên
chiến trường miền Nam: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế – Đà Nẵng, giải phóng
Phước Long, ta tiếp tục mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn –Gia Định .
Ngày 14-4-1975 chiến dịch này chính thức mang tên ”chiến dịch Hồ Chí Minh“. Ngày
26-4-1975 quân giải phóng chia làm 5 mũi tiến chiếm được năm mục tiêu quan trọng
nhất Sài Gòn .
5g sáng ngày 30-4-1975, sau đợt bắn pháo chuẩn bị, đội hình thọc sâu của quân đoàn 3
vượt qua ngã tư Bảy Hiền tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Trên tất cả các hướng, các sư
đoàn tiến nhanh về thành phố mà điểm tập hợp là Dinh Độc Lâp Đến 11g30’ ngày 30-41975 lá cờ Cách Mạng đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập .
Sau khi chính quyền cũ Việt Nam Cộng Hoà và đế quốc Mỹ hoàn toàn sụp đổ với sự đầu



hàng của tổng thống cuối cùng là Dương Văn Minh nước Việt Nam vẫn còn tồn tại hai
chính phủ :
+ Ở miền Bắc đang tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng .
+ Ở miền Nam là chính phủ Cách Mạng lâm thời miền Nam Việt Nam của nhân dân miền
Nam đã đứng lên giải phóng đất nước bao gồm quân giải phóng và các lực lượng tiến bộ
khác, quốc kỳ nửa đỏ nửa xanh, sao vàng ở giữa.
Sau khi giành được độc lập hoàn toàn vào ngày 30-4-1975, ngày 26 và 27-12-1975 tại
Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã diễn ra hội nghị Hiệp Thương hai miền Nam –Bắc thống
nhất đất nước.
Sau khi thống nhất đất nước, nước Việt Nam chỉ còn lại một chính phủ là Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng .
Ngày 02-7-1976 Quốc hội khoá VI đã chính thức đổi tên Sài Gòn thành Thành Phố Hố
Chí Minh
ĐÔI NÉT VỀ TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh trong địa giới hôm nay rộng hơn 2093,7 km2; Dân số hơn 8
triệu người (năm 2006). Là Thành Phố lớn và đông dân nhất của đất nước, có năng lực
lớn về sản xuất kinh doanh và là một trong những thành phố đang phát triển khá sầm uất
của khu vực Đông Nam Á. Gồm 20 quận và 4 huyện:
Nội thành có 15 quận: Quận 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10, 11, Phú Nhuận, Gò Vấp, Bình Thạnh,
Tân Bình, Tân Phú, Bình Tân.
Ngoại thành có 4 quận: quận 2, 9, 12, Thủ Đức .
5 huyện : Nhà Bè, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ.
Sau thời gian dài trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cuộc tổng
tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 đã đánh dấu bước ngoặt mới cho sự hòa bình và ấm
no của dân tộc Việt Nam.
Tên thành phố Sài Gòn được đổi thành tên thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1976.



Sau hơn 10 năm cùng với cả nước thực hiện đường lối đổi mới kinh tế trên địa bàn thành
phố tăng trưởng khá cao và ổn định đóng góp 37,8% GDP cả nước.
Hiện nay, Tp.HCM là trung tâm du lịch lớn nhất cả nước, thu hút hàng năm 70% lượng
khách quốc tế đến Việt Nam .
Giao Thông
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông của cả miền Nam bao gồm đường sắt,
đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Từ thành phố đi Hà Nội có quốc lộ 1A,
đường sắt Thống Nhất và quốc lộ 13 xuyên Đông Dương.
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chỉ cách trung tâm thành phố 7km, là sân bay lớn nhất
nước với hàng chục đường bay nội địa và quốc tế. Có các đường bay nội địa từ Tp. Hồ
Chí Minh tới Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang,
Phú Quốc, Pleiku, Quy Nhơn, Rạch Giá, Vinh.
Tp. Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km, cách Tây Ninh 99km, Biên Hòa (Đồng Nai)
30km, Mỹ Tho 71km, Vũng Tàu 129km, Cần Thơ 168km, Đà Lạt 308km.
Ngã Tư Hàng Xanh
Đây là một trong những giao lộ quan trọng và là cửa ngõ ra vào thành phố với lưu lượng
hơn 20.000 lượt xe qua lại trong một giờ. Cho nên thường xảy ra tình trạng kẹt xe trong
giờ cao điểm. Trước tình hình này UBND TP.Hồ Chí Minh đã xem xét dự án xây dựng
giao lộ này với kinh phí xây dựng 15,6 tỉ đồng. Tên gọi Hàng Xanh bởi ngày xưa khu vực
này có rất nhiều cây Sanh (một loại cây gỗ cùng họ với cây Si) đọc chạy nên có tên là
Hàng Xanh. Người dân ở đây quen gọi là Ngã 4 Hàng Xanh.
Khu Du Lịch Văn Thánh
Cầu Văn Thánh bắt qua rạch Văn Thánh đổ ra rạch Thị Nghè rồi sau đó đổ ra sông Sài
Gòn. Phía bên tay phải là khu du lịch Văn Thánh một trong những nơi du lịch, vui chơi
giải trí của thành phố, được xây vào năm 1988. đây là một cù lao nhỏ (khoảng 7ha) trước
những năm 1975 còn được gọi là cù lao Bảy Mẫu. Theo sáng kiến của các nhà hoạt động
văn hóa quận Bình Thạnh, cù lao Bảy Mẫu đã được đầu tư xây dựng thành khu du lịch
Văn Thánh. Hàng năm vào ngày 5-1 âm lịch nơi đây thường tổ chức lễ hội mừng chiến



thắng của vua Quang Trung (Kỷ Dậu 1789)và cuộc thi tuyển chọn diễn viên điện ảnh,
người mẫu. Tên gọi là Văn Thánh vì năm 1824(Minh Mạng đời thứ 5) ở khu vực này có
xây dựng ngôi Văn-Miếu thờ đức Khổng Tử nên người dân gọi là khu Văn Tử Dụng
Thánh nhưng trong thời Pháp miếu thờ này đã bị phá hủy và hiện nay không còn nữa.
Bến Xe Văn Thánh
Bến xe Văn Thánh là một trong những bến xe lớn có từ lâu đời ở khu vực này. Từ đây có
thể đi Biên Hòa-Vũng Tàu và một số tỉnh miền Trung. Khoảng cuối năm 1996 bến xe
được dời sang bến xe Miền Đông vì ở đây xây dựng hệ thống đường lớn và cao tốc, nếu
để bến xe ở khu vực này dễ gây ách tắt giao thông.
Khu Tân Cảng
Khu Tân Cảng nằm ngay dưới chân cầu Sài Gòn phía hạ lưu quận Bình Thạnh. Cảng này
được Mỹ xây dựng vào năm 1965, được xem là Hải Cảng Quân Sự lớn của Mĩ-Ngụy
nhằm cung cấp vũ khí và đạn dược cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Sau giải
phóng thì đây là khu vực do hải quân Việt Nam kiểm soát. Trong thời kinh tế thị trường
(1990) khu Tân Cảng được chia thành 2 khu vực: khu vực kinh tế (cho tàu xuất nhập
hàng hóa và kho để các Container). Từ cầu Sài Gòn nhìn xuống chúng ta có thể thấy rất
nhiều Container xếp chồng lên nhau trong một khu vực lớn. Hiện cảng là trung tâm sửa
chữa và tiếp tế hàng hóa chính của nền quân sự Việt Nam.
Cảng Sài Gòn trực thuộc Cục Hải Quan Việt Nam, là cảng lớn nhất của Việt Nam hiện
nay, đã trải qua trên 100 năm phát triển và là thành viên của Hiệp hội cảng quốc tế từ
năm 1992. Hiện nay cảng còn tiếp tục thu hút đầu tư để phát triển và mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế. Điều kiện tự nhiên của cảng Sài Gòn khá thuận lợi cho một cảng biển với
độ dốc luồng 85 km từ Vũng Tàu với mức nước bình quân 11 m, thấp nhất là 9,7 m và
cao nhất là 12,1 m. Cảng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải 30.000 DWT, dài 230m trong
khoảng thời gian 6 -> 15 giờ/ngày.
Khu Thanh Đa
Cư xá Thanh Đa gồm 29 lô chiếm diện tích 36ha được xây dựng 1973 làm khu nhà ở cho
công nhân viên chức.
Đặc sản của khu vực này là: bánh tráng phơi sương cuốn thịt luộc, cháo vịt… ngoài ra ở
đây còn nổi tiếng với Khu Du Lịch Bình Quới: gọi là khu du lịch dưới nước với nhiều



