Tải bản đầy đủ (.doc) (287 trang)

Đề cương ôn tập và đáp án môn luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.52 KB, 287 trang )

MỤC LỤC
1.
Khái

Page
3

niệm....................................................................................
2.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
2.1. Khái niệm............................................................................
2.2. Đặc điểm...............................................................................
2.3. Nội dụng..............................................................................

3
3
5

3.

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân

3.1.
3.2.
3.3.
4.
5.

Khái niệm...........................................................................
Đặc điểm...............................................................................
6


Nội dung................................................................................
6
Xắc định tư cách chủ thể của cá nhân trong các quan hệ
pháp
luật
dân 7

sự.........................................................................
6.
Quyền

12
nhân

13

thân......................................................................
18
7.
Hộ tịch nơi cư trú của cá nhân
7.1. Hộ tịch...............................................................................
19
7.2. Nơi cư trú của cá nhân..........................................................
22
8.
Giám hộ
8.1. Khái niệm............................................................................
8.2. Điều kiện của cá nhân để trở thành người giám hộ..............
8.3. Các hình thức giám hộ........................................................
8.4. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.................................

8.5. Quản lý tài sản của người được giám hộ..............................
8.6. Thay đổi và chấm dứt giám hộ...........................................
8.7. Giám sát việc giám hộ........................................................
8.8. Hậu quả chấm dứt việc giám hộ..........................................
9.
Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú. Tuyên
27
bố mất tích. Tuyên bố chết.
9.1. Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú..............
9.2. Tuyên bố mất tích..............................................................
9.3. Tuyên bố chết....................................................................
36
Tài liệu tham khảo


1.
KHÁI NIỆM
Theo pháp luật dân sự Việt Nam, thì có sáu loại chủ thể của quan hệ pháp luật Dân sự.
Đó là: cá nhân, pháp nhân, các tổ chức, cơ quan công quyền, hộ gia đình và tổ hợp tác.
Trong các loại chủ thể nêu trên thì con người, những thành viên của xã hội là chủ thể có
vai trò quan trọng nhất. Khái niệm “cá nhân” trong pháp luật Dân sự Việt Nam được
dùng để chỉ “con người”, là cách để phân biệt với chủ thể “pháp nhân”.
Cá nhân bao gồm cả công dân, người nước ngoài, người không có quốc tịch, trong đó
công dân là loại chủ thể cá nhân chủ yếu của quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, để có
thể trở thành chủ thể thực sự của pháp luật Dân sự thì con người – hay gọi là “cá nhân”
phải có năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
2.
NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN
2.1. Khái niệm
Theo khoản 1 điều 14 của BLDS 2005 quy định: năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

là khả năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
Quyền dân sự là khả năng xử sự của người có quyền được pháp luật cho phép và
được bảo vệ bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. VD: quyền tác giả, quyền
đối với hình ảnh..
Nghĩa vụ dân sự là cách xử sự của người có nghĩa vụ được pháp luật quy định. VD:
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ...
Như vậy, năng lực pháp luật Dân sự của cá nhân là điều kiện cần để cá nhân có thể
tham gia các quan hệ pháp luật Dân sự và trở thành chủ thể của quan hệ đó.
2.2. Đặc điểm
1.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được nhà nước ghi nhận trong các văn bản
pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội;
vào hình thái kinh tế - xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là sự phản ánh địa vị pháp lý của cá nhân trong
xã hội được nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Địa vị pháp lý là thứ bậc
vị trí của cá nhân trong một xã hội có nhà nước , địa vị đó do nhà nước quy định mà
thông qua đó các cá nhân được hưởng những quyền nhất định. Được ghi nhân từ điều
14 đến điều 16 BLDS 2005
2


2.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật dân sự
Khoản 2 điều 14 BLDS quy định: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như
nhau” , không phân biệt tôn giáo, giới tính, thành phần xã hội…nói cách khác , mọi cá
nhân đều có khả năng như nhau về quyền và nghĩa vụ dân sự, không bị hạn chế bởi bất
cứ lí do nào .
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự chủ quan
của cá nhân mà chỉ là tiền đề để cho công dân có các quyền dân sự cụ thể. Tuy nhiên,
chủ thể không có khả năng hưởng quyền thì cũng không thể có quyền dân sự cụ thể

được.
Các cá nhân bao gồm cả công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch đều có thể
tham gia các quan hệ pháp luật dân sự khác nhau. Tuy nhiên, mỗi loại chủ thể cá nhân
tùy theo năng lực pháp luật của mình chỉ có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật
nhất định.
3.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính không thể tách rời , nó phát

sinh vào thời điểm người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết ( khoản 3 điều 14
BLDS 2005)
Mặc dù năng lực dân sự cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó
chết (Khoản 3 điều 14 ) nhưng có một số trường hợp được pháp luật quy định người
chưa sinh ra (bào thai) đã được hưởng một số quyền dân sự nhất định.
VD: theo điều 635 BLDS 2005: người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống và thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành
thai sau khi người để lại di sản chết.
4.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không phụ thuộc vào độ tuổi, khả năng

nhận thức, lý trí… mà nó gắn bó suốt đời mỗi cá nhân từ khi sinh ra cho đến khi chết
đi. VD: một người cho dù bị mất năng lực hành vi dân sự, thì họ vẫn có các quyền đối
với họ tên, xắc định giới tính, quyền sở hữu tài sản,...

