Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Lịch sử mỹ ứng dụng: Chủ nghĩa cấu trúc Nga và phong cách De Still

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.06 KB, 7 trang )

I. Chủ nghĩa cấu trúc Nga - Constructivism
1. Constructivism là gì?
- Constructivism (Xu hướng Tạo Dựng/Chủ nghĩa Kết Cấu) là phong trào nghệ thuật và kiến trúc
xuất hiện tại Nga Thế Kỉ 20 (cụ thể trong giai đoạn từ 1915 đến 1940).
- Constructivism có sức lan tỏa nhanh chóng, giao lưu cũng như ảnh hưởng đến các tư
tưởng nghệ thuật, thiết kế và xây dựng khác trên thế giới như Chủ nghĩa Bauhaus, Phong
cách Destijl, Chủ nghĩa Công năng, Chủ nghĩa Tối giản (Minimalism) hiện đại...
2. Lịch sử hình thành và phát triển Chủ nghĩa Kết cấu Nga - Constructivism
* Lịch sử hình thành của Chủ nghĩa Kết cấu Nga - Constructivism
- Kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất và Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã hoàn toàn đổi
sắc. Một làn gió mới tràn đến làm thay đổi tư duy và sáng tác của các văn nghệ sĩ nói chung cũng
như giới kiến trúc sư nói riêng bấy giờ. Giữa bối cảnh đó, Chủ Nghĩa Kết Cấu (Construativism)
chính thức xuất hiện tại Nga. Construativism đi theo tinh thần của Chủ nghĩa Cộng sản, lý tưởng
cộng sản với việc đề cao nhân dân lao động tác động mạnh đến các kiến trúc sư Liên Xô thời đó.
- Chủ Nghĩa Kết Cấu được châu Âu biết đến lần đầu tiên vào năm 1925 tại Hội chợ quốc tế
Paris. Gian hàng Liên Xôvới sự đơn giản đến không còn gì có thể đơn giản hơn, nổi bật giữa
những gian hàng các nước châu Âu khác vốn phù hoa, phô trương sự giàu có, thừa mứa của chủ
nghĩa tư bản. Nhiều kiến trúc sư châu Âu lúc đó đã ngỡ ngàng trước gian hàng bé nhỏ này.
* Sự phát triển của Chủ nghĩa Kết cấu Nga - Constructivism
Chủ Nghĩa Kết Cấu tuy nhiên phát triển chỉ ngót nghét trong vòng 10 năm. Kể từ 1930,
nhân danh "nền nghệ thuật xã hội chủ nghĩa", Iosif Vissarionovich Stalin – Chủ tịch hội đồng bộ
trưởng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, ép các kiến trúc sư vào chủ nghĩa hình thức. Chủ
nghĩa Tín điều, độc đoán, bảo thủ đã chấm dứt sự tồn tại của Chủ Nghĩa Kết Cấu. Cũng chính vì
vậy, Chủ Nghĩa Kết Cấu bắt đầu âm thầm duy trì trong những phong cách nghệ thuật mang tên
gọi khác mà một trong số đó phát triển nên xu hướng thiết kế Công năng Tối giản hiện đại.

3. Đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa Kết cấu Nga – Constructivism
Chủ nghĩa Kết cấu Nga – Constructivism đề cao công năng, tính sử dụng, hướng
tới con người cũng như hướng tới sự đơn giản, hướng tới cái đẹp của hình khối, của sự chuyển
động, của kết cấu. Đó là một bước tiến rất lớn so với thế giới thời đó vẫn đang say sưa với chủ
nghĩa phục cổ, chủ nghĩa hình thức với những công trình đầy tính xa hoa, phô trương. Đây cũng