hoạt động vui chơi trên đoạn sông Sài Gòn. Đến đây chúng ta có thể tổ chức các hoạt
động dã ngoại như: lướt ván trên sông, câu cá giải trí, du thuyền trên sông…hàng năm ở
đây thường tổ chức trại hè cho thiếu nhi toàn thành phố.
Cầu Sài Gòn
Cầu Sài Gòn được xây dựng vào năm 1960 và hoàn thành vào năm 1964, cầu dài 987,2
m, rộng 16m, dài 32 nhịp, trọng tải 25 tấn. Đây là chiếc cầu quan trọng của cửa ngõ dẫn
vào thành phố. Cầu do hãng C.E.C (Captital Engineering Cooperation) thiết kế và hãng
RMR (Mỹ) thi công xây dựng bắt qua sông Sài Gòn, kinh phí do chính quyền Mỹ tài trợ,
sông Sài Gòn bắt nguồn từ Sông Bé(Sông Mê Kông) chảy qua Củ Chi, Thanh Đa, Nhà
Bè rồi đổ ra cửa biển Cần Giờ qua sông Soài Rạp.
Năm 1998, ta liên minh với Pháp xây dựng, sửa chữa và nâng cấp lại phần chịu lực đồng
thời mở rộng từ 16m thành 25m với tải trọng 45 tấn. Trong tương lai sẽ có thêm một cây
cầu nữa bắc song hành với cây cầu cũ nhằm giảm bớt áp lực cho cầu Sài Gòn. Cầu Sài
Gòn là ranh giới giữa đường Điện Biên Phủ và xa lộ Hà Nội.
Sông Sài Gòn dài 220 km, bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quảng. Một đoạn của con sông
này là ranh giới tự nhiên của tỉnh Tây Ninh và Bình Phước. Một phần đổ vào hồ Dầu
Tiếng, sau khi chảy qua Bến Cát sông lại nhập chung với sông Đồng Nai và đổ ra cửa
biển Gành Rái.
Cảng Sài Gòn
Trực thuộc Cục hàng hải Việt Nam, đây là cảng lớn nhất nước ta hiện nay. Điều kiện tự
nhiên của Cảng Sài Gòn được xem là khá thuận lợi cho một cảng biển, đặc biệt tại đây có
sức chứa hàng hóa khá lớn và có thể chứa hàng hóa kho bãi hơn 200.000 tấn.
Quận 2
Qua khỏi cầu Sài Gòn là địa phận của Quận 2 TP.HCM với diện tích hơn 5000 ha gồm
An Phú-An Khánh-Thủ Thiêm-Thạnh Mỹ Lợi-Bình Trưng. Trước năm 1997 khu vực này
thuộc huyện Thủ Đức.
Quận 2 gồm khu công nghiệp Cát Lái và khu đô thị mới Thủ Thiêm hiện nay là trung tâm
mới của Thành Phố. Dân số hiện nay là 200.000 người và dự kiến đến năm 2010 sẽ là



800.000 người.
Hiện nay cùng với sự phát triển kinh tế đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO
(11/2006), những nhà đầu tư nước ngoài chọn Quận 2 là trung tâm để xây dựng các cao
ốc biệt thự, nhà cho thuê, dọc theo tuyến đường chúng ta thấy cơ sở vật chất ở đây khá
khang trang. Đó cũng là một bộ mặt mới của TP.Hồ Chí Minh hiện nay.
Xa lộ Hà Nội
Xa lộ Hà Nội dài 31 km, rộng 21m được xây dựng từ năm 1956->1961 do Mỹ viện trợ.
Xa lộ Hà Nội nối liền từ cầu Điện Biên Phủ (trước đây là cầu Phan Thanh Giản) đến ngã
ba Tam Hiệp ( Hố Nai) theo dự định ban đầu xa lộ có 4 làn xe nhưng do thất bại trong
“chiến tranh đặc biệt” Hoa Kỳ đã cắt giảm kinh phí nên năm 1964 xa lộ được khánh
thành chỉ với 2 làn xe. Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng con đường này như một
đường bằng quân sự dã chiến phòng khi sân bay Tân Sơn Nhất gặp sự cố. Đến năm 1971
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho rằng xa lộ sẽ là 1 đường băng tuyệt vời cho quân
giải phóng tấn công Sài Gòn nên đã cho xây dựng 1 con lươn chạy dọc theo xa lộ. Tuy
vậy xét về mặt giao thông vận tải thì đây là một điều kiện tốt nhằm giúp cho giao thông
trên xa lộ được an toàn hơn.
Ngày 10-10-1984 nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng Hà Nội, xa lộ Biên Hòa đổi tên là xa
lộ Hà Nội. Năm 1998, cùng với dự án khôi phục QL 1A, xa lộ Hà Nội cũng được khôi
phục và mở rộng, bàn giao lại cho chính phủ Việt Nam vào ngày 20/1/1998. Đây là con
đường quan trọng về kinh tế, quân sự nối liền miền Bắc và Sài Gòn.
Parkland
Đây là khu nhà ở dành cho người nước ngoài thuê, được xây dựng khoảng 1995 …
Là biệt thự đẹp được xây dựng trong vườn rộng, thoáng, nằm cạnh xa lộ quan trọng Sài
Gòn- Biên Hoà tạo thêm cảnh quan cho thành phố phía trên là khu nhà ở, văn phòng cho
người nước ngoài thuê và tầng trệt là một siêu thị Mini bán hàng phục vụ cho những
người ở quanh khu vực.
Ngã ba Cát Lái
Nằm trong xa lộ cao tốc TP.Hồ Chí Minh-Vũng Tàu với chiều dài 96,6 km và chiều rộng