3


5.


Điều 16 BLDS 2005 quy định: “năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không hề

bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định”
Mọi giao dịch dân sự nhằm mục đích hạn chế hoặc hủy bỏ năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân đều bị xem là vô hiêu, trừ trường hợp pháp luật quy định. Có 2 trường hợp
bị hạn chế :
Văn bản pháp luật chung quy định một loại người nào đó không được tham
gia các quan hệ dân sự cụ thể.
VD: người nước ngoài không có quyền sở hữu về nhà ở nên không được phép mua bán
nhà ở Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại điều 125, 126 Luật nhà ở về quyền sở hữu
nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Quyết định đơn hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
VD: tòa án ra quyết định cấm cư trú đối với một người nào đó trong khoảng thời gian
xác định. Tuy nhiên đây không phải là tước bỏ năng lực pháp luật dân sự mà chỉ là tạm
định chỉ khả năng này. Việc hạn chế này chỉ đối với một số quyền cụ thể mà không phải
là năng lực pháp luật dân sự nói chung.
*Tính bảo đảm của năng lực pháp luật dân sự
Khả năng có quyền và nghĩa vụ vẫn chỉ tồn tại là những quyền khách quan mà pháp luật
quy định cho các chủ thể . Để biến những “khả năng” này thành các quyền dân sự cụ
thể cần phải có những điều kiện khách quan cũng như chủ quan . Những điều kiện
khách quan là những điều kiện kinh tế, xã hội, những chính sách của Đảng và Nhà nước
thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể. Thiếu những điều kiện kinh tế, pháp lý này, các
quyền đó vẫn chỉ tồn tại dưới dạng “khả năng” mà không thể thành những quyền dân sự
cụ thể được . Nhà nước ta đang thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa tạo những điều kiện thuận lợi để phát
huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế nhằm đáp ứng ngày càng cao những nhu
cầu của nhân dân. Đây là những cơ sở chính trị, kinh tế, pháp lý quan trọng nhằm pháp
huy hiệu quả của nền kinh tế thị trường đồng thời hạn chế những mặt trái của nó. Nhà
nước tạo mọi điều kiện để đảm bảo năng lực pháp luật dân sự của công dân được thực
4



hiện , biến những “khả năng” đó trở thành thực tế . Tạo ra hành lang pháp lí thông
thoáng , mềm dẻo là tạo điều kiện cho khả năng biến năng lực pháp luật của cá nhân
thành các quyền năng dân sự cụ thể.
2.3.

Nội dung

Điều 15 BLDS 2005 quy định nội dung NLPLDS của cá nhân, theo đó cá nhân có các
quyền và nghĩa vụ như sau :
1- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản
Quyền nhân thân là quyền gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người
khác trừ trường hợp pháp luật quy định.
Quyền nhân thân được quy định từ điều 24 đến 52 BLDS 2005. Theo đó, quyền nhân
thân được chia làm 2 nhóm :
-

Quyền nhân thân không gắn với tài sản như quyền đối với họ tên, hình ảnh,

quyền xác định giới tính, quyền giữ bí mật về đời tư, danh dự nhân phẩm…
-

Quyền nhân thân gắn với tài sản là những quyền có thể mang lại lợi ích vật

chất nhất định cho các cá nhân như quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ…
Cá nhân không được lạm dụng quyền nhân thân để xâm phạm tới lợi ích nhà nước,
cộng đồng, quyền và lợi ích của cá nhân khác.
BLDS 2005 có chế tài bảo vệ các nhân thân : Yêu cầu người có hành vi vi phạm hoặc
yêu cầu tòa án buộc người có hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm quyền

nhân thân, xin lỗi, cải chính công khai, hoặc phải bồi thường thiệt hại về vật chất và
tinh thần.
2- Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản.
Quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể thực hiện
các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong những trường hợp nhất định.
Quyền sở hữu là một trong những quyền đặc biệt quan trọng của cá nhân vì thông qua
đó cá nhân có thể thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình. Các cá nhân có