là những nền tảng của xu hướng thiết kế chức năng và thiết kế tối giản ngày nay.
Chủ nghĩa Kết cấu biểu hiện lên sự liên quan của các hình thức đơn giản trong
hình học và đúc kết lại những hình ảnh từ thiên nhiên trên cơ sở tỷ lệ. Theo lời nói của Cezanne:
trong thiên nhiên mọi thứ đều có những hình ảnh giống với hình cầu, hình nón, hình trụ...Hiệu
quả nghệ thuật của Chủ nghĩa Kết cấu chỉ duy nhất là sự quan hệ giữa hình khối và không gian,
mỗi một chức năng điều tương ứng với một mục đích yêu cầu ban đầu. Có thể nói, giàu tính hình
học và màu sắc cơ bản là nét nổi bật của chủ nghĩa này.
Chủ Nghĩa Kết Cấu là trào lưu đã gây một ảnh hưởng sâu rộng cho tất cả các
nghành nghệ thuật tạo hình ở Nga, đầu tiên là trên nghệ thuật điêu khắc, sau đó nó xuất hiện trên
nghệ thuật tạo hình khác. Trên công trình kiến trúc, nó tìm ý tưởng trong phép tích hợp của một
vài thành phần cấu trúc tương ứng. Các công trình kiến trúc của Chủ Nghĩa Kết Cấu tận dụng lợi
thế của các vật liệu mới với khung thép hỗ trợ cho các khu vực rộng bằng thủy tinh. Các khớp


nối giữa các bộ phận tòa nhà thì được coi như điểm nhấn chứ không che giấu. Nhiều tòa nhà có
cửa sổ lớn để cho nhiều ánh sáng chiếu vào và ứng dụng những vật liệu mới nhất của ngành công
nghiệp hiện đại.

4. Các kiến trúc sư và các tác phẩm tiêu biểu:
4.1. El Lissitzky (1890-1941)
EL Lissisky tên thật là Elizar Morduchivitch Lissisky, sinh ngày 23/11/1890 ở làng
Pochinok, Smolensk, gốc Do Thái. Trong số các nghệ sĩ Nga thuộc Trường phái tiên phong thì
EL Lissisky là một trong những nghệ sĩ toàn năng nhất. Nhận thức về nền kỹ thuật hiện đại đối
với ông là một yếu tố quyết định trong việc cảm nhận và Design nghệ thuật. Trong các bức tranh
của mình ông truyền bá ngôn ngữ Design cao cả của Malevisch, một loại thẩm mỹ kiểu ảnh thấu
kính, trong việc phác thảo các kiểu bìa sách, bàn ghế. Ông thiết kế các gian hang Xô viết ở các
Hội chợ quốc tế. Thông qua các cuộc dừng chân của ông tại Berlin và qua các cuộc tiếp xúc ở
nước ngoài, ông ra sức truyền bá các ý tưởng của Chủ nghĩa cấu trúc và thiết lập được mối liên
lạc với nhóm De Stijl, với Bauhaus và nhóm Dada.
Chấp nhận Chủ nghĩa công năng, phá bỏ vĩnh viễn các ranh giới nghệ thuật và nhất là

nhận thức rõ chức năng chính trị của nghệ thuật: đó là cống hiến vĩ đại của Chủ nghĩa cấu trúc
vào nền văn hóa của thế kỷ XX.
Phương án “Diễn đàn của Lenin” là một cột thép nghiêng trồng lên một đế bê tông lập
phương sơn màu sẫm. Trên cây cột nghiêng đó, ở độ cao chừng 7m có một bục diễn đàn, trên đó
có Lenin đứng nói chuyện với quần chúng. Tận cùng của cột nghiêng có gắn một bảng to trên đề
khẩu hiệu. Phương án rất giản dị, không một chút trang trí, không một đường cong, toàn bộ cấu
trúc ở tư thế động, vươn theo hướng nhô người ra của lãnh tụ.
Phương án “Vòng đạp mây” có tầm vóc và ý nghĩa lớn hơn nhiều. Đó là hai ngôi nhà
chọc trời theo dạng đặc biệt: ngôi nhà thứ nhất có dạng một trụ lớn, đặt phía trên là một nhà hai
tầng vươn ra xa hàng chục mét theo dạng conson. Ngôi nhà này phát triển trên không trung nối
với ngôi nhà sau cách ngôi nhà thứ nhất chừng 50m. Ngôi nhà thứ hai gồm một nhà lớn 3 tầng
khá dài đặt trên hai cột trụ lớn. Trong các cột trụ là giao thông theo chiều đứng gồm các hệ thống
thang máy và các hệ thống đường ống kỹ thuật khác. Phương án những ngôi nhà chọc trời phát
triển ngang dọc trên hệ thống cột đã đưa ra một dạng công trình kiến trúc cao tầng hiện đại, một
quan niệm mới về đô thị.