23m, tổng dụ án dự kiến là 645 triệu USD dược thực hiện bởi liên doanh Anh và Việt
Nam, xa lộ cao tốc này sẽ được thiết kế với 4 làn xe và bắt qua cầu Đồng Nai mới.
Nhà Máy Ciment Sao Mai
Đây là một nhà máy liên doanh giữa nhà máy Ciment Hà Tiên và tập đoàn Holder Bank
của Thụy Sĩ với vốn đầu tư 346 triệu USD (35% vốn Việt Nam). Thời gian sử dụng 50
năm.
Công suất thiết kế của nhà máy 1,8 triệu tấn/năm. Được xây dựng tháng 10-1994 và hoàn
thành vào đầu năm 1997. Tháng 1-1997, nhà máy Ciment Sao Mai đã cho ra những mẻ
ciment đầu tiên.
Giống như nhà máy ciment Hà Tiên, nhà máy ciment Sao Mai cũng có nhà máy ciment ở
Hòn Chông, Hà Tiên để cung cấp nguyên liệu Linke cho sản xuất.
Cầu Rạch Chiếc - Xa Lộ Đại Hàn
Cầu Rạch Chiếc
Đọan đường từ cầu Sài Gòn đến cầu Rạch Chiếc là địa bàn thuộc quận 2, cầu Rạch Chiếc
đến cầu Đồng Nai thuộc Quận 9 và Quận Thủ Đức. Đây là cửa ngõ quan trọng về quân
sự của chính quyền Sài Gòn. Sở dĩ cầu có tên Rạch Chiếc là do khi làm cầu này ở sông có
loại rau chiếc nên được gọi là cầu Rạch Chiếc.
Đựơc xây dựng cùng thời điểm với cầu Sài Gòn và xa lộ Biên Hòa(1959-1961) dài 150m.
Đây tuy là chiếc cầu nhỏ nhưng chứa đựng một sự kiện lịch sử hết sức quan trọng góp
phần làm rạng rỡ cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Vào ngày 27/4/1975, tại chân cầu này đã
xảy ra liên tục năm trận đánh giữa quân Giải Phóng và quân lính chế độ Sài Gòn bảo vệ
cầu. Cuối cùng, quân giải phóng đã chiếm được cầu Rạch Chiếc nhưng 59 chiến sỹ cách
mạng đã hy sinh tại đây để giành đường lưu thông an toàn cho quân giải phóng tấn công
vào Sài Gòn.
Hiện nay nhà nước đang có kế hoạch đầu tư xây dựng tại đây một đài tưởng niệm các
chiến sỹ cách mạng đã hy sinh ngày 27/4/1975.
Quận Thủ Đức- Lâm Viên Thủ Đức
Trước kia Thủ Đức là một huyện ngoại thành có diện tích 20.000ha. Vào ngày 4-4-1997



để mở rộng trung tâm nội thành ra, UBND thành phố quyết định thành lập 5 quận mới.
Trong đó Thủ Đức được tách ra thành 3 quận ngoại thành: quận 2, quận 9 và quận Thủ
Đức. Xét về tiềm năng kinh tế tại khu vực Thủ Đức này phát triển rất nhiều cơ sở đầu tư
của nước ngoài; món ăn đặc sản ở đây là nem Thủ Đức.
Lâm viên Thủ Đức: vào ngày 22-4-1992 được phép của Uy Ban Hợp Tác Đầu Tư Nhà
Nước bởi 4 công ty: Lâm Viên Thủ Đức, Du Lịch Thành Phố, Liksin và công ty Đài Loan
Liên Doanh xây dựng tại đây sân Golf 36 lỗ đạt tiêu chuẩn quốc tế và một khách sạn 120
phòng đạt tiêu chuẩn 3 sao và những công trình phụ như: sân quần vợt, hồ bơi, sân chơi
trẻ em…với tổng kinh phí 7 triệu USD hoàn thành năm 1996. Khi bắt đầu xây dựng thì
đã có nhiều nguồn dư luận nhưng sau đó có kết luận của Thủ Tướng Chính Phủ sân Golf
mới đi vào xây dựng yên ổn. Hiện nay sân tập đánh Golf đã hình thành và thẻ hội viên
thường trực của Golf là 5.000 USD/người.
Nhà Máy Xi Măng Hà Tiên
Nhà máy xi măng Hà Tiên được người Pháp xây dựng từ năm 1969 đến 1964 nhằm cung
cấp xi măng cho các tỉnh thành phố. Vị trí nhà máy rất thuận tiện cho việc chuyển nguyên
liệu từ nhà máy xi măng Kiên Lương ở Hà Tiên về đây bằng đường bộ lẫn đường thủy.
Do nguồn nguyên liệu chủ yếu được khai thác từ Hà Tiên nên gọi là xi măng Hà Tiên.
Đến cuối năm 1994 nhà máy Hà Tiên đổi thành Công Ty xi măng Hà Tiên 1. Sản lượng
hiện nay hơn 2 triệu tấn/năm.
Một trong những cánh chim đầu đàn về sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam. Nguyên
liệu chính được lấy từ nhà máy xi măng Kiên Lương, sau đó chuyên chở bằng xà lan đến
thành phố sản xuất ra xi măng cung cấp cho thành phố và một số tỉnh ở vùng Đông Nam
Bộ. Trước đây nhà máy này đã gây ra một lượng khí thải lớn ảnh hưởng đến môi trường
nhưng sau đó đã được khắc phục với kinh phí là 2 tỷ đồng.
Công Ty Truyền Tải Điện 4 Trạm Thủ Đức
Để có thể nhận điện từ thủy điện Đanhim (1961-1964) và phân phối điện cho thành phố,
nên ở đây xây dựng thêm một trạm biến điện (các năm 1964) do các công ty của Nhật
xây dựng bằng bêtông cốt thép và mang dáng dấp nhà máy hiện đại .

Năm 1964: gọi là nhà truyền tải và phân phối điện, đến năm 1976 đổi tên thành sở truyền
tải điện Thủ Đức. Hiện nay gọi là công ty truyền tải điện 4 Trạm Thủ Đức.


Hiện nay ở đây tập trung 2 nguồn điện: nhiệt điện Thủ Đức và Thủy điện Đanhim (còn
thủy điện Trị An hạ thế ở trạm Hóc Môn) hạ thế cung cấp điện cho thành phố và khu vực
xung quanh.
Ngã Tư Bình Thái
Rẽ phải đi vào có một số nhà máy lớn: Vietronics, thép Posvina, dệt Phước Long.
Rẽ trái vào chùa Một Cột, trường Đoàn Lý Tự Trọng và chợ Thủ Đức.
Làng Đại Học
Được xây dựng từ năm 1961 hơn 200 ngôi biệt thự dành cho 200 giáo sư ở và làm việc.
Đây là một dự án lớn xây làng đại học ở cây số 12, cạnh xa lộ Biên Hòa cũ do kiến trúc
sư Ngô Viết Thụ đưa ra phương án qui hoạch tổng thể khu làng Đại Học này .
Công trình xây dựng khu biệt thự này với sự tham gia thiết kế của hầu hết các kiến trúc
sư tiếng tăm thời bấy giờ: Huỳnh Kim Mảng, Nguyễn Gia Đức, Tô Công Văn, Lê Công
Lắm, Trần Văn Tải, Nguyễn Quang Nhạc, Phạm Văn Thông. Biệt thự được thiết kế đa
dạng đầy đủ tiện nghi nằm trên các lô đất thoáng mát .
Ngã Tư Thủ Đức
Đi phía phải: vào chợ nhỏ, bệnh viện, quân đội 7A, trường công an Phước Sơn Học Viện
chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh –phân viện TP.HCM, Đại học giao thông.
Đi phía trái: Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức và vào 2km đến chợ Thủ Đức,
nếu đi thẳng sẽ qua Water Park và về đường cầu Bình Triệu .
Tìm Hiểu Về Thủ Đức
Vừa qua viện Khoa Học Xã Hội Thành Phố, cùng với nhà truyền thống Huyện tìm hiểu
thực tế: tại tổ 3 ấp 10 thị trấn Thủ Đức còn ngôi mộ cổ kiến trúc theo hình voi phục có
tấm bia đá Granit khắc chữ Hán nội dung như sau: Mộ ông Tạ Huy, hiệu Thủ Đức tiền
hiền thôn Linh Chiểu Đông nước Đại Nam. Ông chết ngày 19-6. Hương chức lập mộ bia
vào tháng 2-1890.