5


quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp của chính mình và được pháp luật tôn trọng, bảo
vệ.
Cá nhân có quyền để lại di sản cũng như hưởng di sản thừa kế theo di chúc và theo
quy định của pháp luật.
Tại điều 16-1 chương II thiên thứ I của BLDS pháp có ghi: cơ thể người, các bộ phận
cơ thể người và sản phẩm từ cơ thể người không thể trở thành đối tượng của quyền tài
sản. Điều này trong quyền nhân thân gắn với tài sản không được đề cập đến. Hay những
vấn đề về ADN hay biến đổi gen, không được phép mang thai hộ được trình bày rõ
trong BLDS pháp thì trong BLDS Việt Nam trước nay chưa có nói tới nên quyền cá
nhân của con người tuy rộng nhưng con người vẫn không có pháp luật điều chỉnh cho
những vấn đề trên, xã hội con người chưa thể phát triển toàn diện.
BLDS Việt Nam tuy có chịu sự ảnh hưởng của những bộ luật trước hay của những nước
phát triển khác như Pháp, Nhât... nhưng do sự phát triển của đất nước, sự tiến bộ của
con người, xã hội nên chưa thể phát huy, theo kịp được luật pháp các nước.
3- Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch qua lại là biện pháp
quan trọng và thông dụng nhất làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền này
được thể hiện trong nguyên tắc của luật dân sự “ tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận”
và được thể hiện cụ thể trong phần thứ 3 của BLDS.

Ngoài ra, nghĩa vụ dân sự của chủ thể còn phát sinh từ các căn cứ khác: bồi thường thiệt
hại, thực hiện công việc không có ủy quyền....
Điều 15 quy định các nội dung chung nhất, chủ yếu nhất của NLPLDS là các quyền dân
sự mà chủ thể là cá nhân. Phù hợp với quan niệm pháp luật dân sự hiện đại, BLDS coi
quyền và cả nghĩa vụ dân sự là những nội dung hợp thành NLPLDS. Quyền nhân thân
và quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là quyền thực tế; còn quyền thừa kế, quyền
tham gia quan hệ dân sự là những quyền tạo căn cứ phát sinh những quyền thực tế khác.

6


Ví dụ quyền được mua, bán, thuê nhà tạo tiền đề có quyền sở hữu, quyền sử dụng ngôi
nhà mua được, thuê được.
3.
3.1.

NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN
Khái niệm

Theo điều 17 BLDS 2005: “ Năng lực hành vi dân sự cá nhân là khả năng của cá
nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự ”.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng thực tế của chủ thể nhằm thực hiện
nội dung năng lực pháp luật của chủ thể. Đây là điều kiện quan trọng để một cá nhân có
thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
3.2.


Đặc điểm: NLHV DS ở các cá nhân khác nhau là khác nhau
Năng lực hành vi thể hiện qua :


- Khả năng thực hiện quyền.
- Khả năng thực hiện nghĩa vụ.


Năng lực hành vi có 3 đặc điểm:

-

Tính điều kiện

NLHVDS của cá nhân không mặc nhiên xuất hiện khi cá nhân được sinh ra. NLHVDS
của cá nhân chỉ có được khi đáp ứng những điều kiện nhất định. Theo BLDS2005, dựa
trên những điều kiện nhất định mà một cá nhân có thể có NLHVDS đầy đủ , một phần,
NLHVDS bị hạn chế hoặc không có NLHVDS.
Các điều kiện để một cá nhân có NLHVDS bao gồm:
+ độ tuổi
+ tình trạng tâm thần
+ tình trạng phá tán tài sản
-

Tính có thể ủy quyền

Khác với NLPLDS, NLHVDS của cá nhân có thể tách rời với cá nhân. Đối với những
người có NLHVDS một phần hoặc bị hạn chế NLHVDS , thì NLHVDS của các cá nhân
đó được ủy quyền cho người khác – người đại diện theo pháp luật. Mọi giao dịch không
7


phù hợp với khả năng của người có NLHVDS một phần,NLHVDS hạn chế mà không
được sự đồng ý của người đại diện thì giao dịch đó có thể bị TA tuyên bố là vô hiệu

theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật.
-

Tính bảo vệ

Việc quy định NLHVDS của cá nhân nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
cho cá nhân trong giao dịch dân sự:
+ Đối với người có NLHVDS một phần, NLHVDS hạn chế, mất NLHVDS: tránh sự lợi
dụng của cá nhân , tổ chức khác nhằm chiếm đoạt tài sản khi có những căn cứ tuyên bố
hạn chế, mất NLHVDS đối với một cá nhân.
+ Đối với những người có quyền, lợi ích liên quan đến người có NLHVDS một phần,
NLHVDS hạn chế: đảm bảo quyền , lợi ích liên quan của họ đến người có NLHVDS
một phần, NLHVDS hạn chế, tránh sự phá tán tài sản chung của gia đình.
3.3.