4.2. Vladimir Tatlin (1885 - 1953)
Vladimir Yevgrafovich Tatlin sinh tại Kharkiv, Ukraine ngày 25/12/1885, ông là con trai
của một kỹ sư đường sắt và cũng là một thi sĩ. Vladimir Tatlin khởi đầu sự nghiệp của đời mình
đầu tiên là một anh thương gia hàng hải, công việc này cũng đồng nghĩa là ông đã có rất nhiều
thời gian từng bôn ba tại hải ngoại. Vladimir Tatlin theo học trường hội họa, điêu khắc và kiến
trúc Moscow, ông phát triển tài năng kiến trúc của mình bắt đầu từ công việc vẽ các hình tượng ở
thành phố Moscow.
Khi Vladimir Tatlin đã trở thành một họa sĩ bậc thầy, thì cũng là lúc sự nghiệp kiến trúc
của ông bắt đầu nở rộ và những công trình thiết kế của ông đã tôn ông trở lên là một kiến trúc sư
nổi tiếng của nước Nga.
Đài Đệ Tam Quốc Tế do Vladimir Tatlin (1885 – 1953) sáng tác năm 1919. Tác phẩm
này chỉ mới ở dạng mô hình nhưng đã gây ảnh hưởng lớn lao trong nghệ thuật kiến trúc hiện đại.
Công trình là một khối hình chóp xoắn ốc bằng thép cao 400m. Bên trong hình chóp này có treo



ba khối lớn đó là ba phòng họp: một hình lập phương, một hình kim tự tháp và một khối trụ tròn.
Phương án kiến trúc này vào thời điểm đó là cách mạng nhất thế giới.
Tác giả đã đi trước thời đại khá xa, đã nhìn thấy trước những bước phát triển sau này của
kiến trúc hiện đại trong thời đại cơ khí hoá cao độ. Công trình có tính tư tưởng cao. Một khối
chóp đồ sộ nhưng thoáng nhẹ và vững chãi. Hai đầu xoắn ốc lớn tạo nên một đà phát triển mạnh
mẽ vút lên cao biểu thị sự phát triển của lịch sử loài người – theo quy luật biện chứng của chủ
nghĩa Marx – là phát triển theo hình xoắn ốc có những bước nhảy vọt cách mạng. Lá cờ đỏ chót
vót trên đỉnh chỉ rõ sự lãnh đạo của Quốc tế thứ III đưa nhân loại tiến lên. Phương án này có
phần nào giống tháp Eiffel ở cột chống choãi ra lồng trong hai dầm xoắn ốc và là điểm tựa cho
hai đầu này, lại có đôi chút hình ảnh của tháp Babel trong kinh thánh hay tháp Babilon
Nhưng ở công trình này không tĩnh như tháp Babilon và tháp Eiffen, nó vươn lên mạnh
mẽ bằng các xoắn ốc mềm mại uyển chuyển. Tính động của công trình không chỉ biểu hiện ở
hình ảnh tĩnh của một chuyển động vươn lên mà còn biểu hiện cụ thể với nghĩa đen của từ
“động” ấy. Ba khối đồ sộ treo trong khối xoắn ốc nhưng lại quay chung quanh trục của chúng
theo các nhịp điệu khác nhau.
Trong công trình này Tatlin đã tiên đoán sự ra đời của kiến trúc treo và nhất là của kiến
trúc động. Tuy mới chỉ là đồ án, là mô hình, nhưng Đài Đệ Tam Quốc Tế đã cổ vũ thế hệ kiến
trúc sư Xô viết trẻ tuổi trên con đường sáng tạo một nền kiến trúc Cách mạng.

4.3. Ivan Leonidov (1902-1959)
Một kiến trúc sư trẻ tuổi đầy tài năng và đặc biệt nhạy cảm của chủ nghĩa tạo dựng là
Ivan Leonidov (1902 – 1959). Leonidov xuất hiện như một ngôi sao sáng với bản thiết kế Học
viện Lênin năm 1927. Một khối cao vút cạnh một quả cầu khổng lồ. Những khối này được giữ
bằng hệ thống dây cáp. Quả cầu lớn là một giảng đường, nửa dưới là các bậc ghế ngồi, nửa cầu
trên là các mảng kính lớn lợp vào hệ dàn thép bố trí theo kinh tuyến và vĩ tuyến. Trong bản thiết
kế này Leonidov đã sử dụng kết cấu treo và động, triệt để tận dụng những thành tựu của kỹ thuật
hiện đại đưa vào phương án.
Năm sau ông đưa ra bản thiết kế Bộ công nghiệp và đồ án ngôi nhà Trung ương hội các
hợp tác xã. Hai bản thiết kế này là những ngôi nhà cao tầng hình hộp mỏng theo kiểu hình tấm