Như vậy đã rõ tên hiệu của ông Tạ Huy. Tìm hiểu thêm ông Tạ Huy hay Tạ Dương Minh
là thủ lãnh của người Hoa bài Thanh phục Minh sang cư ngụ tại vùng Linh Chiểu, có
công trong việc khai khẩn đất hoang, lập ấp nên người ta gọi địa danh này là Thủ Đức.
Nhà Máy Nước Thủ Đức
Được xây dựng năm 1959, với công suất 4500m3 nước/ngày. Hiện nay: công suất:
650.000m3 nước/ngày.
Đây là nhà máy nước quan trọng cung cấp nước cho toàn thành phố. Nước ở đây được
bơm từ trạm bơm Hoá An, lấy nước sông Đồng Nai về đây .
Nhu cầu tiêu dùng nước ở thành phố Hồ Chí Minh hiện tại là: 1.000.000m3 nước/ngày.
(Nhà máy nước Thủ Đức cung cấp m3 nước/ngày + nhà máy nước Hóc Môn 200.000m3
nước/ngày, thiếu khoảng 150.000m3 nước/ngày).
Ngân hàng Á Châu cho vay khoảng 62,3 tỉ USD để nâng công suất nhà máy nước Thủ
Đức đủ cho nhu cầu tiêu dùng, thay hệ thống ống chính lên 2,4m (ống cũ 1,8m).
Bên trái chúng ta có 2 ống cao nhô lên là:
Cột thủy áp lực (giống cầu Điện Biên Phủ) nhằm điều hòa các lực trong các đường ống
nước. Ví dụ, vào ban đêm tất cả các van nước của các gia đình đều đóng lại thì áp lực
nước trong ống rất lớn, nên 2 trụ này có nhiệm vụ giảm áp suất tránh các đường ống bị
phá vỡ.
Công Ty Nước Giải Khát Coca-cola
Nhà máy nước ngọt Coca-cola: trước đây là công ty liên doanh giữa công ty nước giải
khát Chương Dương và công ty Indochina chi nhánh PCB ( Paciffic Beverga Company)
đặt tại Singapore. Chính thức ký hợp đồng vào tháng 7-1993 với tổng vốn đầu tư là 24
triệu USD. Nhà máy PCB nằm trên một lô đất khoảng 2ha tại Thủ Đức. Nhà máy có 3
dây chuyền sản xuất 3.5000 két/ngày và công suất tối đa là 40 triệu lít/năm. Hiện nay là
doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
Trước đây thị trường nước ngọt giải khát ở TP.HCM là Tribêcô –tiếp Pepsi –hiện nay


Coca-cola chiếm lĩnh thị trường nước ngọt ở TP.HCM và cả nước.

Hiện nay Coca-cola là một trong những đơn vị tài trợ cho nhiều hoạt động thể thao thành
phố và cả nước.
Xa Lộ Đại Hàn
Đến ngã ba trạm 2: phía trái là xa lộ Đại Hàn.
Sau tổng tấn công vào tết nổi dậy năm Mậu Thân 1968, Mỹ hoảng sợ và cho xây dựng hệ
thống đường vành đai để bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn, để ngăn cách giữa Sài
Gòn và quân cách mạng ở Hóc Môn –Củ Chi.
Xa lộ Đại Hàn được xây dựng 1960-1970, do công ty Mỹ thiết kế và do công binh Đại
Hàn xây dựng (nên có tên gọi là xa lộ Đại Hàn).
Xa lộ Đại Hàn dài 40km, rộng 16m bắt đầu từ ngã 3 trạm 2 đến ngã 3 An Lạc. Hiện nay
đoạn đường này là quốc lộ 1A (trên đoạn này từ Trạm 2 đến ngã 2 Bình Phước gọi là
đường Trường Sơn).
Xa lộ Đại Hàn là một hệ thống đường giao thông hết sức quan trọng là cầu nối 2 khu vực
kinh tế: vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và vùng Đồng Bằng Nam Bộ. Đa số những xe
đi từ các tỉnh miền Tây lên miền Đông không phải vào TP.HCM mà đi qua xa lộ Đại Hàn.
Suối Tiên Thủ Đức - Ngã 3 Tân Vạn
Đường Xuyên Á
Khoảng năm 1996 chính phủ đã có quyết định xây dựng đường Xuyên Á từ (Bangkok)
Thái Lan qua Campuchia (Nôm Pênh) qua cửa khẩu Mộc Bài (Bến Cầu –Tây Ninh) qua
thị trấn Gò Dầu đến quốc lộ 22A đến Ngã 4 An Sương quẹo trái qua xa lộ Đại Hàn đến
ngã 3 trạm 2 và đi Vũng Tàu.
Đoạn đường từ Bangkok –Nôm Pênh –TP.HCM –Vũng Tàu là công trình đầu tiên Liên Á
được “hội nghị kỹ thuật vùng” của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đầu năm 1996
ưu tiên chọn lựa. Theo tính toán các chuyên gia, cảng Bến Đình –Sao Mai –Thị Vải nối
thông mạng ôtô Xuyên Á, sẽ làm cho các sức sản xuất khu vực tăng gấp 2 đến 2,5 lần
(Có các tỉnh như: Tây Ninh, Bình Dương, TP.HCM, Đồng Nai, Vũng Tàu).


Đường Xuyên Á trên địa phận Việt Nam từ cửa khẩu Mộc Bài đến Vũng Tàu dài 173km.
Kinh phí toàn tuyến Bangkok –Nông Pênh –Vũng Tàu là 306 tr USD. Trên địa phận Việt

Nam là 120 tr USD.
Từ trạm 2 vào phía trái khoảng 2km (rẽ phải) vào trường Đại Học Đại Cương –Đại Học
Dược, TDTT, … Nếu đi tới khoảng 500m (phía trái) là khu điện tử Nam Triều Tiên
VINASAMSUNG, tiếp tục đi tới phía trái là khu chế xuất Linh Trung.
Suối Tiên Thủ Đức
Lâm trại Suối Tiên cách trung tâm TP. Hồ Chí Minh 19km thuộc xã Tân Phú huyện Thủ
Đức cách xa lộ Hà Nội 100m, nơi đây có một dòng suối thiên nhiên lâu đời uốn lượn qua
những cụm rừng nguyên sinh và đổ dòng qua 6 ngọn đồi, tạo thành 6 ngọn thác nhỏ. Suối
chảy qua các tỉnh Đồng Nai, Sông Bé và hạ nguồn chảy qua Lâm Trại dài 1.200m, như
một dải lụa trắng. Mùa xuân hoa mai vàng nở rộ dọc theo triền suối. Trước vẻ đẹp thơ
mộng và quyến rũ ấy người dân ở đây không ngần ngại đặt tên là Suối Tiên. Tháng 61993 đồ án quy hoạch được văn phòng kiến trúc sư trưởng phê duyệt và UBND thành
phố cho phép thực hiện theo quy hoạch Lâm Trại Suối Tiên trên diện tích 120ha với vốn
đầu tư bước đầu là 50 tỉ đồng cho các công trình vui chơi tham quan trên diện tích 20ha.
Đến với Suối Tiên quý khách sẽ tận hưởng những giây phút thoải mái không khí trong
lành cùng với thiên nhiên và đặc biệt được chiêm ngưỡng hình ảnh một con rồng được
xây dựng theo truyền thuyết “con rồng cháu tiên” lớn nhất Việt Nam, dài 400m được đúc
bằng bêtông. Trong tương lai một phần của sở thú sẽ được chuyển ra đây.
Dự An Thảo Cầm Viên Mới
UBND TP chấp nhận cho địa điểm xây dựng Thảo Cầm Viên mới tại khu vực đồi Lâm
Viên gần sân golf quận 9. Thảo Cầm Viên mới có diện tích 200ha với các khu vui chơi,
giải trí, mô hình tiến hoá các loại động vật và thực vật. Dự kiến kinh phí xây dựng
khoảng 50tr USD.
Khu Lâm Viên Thủ Đức được quyết định thành lập ngày 6-8-1984 cách xa lộ Hà Nội
2km phía phải với diện tích là 1200ha (trong đó phủ 350ha cây điều và 200ha cây xanh) .
Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố.


Nghĩa trang Thành Phố là nơi quy tụ mộ anh hùng liệt sĩ, đã hy sinh trong 3 cuộc kháng
chiến chống Pháp, Mỹ và Campuchia. Nghĩa trang này rộng 3 ha gồm hơn 12.000 ngôi
mộ được sắp xếp xung quanh đài tưởng niệm “ Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng” . Công trình

được xây dựng năm 1984 và hoàn thành vào 4-1987.
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Diện tích : 2695,5 km2 .
Dân số : 883.200 người ( 2004 ).
Tỉnh lỵ: thị xã Thủ Dầu Một.
Các huyện : Bến Cát, Dầu Tiếng, Tân Uyên, Phú Giáo, Thuận An, Dĩ An.
Dân tộc: Việt ( kinh ), Hoa, Khmer, Tày.
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ. Phía Bắc giáp Campuchia, phía Đông
giáp tỉnh Đồng Nai ( với sông Đồng Nai làm ranh giới ), phía Nam giáp Thành phố Hồ
Chí Minh, phía Tây giáp Củ Chi và tỉnh Tây Ninh. Thị xã Thủ Dầu Một cách Thành phố
Hồ Chí Minh 30km về phía Bắc.
Địa thế trong tỉnh toàn bình nguyên và đồi thấp, chỉ có núi Ong cao 281m là đáng kể.
Sông ngòi: có 3 sông lớn là sông Đồng Nai, Sài Gòn và sông Bé, nhiều kênh rạch, sông
con, ghe thuyền đi lại thuận tiện.
Khí hậu Bình Dương giống như đa số các tỉnh miền Nam, mùa mưa từ tháng 5 – 11, mùa
khô từ tháng 12 – 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 270. lượng mưa trung bình
hàng năm là 2300 mm.
Đường bộ: tuyến quốc lộ 13 xuyên suốt từ Bắc đến Nam của tỉnh, nhiều đường liên tỉnh
nối liền các đường giao thông thuận tiện và an toàn.
Có những ngành nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như : gốm sứ, sơn mài, điêu khắc
gỗ…


Nền kinh tế của tỉnh khá phát triển với các khu công nghiệp như Việt Nam – Singapore,
Việt Hương …
Núi Châu Thới
Còn gọi là núi Châu Thái, cao 73m, trên núi có chùa Hội Sơn. Trụ trì Khánh Hưng Thiền
Sư. Vào thế kỷ 18 ở đây từng là nơi đóng quân của Nguyễn Anh .
Trước đây ở núi Châu Thới là nơi khai thác đá để cung cấp cho ngành xây dựng và cầu
đường.

Phía trái :khu du lịch Bình An.
Nằm cách xa lộ Hà Nội 500m phía trái là khu du lịch hồ Bình An, khu nghỉ ngơi vào cuối
tuần cho dân thành phố, với khung cảnh thoáng mát hữu tình có hồ nước, nhiều khu vui
chơi .
Đường vào Tân Vạn, (ngã 3 Tân Vạn): vào núi Châu Thới du lịch suối Lồ Ô.
Cây Điều:
Chưa tìm thấy tài liệu nào nói đích xác cây điều được di giống đến nước ta từ bao giờ. Có
giả thiết cho rằng các giáo sĩ Au Châu khi tới Việt Nam truyền giáo đã mang theo hạt
điều vào nước ta; điều đó có nghĩa là cây điều đã có mặt ở nước ta từ mấy trăm năm nay
vào thời kỳ các nước tây Au bành trướng thuộc địa ở Châu A và châu Phi. Nhưng cũng có
tài liệu lại cho rằng một số chủ đồn điền người Pháp mang hạt điều từ An Độ sang trồng
thử tại nước ta chỉ mới hơn một trăm năm nay. Có thể tin rằng vào thời kỳ đầu đã có cây
điều trồng thử nhiều vùng ở nước ta, Miền Bắc cũng như Miền Trung và Miền Nam.
Song do năng lực thích nghi về sinh thái khí hậu nên giống điều chỉ tồn tại ở Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ dưới dạng cây vườn phân tán ở các đồn điền cũ của Pháp và xung
quanh nhà dân.
Suốt trong một thời gian dài do không có thị trường tiêu thụ và do sản phẩm không đáng
kể nên cây điều chẳng được mấy ai chú ý đến. Đến khi lực lượng quân sự Mỹ ồ ạt xâm
chiếm miền Nam vào những năm 60 và đầu thập kỷ 70 vừa qua, một số danh nhân Hoa
Kiều ở Chợ Lớn đã tìm thấy nguồn lợi trong việc chế biến nhân hạt điều cho các tiệm ăn


phục vụ binh sĩ Mỹ mới bắt đầu tổ chức mua hạt điều của các hộ nông dân và đầu tư chút
ít cho việc trồng điều quy mô nhỏ. Tính tới đầu những năm 80 cây điều từ dạng phân tán
lẻ tẻ đã được trồng thành vườn nhỏ với tổng diện tích ở Đông Nam Bộ và duyên hải Miền
Trung lên sấp sỉ 1000 ha, đạt sản lượng khoảng 200 – 300 tấn/năm.
Vào 1977 – 1978, do tìm hiểu thị trường tiêu thu do Sở Ngoại Thương Tp.HCM đã xuất
được lô hàng đầu tiên thô đầu tiên ra nước ngoài bán với giá cao và tìm thấy ở ngành
hàng nông sản này một thế mạnh trên thị trường quốc tế nên đã mạnh dạng đầu tư xây
dựng một nông trường trồng điều 300 ha ở Huyện bến Các Tỉnh Bình Dương. Từ đó đã