bản dựng đứng. Ra đời trước những ngôi nhà hiện đại ngày nay ít nhất vài chục năm, những bản
thiết kế này xác nhận tác giả trẻ tuổi đi trước thời đại rất lâu.
Năm 1930, Leonidov thiết kế một cung văn hoá với các công trình có hình khối chữ nhật
dài, hình kim tự tháp và một bán cầu lớn. Cách sắp xếp các khối rất nên thơ tạo sự tương phản về
tỉ lệ. Chỏm bán cầu lớn bằng kết cấu thép là một mẫu cho các chỏm cầu trắc địa nổi tiếng của
Buckminster Fuller sau này.
Không những nhạy bén với kỹ thuật hiện đại, tiên đoán được sự phát triển của nghệ thuật kiến
trúc sau này, mà Leonidov còn nhạy bén cả với nhu cầu của cuộc sống xã hội chủ nghĩa của nhân
dân. Ông để tâm nghiên cứu lý luận về Khu nhà ở XHCN và thể nghiệm trong bản đề án một khu
dân cư XHCN cạnh liên hợp luyện kim năm 1930. Bản thiết kế quy hoạch này được xác định
bằng một hệ đường theo ô cờ – phân ra các khu vực ở, sinh hoạt vui chơi, gửi trẻ, học hành, khu
vực cây xanh – đã có tác dụng lớn trong lý luận về tiểu khu nhà ở hoàn chỉnh XHCN.
Hầu hết các bản thiết kế của Leonidov đều mới nằm trên giấy, nhưng ảnh hưởng của chúng rất to
lớn, xác định rõ nét sự tìm tòi sáng tạo mạnh dạn và nhạy cảm với cuộc sống mới của thế hệ kiến
trúc sư Xô viết đầu tiên


4.4. Moisei Ginzburg (1892-1946)
Kiến trúc sư Moisei Ginzburg may mắn hơn, nhiều công trình của ông đã được xây dựng,
tồn tại đến ngày nay. Nổi tiếng nhất là ngôi nhà ở tập thể nhiều gia đình Narkomfin cộng tác
cùng kiến trúc sư P.Milinix – được xây dựng năm 1928 – 1929 trên đại lộ Novinski, Moscow.
Ngôi nhà có tầng dưới cùng là một hệ cột, bỏ trống không gian. Các tầng trên là các căn hộ.
Trong ngôi nhà này, cuộc sống công cộng đã được nghiên cứu thoả mãn theo tư tưởng đây là một
tiểu khu có căng tin, bếp tập thể, phòng thể dục, thư viện, vườn trẻ, vườn trên mái.

5. Kỹ nghệ gốm sứ và kỹ nghệ vải vóc
Phần lớn các nghệ sĩ làm việc hoặc giảng dạy tại các xưởng kỹ thuật - mỹ thuật cao cấp của nhà
nước hoặc từ năm 1927 trở đi trong các viện kỹ thuật - mỹ thuật cao cấp của nhà nước tại
Moscow. Tại nơi đây có các phòng tạo dáng kim loại, gỗ, vải vóc, và gốm sứ. Trước tiên nó
mang tên là Xí nghiệp quốc doanh nhưng từ năm 1925 đổi thành Xí nghiệp gốm sứ Lomonosov

và tạp cơ hội cho nghệ sĩ trẻ học hỏi kinh nghiệm qua sản xuất. Người chỉ đạo nghệ thuật của xí
nghiệp trong thời gian từ năm 1918 - 1923 và năm 1925 - 1927 là S. Tschechonin. Nhiều loại bát
đĩa mang các mẫu trang trí có ý nghĩa cao cả hoặc các mẫu trang trí có chủ đề về đề tài cách
mạng sau khi đưa vào áp dụng “ chính sách kinh tế mới” năm 1921 và vào cuối những năm 20
của thế kỷ XX chủ đề đó càng được quan tâm và nhấn mạnh.