dấy lên một phong trào trồng điều mạnh mẽ ở nhiều địa phương. Đến nay tổng diện tích
trồng điều ở nước ta, tính từ phía Nam đèo Hải Vân trở vào mà tập trung nhiều nhất là
các tỉnh Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ đã lên đến 250.000 ha gồm đủ loại cũ có mới
có, già có non có, vườn có năng suất cao cũng như vườn thoái hoá. Sản lượng hạt điều
thô thu mau trong hai năm 1996 – 1997, bình quân mỗi năm là 130.000 tấn; dự kiến năm
2000 có thể đạt đến 200.000 tấn.
Vào những năm 80 phần lượng hạt điều của nước ta đều bán ra thị trường nước ngoài.
Bước qua thập kỷ 90 cụ thể là 1995 trở lại đấy đã có hơn 50 cơ sở kinh danh, chế biến hạt
điều với tổng công suất thiết kế để chế biến đạt 150.000 tấn nguyên liệu hạt thô/năm.
Nhờ đó đã thu được hầu như toàn bộ sản lượng hạt điều thô cho chế biến trong nước, tỷ
lệ xuất nguyên liệu thô không đáng kể.
Trong một thời gian hết sức ngắn, chưa đầy 20 năm, cây điều ở nước ta chưa được mấy
người quan tâm nay đã trở thành một loại cây trồng mạnh mẽ, tạo công ăn việc làm cho
hàng ngàn lao động cả trong khâu trồng cũng như trong chế biến sản phẩm và cho giá trị
kim ngạch xuất khẩu đáng kể. Đồng thời, cũng cần chú ý rằng mặt hàng điều của nước ta
đã chiếm một vị trí cao cả về tổng lượng sản phẩm cũng như phẩm chất mặt hàng trên
thương trường quốc tế. Song, cũng trong thời gian ngắn đó đã có biết bao vấn đề khó
khăn, trở ngại cả về phương diện khoa học kỹ thuật trong gây trồng giống chế biến cũng
như về chính sách kinh tế về mối quan hệ giữa người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế
biến, giữa các đơn vị xuất khẩu và bạn hàng nước ngoài đã từng lúc, từng nơi kìm hãm sự
phát triển của mặt hàng này, thậm chí đã có địa phương người nông dân chặt bỏ vườn
điều của mình vì sản phẩm thu hoạch được bị ép giá rẻ không đủ bù chi phí sản xuất.
Để cây điều phát triển ổn định, mặt hàng xuất khẩu tăng, sản phẩm có chất lượng cao thì
đã tới lúc nhà nước có sư quan tâm thích đáng về phương diện khoa học-kỹ thuật, chính


sách kinh tế, điều chỉnh các mối quan hệ trong nội–ngoại thương, cùng với lúa và cao su
xem cây điều như một cây trồng nông-công nghiệp chiến lược của nước ta.
Cầu Đồng Nai - Khu công nghiệp Biên Hoà 2
Cầu Đồng Nai

Cầu Đồng Nai được xây dựng vào năm 1959-1961 do hãng C.E.C thiết kế và hãng
Joushin Deake thi công, cầu dài 454 m, rộng 16 mét, trọng tải 25 tấn, gồm 27 nhịp được
bắt qua con sông Đồng Nai, con sông quan trọng của tỉnh Đa Nhim-Đa Dung có nguồn
gốc từ cao nguyên Lâm Viên (Langbian) ở độ cao 1776 m đổ về, chảy qua địa phận tỉnh
Đồng Nai sau đó kết hợp với sông Sài Gòn và đổ ra vịnh Gành Rái.
Sông Đồng Nai: Hệ thống sông Đồng Nai-Vàm Cỏ là hệ thống sông kép vì hai con sông
này chỉ gặp nhau ở ngoài cửa Soài Rạp và được kết nối với nhau bằng những con kênh
nhân tạo. Đây là hệ thống sông lớn thứ ba trong nước sau hệ thống sông Hồng và sông
Cửu Long. Chiều dài sông chính là 635 km, diện tích toàn khu vực là 44100 km2 phát
triển chủ yếu ở Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, một phần ở Tây Nam Bộ và
Campuchia. Hệ thống sông Đồng Nai và Vàm Cỏ có tổng lượng nước vào khoảng 32,8 tỉ
m3/năm. Thủy chế tương đối đơn giản vì chỉ có một mùa mưa và một mùa cạn. Sông
Đồng Nai có giá trị cả về giao thông, sinh hoạt, nông nghiệp và thủy điện.
Từ trên cầu, ở ngã ba sông về phía thượng lưu là Cù Lao Phố. Ngược dòng lịch sử, năm
1679, khi triều Minh Mạng ở Trung Hoa bị nhà Thanh lật đổ có khoảng 3000 binh sĩ và
gia đình trong nhóm bài Thanh phục Minh đã đến nước ta và xin Chúa Nguyễn cho làm
dân Việt. Trong đó có một nhóm do Trần Thượng Xuyên làm thủ lĩnh đến cư trú tại đây
và lập nên một cảng có hoạt động thương mại sầm uất gọi là Nông Nại Đại Phố. Năm
1698, thừa lệnh của Chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý, ông thấy vùng
đất này trù phú và yên bình nên đã dừng chân tại đây. Ông đã chia đặt các đơn vị hành
chính và thành lập chính quyền Nam Bộ, hai huyện đầu tiên là Phước Long và Tân Bình.
Sông Đồng Nai là ranh giới tự nhiên giữa thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai.
Cù lao phố
Qua Cầu Đồng Nai, nhìn bên trái, xa xa chúng ta thấy cù lao, đó chính là Cù Lao Phố. Có
diện tích khoảng 660ha và hơn 9.000 dân sống ở đây thuộc xã Hiệp Hòa, thành Phố Biên
Hòa, Đồng Nai.
Thế kỷ 17, Cù lao phố là thương cảng sầm uất, tên gọi là Nông Nại Đại Phố, trao đổi


hàng hóa với nhiều nước trong khu vực: Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônexia. Năm

1679, nhóm người Hoa di dân của nhà Minh-nhóm Trần Thượng Xuyên đến Cù Lao Phố.
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đến vùng đất này, đặt tổng hành dinh tại Cù Lao Phố
thuộc dinh Trấn Biên, huyện Phước Long.
Năm 1998, tp.HCM –tp.Biên Hòa kỷ niệm 300 năm, ngày đặt nền hành chính đầu tiên tại
Nam Bộ.
TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng Nai là tỉnh thuộc Miền Đông Nam Bộ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
có diện tích 5.862,73 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện
tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2003 là
2.149.030 người, mật độ dân số: 365 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh
năm 2004 là 1,22%. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hòa là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của tỉnh; thị xã Long Khánh và 9 huyện: Long
Thành; Nhơn Trạch; Trảng Bom; Thống Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân Lộc; Định
Quán; Tân Phú.
Là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam Đồng Nai tiếp giáp
với các vùng sau:
• Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận.
• Phía Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.
• Phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước
• Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
• Phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh
Là một tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết mạch quốc
gia đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến đường sắt Bắc - Nam; gần cảng
Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế
trong vùng cũng như giao thương với cả nước đồng thời có vai trò gắn kết vùng Đông
Nam Bộ với Tây Nguyên.
Phần lớn diện tích của cả tỉnh là vùng đất cao, địa thế mấp mô, nối tiếp cao nguyên Nam
Trung Bộ và phần đất tiếp giáp với Cao nguyên Lâm Viên và Di Linh. Tuy nhiên cũng có


một số thung lũng, đồng bằng, gò, đồi thấp. Phần lớn đất ở Đồng Nai là đất badan, đất

xám và đất phù sa cũ màu mỡ nằm chen lẫn nhau quanh các ngọn núi lửa cổ và vùng phù
sa thấp phẳng ven sông Đồng Nai rất tốt cho việc trồng trọt. Bởi vậy, Đồng Nai trồng
nhiều loại cây công nghiệp như : cao su, cà phê, chè, cây ăn trái và cây công nghiệp ngắn
ngày.
Sông Đồng Nai là con sông quan trọng nhất của tỉnh do hai sông Đa Dung và Đa Nhim
phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên hợp thành. Sông có chiều dài 480km, đoạn chảy
qua tỉnh Đồng Nai dài 294 km. Dọc hai bên bờ là các làng đảo, vườn bưởi. Đập thủy điện
Đa Nhim được xây dựng trên con sông La Ngà, sông Lá Buông chảy qua, có nhà máy
thuỷ điện Trị An.
Đồng Nai có lợi thế về vị trí địa lý, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, thuộc vùng ít bão
lụt thiên tai, nhiệt độ bình quân hàng năm 25-26 0C, gồm 2 mùa mưa nắng, lượng mưa
tương đối cao khoảng 1.500mm - 2.700mm, địa hình chủ yếu là đất đồi cao, kết cấu đất
có độ cứng chịu nén tốt (trên 2kg/cm2) không tốn nhiều chi phí trong việc san lấp, xử lý
nền móng công trình, thuận lợi cho việc đầu tư phát triển công nghiệp và xây dựng công
trình với chi phí thấp.
Do những lợi thế nêu trên, đến năm 2010, chưa kể các cụm tiểu thủ công nghiệp qui mô
nhỏ, Đồng Nai đã qui hoạch và phát triển khoảng 10.000 ha đất khu công nghiệp tập
trung, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 15 khu công nghiệp với diện tích
4.751 ha. Các khu công nghiệp này, cơ sở hạ tầng đã và đang được xây dựng đồng bộ, đã
bố trí 55% diện tích đất, và đang sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đồng Nai có nhiều tiềm năng về nông nghiệp. Đất canh tác nông nghiệp phần lớn là đất
đỏ bazan thích hợp để phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả. Các cây trồng
chủ yếu như cao su (41.000ha), cà phê (25.000ha), điều (42.000ha), đậu nành (7.000ha),
bắp (67.000ha), cây ăn quả (20.000ha) ... Đồng Nai đang là một trong những tỉnh dẫn đầu
cả nước về sản xuất thức ăn gia súc, và có nhiều trang trại chăn nuôi qui mô công nghiệp,
tổng đàn trâu bò 76.000 con, heo 970.000 con, gia cầm 11 triệu con. Đây là nguồn
nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến.
Kết cấu hạ tầng tại Đồng Nai khá thuận lợi so với nhiều địa phương khác trong cả nước,
vì Đồng Nai chỉ cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 25 km, các nhà đầu tư tại Đồng
Nai có thể sử dụng các công trình kỹ thuật hạ tầng và hệ thống dịch vụ hiện có của Thành

phố Hồ Chí Minh như sân bay, bến cảng, hệ thống viễn thông, khách sạn và các dịch vụ


khác.
VÀI DÒNG LỊCH SỬ
Cuối thế kỷ XVI, vùng đất Đồng Nai vẫn còn hoang dã, chưa được khai phá, người dân
bản địa gồm các dân tộc Stiêng, Mạ, Kơ ho, M'nông, Chơ Ro và một vài sóc người Khơ
me sinh sống. Dân ít, sống thưa thớt, kỹ thuật sản xuất thô sơ, trình độ xã hội còn thấp.
Cuộc chiến tranh của họ Trịnh và họ Nguyễn ở miền Trung và Bắc Việt Nam làm cho dân
chúng khổ sở, điêu đứng và tạo ra một làn sóng di cư của người dân miền Thuận Quảng
vào Đồng Nai tìm đất sống.
Bản tính cần cù, chịu khó, lưu dân người Việt đã cùng với người bản địa chung sức khai
phá đất đai để sản xuất nông nghiệp. Dần dà, rừng rậm hoang vu đã trở thành những cánh
đồng lúa và hoa màu tươi tốt.
Năm 1679, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ, Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn thủ các
châu Cao, Lôi, Liêm không khuất phục nhà Thanh đã đem 50 chiến thuyền, 3.000 binh
lính thân tín và gia quyến đến xin thuần phục chúa Nguyễn ở Thuận Hóa. Chúa Nguyễn
Phúc Chu đã thu nhận họ và cho vào khai khẩn, mở mang vùng đất Đông Phố (Cù lao
Phố ngày nay).
Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (là cả Nam Bộ bây giờ), đặt vùng đất mới
thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn
Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Cảnh còn
cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào lập
nghiệp và phát triển kinh tế.
Người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư ở Bến Gỗ, nhưng thấy Cù lao Phố
có vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán, họ đã quyết định di chuyển đến đây sinh
sống. Từ đây, Cù lao Phố phát triển ngày càng phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung
tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định (Nam bộ ngày nay).
Trong cuộc hành trình dài giữ nước, ông cha ta đã khai phá đất đai ngàn dặm dọc suốt

miền Trung và đền nơi đây là Biên Hòa-Đồng Nai, mảnh đất đai đầu ở Nam Bộ in dấu
chân đoàn quân Nam tiến của dân tộc Việt.


Đồng Nai còn nổi tiếng với một số di tích lịch sử quan trọng đó là chiến khu Đ, căn cứ
địa bí mật của Trung Ương cục R thời kháng chiến chống Pháp Và Mỹ. Ngày nay chiến
khu Đ trở thành một điểm đến du lịch mà bất cứ du khách nào khi đến Đồng Nai đều
không thể bỏ qua.
ẨM THỰC ĐỒNG NAI
Do thời tiết hai mùa mưa nắng, sản vật biển, rừng, sông nước, vườn ruộng phong phú,
cách ăn uống của người Đồng Nai vừa thể hiện nét chung của văn hóa Việt Nam, vừa có
sắc thái mang dấu ấn Nam Bộ
Các món ăn quen thuộc của người Biên Hòa - Đồng Nai trong thói quen ngày ăn ba bữa
thông thường: cháo đậu ăn với cá lóc kho tiêu, cháo đậu nước cốt dừa, canh bầu nấu với
cá trê vàng, cá lóc kho thơm, canh chua cá lóc, mắm kho ghém rau sống, mắm đồng
chưng trứng, canh khổ qua dồn thịt…
Đất Đồng Nai cũng rất giàu hoa trái, gần như quanh năm đều có trái cây, trong đó bưởi là
thứ trái cây nổi tiếng nhất.
Biên Hòa có bưởi Thanh Trà; Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh; Bưởi Đồng Nai
nhiều nhất ở làng Tân Triều (huyện Vĩnh Cửu). Bưởi Tân Triều nổi tiếng trong nước và
cả một số nước trên thế giới với vị chua ngọt dễ chịu, múi nhỏ mọng nước, có tác dụng
tốt cho tim mạch. Ngày nay, du khách có thể theo tour, hoặc tự đến làng Tân Triều ( tỉnh
lộ 24, qua khỏi trung tâm Văn hóa Du lịch Bửu Long 10km) để được nằm nghỉ, cắm trại
hay picnic ngay trong vườn bưởi, và tự tay chọn hái những quả bưởi trĩu cành, để tận
hưởng vị ngọt thanh của đường hòa tan trong múi bưởi – một vị ngọt mát nhẹ nhàng giúp
cho tinh thần sảng khoái..
Không thể không nhắc đến chôm chôm, sầu riêng – hai thứ đặc sản của các vườn cây
Long Khánh.
Quả chôm chôm vỏ dày, thịt trắng trong, ngọt mát. Sầu riêng là loại đắt tiền nhất trong
các loại hoa quả Việt nam. Tên của loại quả này gắn liền với truyền thuyết về mối tình