6. Các mẫu trang trí trên vải.
Cả đối với ngành công nghiệp vải sợi, Ủy ban Xô viết cũng trông đợi là nó ngày càng
tăng cường phổ biến thông điệp cách mạng. Thế hệ nghệ sĩ vải lớp trước vẫn còn ưu tiên sử dụng
hình thể hình học phi vật thể của Chủ nghĩa cấu trúc và Chủ nghĩa tối thượng như là một biểu
tượng thẩm mỹ của một xã hội phi giai cấp và mang tính chất quốc tế.Sau này vào giai đoạn cuối
những năm 20 thế kỷ XX đặc biệt là lúc bắt đầu quá trình công nghiệp hóa do Stalin đề xướng
thì các nhà thiết kế mỹ thuật trên vải trẻ tuổi như L Raizer hoặc M. Nasarevskaja nỗ lực thực
hiện một quá trình vô sản hóa nghệ thuật. Họ chống lại các kiểu “mẫu hoa văn tư sản” cũng như
hình thể hình học bị lên án là “ hình thức” của Chủ nghĩa cấu trúc và tạo ra các kiểu hoa văn
mang tính vật thể nhằm truyền bá cương lĩnh của chủ nghĩa xã hội trong giới công, nông.
Các hình mẫu của nghệ thuật dân gian trang trí trên vải được thay thế bằng loạt hình ảnh
như: máy móc, máy kéo, các tiểu hồng quân và các công nhân làm việc theo tổ chức nhóm.
Nhưng trong đội ngũ các nghệ sĩ thiết kế đã nổ ra một cuộc tranh cãi gay gắt xung quanh việc
đưa vào ứng dụng các hình mẫu mang tính vật thể và tuyên truyền bởi lẽ quần chúng không chấp
nhận máy kéo và máy giặt là các mẫu trang trí trên vải. Vì thế, đến năm 1933 Ủy ban Xô viết đã
quyết định không tiếp tục sản xuất vải trang trí kiểu đó nữa.

7. Sự kết thúc của chủ nghĩa tạo dựng
Suốt những năm 1920, các kiến trúc sư Xô Viết đã phải tranh đấu về phong cách thiết kế
trong một thập niên đầy khó khăn – khi lý tưởng ban đầu của cuộc Cách mạng tháng Mười
nhường chỗ cho chính sách cực đoan của Stalin (Lenin mất năm 1924). Chủ nghĩa tạo dựng đã bị
Stalin và các cận thần bác bỏ vì có tính hiện thực xã hội. Các cuộc tranh luận chấm dứt khi Stalin
chấp nhận chủ nghĩa cổ điển Xô Viết từ khoảng năm 1935, và một chủ nghĩa cổ điển xa lạ đã
ngự trị bộ môn thiết kế kiến trúc ở Liên Xô. Mặc dù chủ nghĩa tạo dựng đã chết ở Liên Xô, nó đã

trở thành một thứ văn hoá thị giác đối với những nhà thiết kế tìm kiếm những hình thức biểu hiện
cấp tiến trong suốt thế kỷ XX.


8. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tạo dựng đến sự phát triển của kiến trúc hiện đại
Ảnh hưởng của chủ nghĩa tạo dựng rất to lớn. Nhà lý luận nghệ thuật Pháp hiện đại
Michel Ragon cho rằng ảnh hưởng của các nghệ sĩ và kiến trúc sư Liên Xô thời kỳ này với các
nền kiến trúc của Đức, Pháp, Hà Lan là đáng kể và thành quả kiến trúc Liên Xô từ 1920 đến
1930 là không có gì so sánh được.
Qua các cuộc gặp mặt của Lissitzky và Malevik với các đồng nghiệp ở trường
Bauhaus, chủ nghĩa tạo dựng Nga và trường phái Bauhaus có sự giao lưu về quan điểm nghệ
thuật tiến bộ, hơn nữa chủ nghĩa tạo dựng có ảnh hưởng đến các nghệ sĩ Bauhaus. Ảnh hưởng
qua lại của chủ nghĩa kết cấu Nga và trường phái Bauhaus thấy khá rõ ở hai phương án xuất hiện
gần như cùng một lúc là Cung lao động Moscow của anh em Vesnin và toàn báo Diễn đàn
Chicago của Gropius – có hình dáng bên ngoài sử dụng chung một ngôn ngữ kiến trúc.
Phương án Bộ công nghiệp của Leonidov (1928) báo hiệu sự ra đời sau này của
toàn nhà Liên hợp quốc ở Newyork do Le Corbusier phác thảo. Công trình nhà ở công cộng của
Ginzburg rõ ràng có ảnh hưởng đến phương án “Đơn vị ở” nổi tiếng của Le Corbusier ở
Marseille sau này (1959).
Đặc biệt Le Corbusier say mê chủ nghĩa tạo dựng Nga, ông đã sang Moscow
nhiều lần tham gia các cuộc thi kiến trúc quốc tế do Liên Xô tổ chức, giảng chuyên đề trong các
trường đại học và cộng tác với kiến trúc sư Liên Xô Nicolai Colly xây dựng một công trình lớn
tại Moscow gọi là “Lâu đài hợp tác”. Phương án dự thi Cung Xô Viết của Le Corbusier mang
đậm phong cách kiến trúc cuả chủ nghĩa tạo dựng Nga.
Chủ nghĩa tạo dựng đã đóng góp cho sự hình thành chủ nghĩa công năng châu Âu
– một trào lưu kiến trúc quan trọng bậc nhất của kiến trúc hiện đại thế giới. Không chỉ dừng lại ở
đó, chủ nghĩa tạo dựng Nga còn được hưởng những giờ phút tươi đẹp nhất ở phương Tây tư bản
suốt thập niên 1990, trong những công trình của những kiến trúc sư như Zaha Hadid và Daniel
Libeskind – với những hình thể góc cạnh có động năng thẩm mỹ rất mạnh mẽ.
Chủ nghĩa tạo dựng là một trang rực rỡ của lịch sử kiến trúc hiện đại thế giới.