không thành của chàng hoàng tử láng giềng và cô gái Nam Bộ Việt Nam. Sầu riêng vỏ
dày, cứng, có gai nhọn lởm chởm. Khi chín, chỉ cần dùng lưỡi dao tách nhẹ vào đường
rãnh vỏ là thấy ngay những múi sầu riêng vàng ngà, óng ánh như được phết bơ. Hương


sầu riêng rất đậm, quyến rũ đến lạ kỳ, bay rất xa và rất lâu tan trong không khí. Sầu riêng
đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Đồng Nai là tỉnh có ngành công nghiệp phát triển, toàn tỉnh có 120 công ty nhà máy với
72000 lao động. Riêng khu công nghiệp Biên Hòa là trung tâm công nghiệp lớn nhất tỉnh
được bao bọc một bên là sông Đồng Nai, một bên là xa lộ Hà Nội và một bên là tỉnh lộ
51 rất thuận tiện cho việc thông thương cả về đường thủy và đường bộ.
Khu Căn Cứ Long Bình
Khu căn cứ Long Bình nằm phía phải( góc đông bắc ngã 3 xa lộ), được xây dựng 1964
với diện tích ban đầu là 6km2, dùng làm kho chứa đạn và dụng cụ chiến tranh đầu tiên
gọi là kho Long Bình .
Tháng 4-1965 sau khi kiểm tra tình hình miền Nam Việt Nam, phái đoàn quân sự do Mac
Namara và Taylor cầm đầu đã quyết định xây dựng lại kho Long Bình năm 1986, mở
rộng gấp 4 lần so với trước là 24km2 và gọi là tổng kho Long Bình. Tổng kho Long Bình
lấy hàng từ cảng Sài Gòn, cảng Vũng Tàu, sân bay Biên Hòa và trở thành trung tâm cung
cấp vũ khí cho quân đội Mỹ và chư hầu. Tổng kho Long Bình có 6 hầm ngầm đủ chứa
150.000 tấn bom, đạn. Có 7 lớp rào bao bọc 72 tháp canh.
Đại siêu thị Big C
Được khánh thành ngày 18/8/1998 do tập đoàn Boubon của Pháp đầu tư với số vồn là 54
triệu USD, diện tích 20.000 m vuông. Siêu thị có trên hơn 20.000 mặt hàng và 90% hàng
hòa là sản xuất tại Việt Nam. Tập đoàn Boubon là một trong những tập đoàn lớn nhất của
Pháp về lương thực thực phẩm. Các dự ánBoubon đã đầu tư vào Việt Nam như nhà máy
đường Bourbon Tây Ninh-nhà máy thức ăn gia súc Boron trong quy hoạch phát triển tại
Việt Nam, Bourbon đã vạch rõ sẽ thôn tính toàn bộ hệ thống siêu thị Việt Nam với khách
hàng chủ yếu là tầng lớp trung lưu. Hiện nay tập đoàn Bourbon có 3 siêu thị lớn ở Việt
Nam: siêu thị An Lạc, siêu thị Cora Miền Đông-siêu thị Cora Hà Nội. Trước đây có tên là

Co Ra nhưng tập đoàn này đã bán lại cho một tập đoàn của Thái Lan.
Khu Công nghiệp Biên Hòa 1 và 2. Đây là khu công nghiệp được đầu tư xây dựng quy
mô khá lớn. Trước năm 1975, Mỹ đã xây dựng những khu công nghiệp này lên nhằm làm
cho nền kinh tế ta phát triển, hàng hóa của Mỹ chiếm độc quyền. Tại đây chuyên sản xuất
về các mặt hàng như: công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dày da, công nghiệp thực


phẩm, điện tử……và thu hút nhiều nhà đầu tư đến từ các nước như Nhật Bản, Đài Loan,
Hàn Quốc….Đặc biệt nhờ có biện pháp xử lý và đầu tư tốt cho nên mặc dù hai khu công
nghiệp này nằm bên đường quốc lộ nhưng không gây ô nhiễm môi trường.

Khu công nghiệp Biên Hoà 1
Khu công nghiệp Biên Hòa 1 được thành lập từ 1963 với tên gọi là khu kỹ nghệ Biên
Hòa, với tổng diện tích theo quy hoạch ban đầu là 511 ha. Theo các tài liệu để lại, ý đồ
của chính quyền Sài Gòn lúc đó là xây dựng một khu công nghiệp tập trung với định
hướng ưu tiên bố trí các nhà máy, xí nghiệp sử dụng nông phẩm và nguyên liệu trong
vùng, sản xuất hàng tiêu dùng và các cơ sở dịch vụ để giải tỏa dần các nhà máy, xí nghiệp
khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn với định hướng ban đầu là thiên về công nghiệp chế biến và
công nghiệp nhẹ. Sau khi được tiếp quản, khu kỹ nghệ có 95 xí nghiệp. Cơ cấu 95 xí
nghiệp phân thành các nghành như: công nghiệp nặng (điện, luyện kim, cơ khí) có 10 xí
nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng có 68 xí nghiệp, công nghiệp vật liệu kiến trúc xây
dựng 12 xí nghiệp.
Khu công nghiệp Biên Hoà 2
Ngành nghề thu hút đầu tư : thực phẩm và chế biến nông sản thực phẩm; may mặc và dệt
sợi; hàng nữ trang, mỹ nghệ và các loại mỹ phẩm; giày dép, dụng cu thể thao, các loại
bao bì cao cấp; sản phẩm công nghiệp từ cao su, gốm sứ, thuỷ tinh; lắp ráp điện tử, phụ
kiện máy tính, linh kiện điện tử; sản xuất dây điện các loại , đồ điện gia dụng; dược
phẩm, dụng cụ y tế và nông dược, thiết bị công nghiệp…
Khu công nghiệp Amata
Nằm cách tp.hcm 30km nằm cạnh khu công nghiệp Biên Hòa 2. Tổng diện tích 760 ha

được xây dựng qua 5 giai đoạn trong đó giai đoạn 1 xây dựng 100 ha chưa kể diện tích
xây dựng đường giao thông nối quốc lộ vào khu công nghiệp. Tại đây chuyên sản xuất về
các mặt hàng như: đầu tư cơ khí l uyện kim, may mặc, da dày, hóa chất, mỹ phẩm, điện
tử.
Khu Thiên Chúa Giáo Hố Nai
Khu Thiên Chúa giáo Hố Nai cách trung tâm thành phố Biên Hòa 3 km về phía Đông
Bắc, nằm trên giải đất dài 12 km với nhiều nhà thờ rải rác hai bên quốc lộ 1. Trước năm


×