--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

II. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT DE STIJL
1. De Stijl –Lịch sử hình thành và phát triển
"Nghệ thuật Hiện đại - Phong trào Phong cách De Stijl (trừu tượng hình học), Hà Lan,
1917 – 1931
Phong trào Phong cách The Style (tiếng Hà Lan: De Stijl, đọc là /də ˈstaɪl/) – còn có tên Tân Tạo
hình Neo-Plasticism – là phong trào nghệ thuật Hà Lan thành lập năm 1917 ở Amsterdam bao
gồm các họa sỹ và kiến trúc sư.
Chủ trương của phong trào Phong cách De Stijl là trừu tượng thuần túy và tính phổ quát,
tinh giảm chỉ còn các hình thể và màu sắc chính yếu; đơn giản hóa các kết cấu, đối tượng dưới
dạng các đường hướng ngang và dọc, hình chữ nhật và hình vuông (trừu tượng hình học), chỉ
dùng màu cơ bản đỏ, vàng, xanh dương và trắng đen, và mang tính bất đối xứng.


Phong cách Neoplasticism (hay còn được biết đến như Phong cách nghệ thuật thiết kế De
Stijl - Hà Lan) bắt đầu tại Amsterdam năm 1917 và kém ảnh hưởng vào năm 1931, do
nhóm các nghệ sĩ sinh sống tại Hà Lan sáng lập thông qua tạp chí De Stijl - diễn đàn của
các họa sĩ, kiến trúc sư, điêu khắc, các nhà lí luận, phê bình đại diện cho quan điểm mới
thời bấy giờ. Mặc dù không còn phát triển mạnh mẽ như thời kì hoàng kim của nó, Phong cách
Nghệ thuật De Stijl cho đến hiện nay vẫn là nguồn cảm hứng và là cơ sở của thiết kế Hà Lan hiện
đại.

2. Đặc trưng Phong cách Nghệ thuật De Stijl
* Trong nghệ thuật đồ họa
Trong nghệ thuật đồ họa, các tác phẩm thuộc Phong cách Nghệ thuật De Stijl tận dụng
những đường thẳng đen ngang dọc làm nền tảng. Bên cạnh sự giới hạn về yếu tố hình học còn
giới hạn về màu sắc: chỉ sử dụng màu cơ bản (vàng, xanh, đỏ) làm màu chủ đạo cùng với màu vô
sắc (đen, trắng, xám) bổ xung cho các màu cơ bản. Đây chính là đặc điểm khác biệt chỉ có thể có

ở Neoplasticism - De Stijl. Phong cách Neoplasticism - De Stijl chủ trương trừu tượng hóa, khái
quát hóa bằng cách giảm lược tối đa các yếu tố về hình thức và màu sắc - một yếu tố chủ chốt
của xu hướng thiết kế tối giản hiện đại đang hướng đến.
* Trong thiết kế đồ nội thất
Phong cách Nghệ thuật De Stijl có tạo dáng lắp dẫn các chi tiết với nhau, khoe rõ những
ghép nối, những mộng ghép nối. “Những cái bàn, những cái ghế của chúng tôi cũng như những
vật dụng khác đều là những bức tranh điêu khắc tính trừu tượng của các thiết bị trong tương lai”
– Theo Gerrit Rietveld...
* Trong kiến trúc
Phong cách kiến trúc Nghệ thuật De Stijl sử dụng không gian mở, không gian đa chức
năng, không gian mang tính ước lệ với những bức bình phong ngăn chia. Các phòng được
sử dụng qua các mặt vuông góc, mở rộng cả về bốn phía, sơ đồ mặt bằng bỏ ngỏ. Những bức
tường của ngôi nhà không khép kín không gian như những ngôi nhà cổ truyền, điều đó đã tạo ra
tính liên tục trong không gian ở trong cũng như ngoài nhà và dẫn tới bố cục mặt bằng được tự
do. Những bức tường lúc đó sẽ không xác định không gian mà chỉ chịu lực và phân chia khoảng
không, đúng với ý nghĩa cơ bản của chúng.

3. Nghệ sĩ và tác phẩm tiêu biểu của Phong cách Nghệ thuật De Stijl
Bức tranh Tổ hợp giữa đỏ, đen, xanh và vàng (1928) của Piet Mondrian: trong những
nhà nghệ thuật tiêu biểu củaphong trào De Stijl, lầu tiên phải kể tới hoạ sĩ Piet
Mondrian. Những bức tranh của ông là sự sắp đặt của những mảng màu cơ bản được tổ
hợp cùng với một hệ đường thẳng ngang và dọc màu đen.
Chiếc ghế đỏ – xanh (1918) của Gerrit Thomas Rietveld: Gerrit Thomas Rietveld, là kiến
trúc sư đồng thời cũng là nhà thiết kế đồ nội thất. Ông là một trong những người đầu tiên
đưa đồ nội thất vào công nghiệp sản xuất hàng loạt. Trong đó, chiếc ghế đỏ – xanh (red &
blue chair, 1918) là thành quả cụ thể của những lý thuyết mà nhóm De Stijl đề xuất. Các
yếu tố riêng lẻ ghép lại thành các phần của chiếc ghế hoàn toàn khác biệt so với những
chiếc ghế khác bị ràng buộc để tạo nên sự sắp xếp không gian. Chỗ ngồi và tựa lưng giống
như tách rời với phần khung, nhô lên phía trên và vượt ra phạm vi bên ngoài. Chiếc ghế



thống nhất được ý tưởng về thẩm mĩ hướng tới công năng, vừa là vật dụng vừa là một tác
phẩm nghệ thuật.
Ngôi nhà Schoder (1924) của Gerrit Thomas Rietveld: mặt tiền của ngôi nhà Schoder
được tổ hợp bởi những mảng tường nhà, tường ban công xắp đặt lệch. Cộng thêm vào đó
những thanh thép được sơn màu khác nhau như các điểm nhấn nhẹ nhàng tạo cho hình
thái của ngôi nhà rất linh hoạt không có cảm giác nặng nề như những ngôi nhà cổ truyền.
Cách thể hiện này được lập lại ở cả bên trong với sự tổ hợp màu rất nhạy cảm. Các mảng
màu không chỉ mang tính hình thức mà còn xác định không gian của từng công năng.
Chúng vừa phân chia không gian nhưng cũng không đánh mất đi sự liên tục xuyên suốt.

4. Sự tác động của Phong cách Nghệ thuật De Stijl đến thiết kế hiện đại
Nói đến sự tác động của phong cách De Stijl trong thiết kế hiện đại, có lẽ nên nhắc đến đầu
tiên sự ứng dụng màu sắc trong nhà của hai vợ chồng kiến trúc sư và họa sĩ Emmanuel Thirard
và Virginie Artaud. Việc ứng dụng màu sắc và khối theo kiểu De Stijl cho ngôi nhà không phải
là ngẫu nhiên. Để tạo ra sự linh hoạt và liên tục trong không gian thì đó là phương pháp rất hiệu
quả. Ngôi nhà cho chúng ta một bài học tuyệt vời về tính ứng dụng những tinh tuý văn hoá
truyền thống trong môi trường hiện tại.
Tác phẩm thiết kế theo Phong cách Nghệ thuật De Stijl có tính năng dưới dạng thiết kế chiều
hình học trừu tượng rất tốt trong việc cân bằng giữa vật liệu kim loại và không gian, tạo ra các
hiệu ứng bóng tuyệt vời với ánh sáng trực tiếp.



×