Nội dung:

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào các yếu tố:




Độ tuổi
Khả năng nhận thức
Tình trạng sức khỏe thể chất

BLDSVN 2005 đã quy định về các mức năng lực hành vi dân sự như sau:







Người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
Người có năng lực hành vi không đầy đủ
Người không có năng lực hành vi dân sự
Người mất năng lực hành vi dân sự
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Xét theo độ tuổi thì điều 18 BLDS 2005 quy định “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là
người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên.”


Người có đủ NLHVDS

Cá nhân có NLHVDS đầy đủ khi đã phát triển đến mức độ hoàn chỉnh về trí tuệ, thể
chất, y học, tâm lý học, sinh lý học và các ngành học liên quan đã chứng minh thông
8


thường con người đạt được sự phát triển này khi đã thành niên đủ 18 tuổi, người dưới
18 tuổi chưa đạt được sự phát triển này nên chưa coi là người thành niên. Điều 18
BLDS quy định: “người đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là
người chưa thành niên”.
Việc xác định một người thành niên hay chưa là rất quan trọng, vì chỉ có người
thành niên mới là người có NLHVDS đầy đủ, trừ trường hợp có quyết định của tòa án
tuyên bố người đó mất, hạn chế NLHVDS. Việc xác định này cũng cần phải chính xác.
VD: một cá nhân sinh ngày 10/10/1992 thì 18 năm sau đến ngày 10/10/2010 cá nhân đó
mới được coi là người đủ 18 tuổi, là người thành niên.
Người có NLHVDS đầy đủ là người thành niên (người đủ 18 tuổi trở lên) và

không mắc bệnh tâm thần và các bệnh khác làm cho người đó không có khả năng nhận
thức và làm chủ hành vi dân sự của mình, hoặc không bị tòa án tuyên bố là bị hạn chế
NLHVDS.
Người có NLHVDS có đầy đủ tư cách chủ thể, có quyền tham gia vào các quan
hệ PLDS với tư cách chủ thể độc lập, tự chịu trách nhiệm về những hành vi của bản
thân và trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự mà người đó tham gia.
Người có NLHVDS đầy đủ có quyền tự do giao kết hợp đồng dân sự, có thể là
người đại diện theo PL hoặc ủy quyền cho hộ gia đình, tổ chức tham gia giao kết dân
sự, có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình…
So sánh với bộ luật dân sự Pháp ta thấy có một số điểm khác biệt :
Chương III Thiên thứ X có quy định về trường hợp “Có năng lực hành vi đầy đủ khi
chưa đến tuổi thành niên”
Người có đủ năng lực hành vi
-

Người chưa thành niên khi kết hôn thì đương nhiên được coi là có đầy đủ năng

lực hành vi.
“Sau khi hỏi ý kiến người chưa thành niên”, thẩm phán phụ trách giám hộ quyết
định công nhận năng lực hành vi đầy đủ cho người chưa thành niên trong trường hợp
9


trên, nếu có lý do chính đáng và theo yêu cầu của cha hoặc mẹ của người chưa thành
niên đó.
Trường hợp người chưa thành niên không còn cả cha lẫn mẹ thì cũng có thể
được công nhận là có năng lực hành vi đầy đủ theo thủ tục trên, theo yêu cầu của hội
đồng gia tộc.
Khi người chưa thành niên được công nhận là có đầy đủ năng lực hành vi thì được
phép xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự như người thành niên, sẽ không còn chịu

sự quản lý của cha và mẹ.
Tuy nhiên, đối với việc kết hôn hoặc nhận làm con nuôi người khác, người chưa thành
niên đó vẫn phải tuân theo các quy định như trường hợp chưa có năng lực hành vi đầy
đủ,và họ không được làm thương nhân.


Như vậy, có thể thấy BLDS Pháp quy định rất rõ ràng và đầy đủ các năng lực

hành vi dân sự của người chưa thành niên khi kết hôn hoặc khi được công nhận có năng
lực hành vi đầy đủ .Bộ luật dân sự của Việt Nam còn nhiều hạn chế so với các nước
khác

Người có NLHVDS một phần
Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác (theo khoản
1 điều 20 BLDS 2005 của Việt Nam).
Đây là nhóm đối tượng thuộc độ tuổi chưa thành niên có thể thực hiện một số giao dịch
có sự đồng ý của người đại diện( cha, mẹ hoặc người giám hộ.)
Phần lớn giao dịch của nhóm đối tượng này có đặc điểm:
-

Có giá trị nhỏ
Phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, học tập hàng ngày
Giao dịch tức thời, chủ yếu là hợp đồng mua bán trao đổi
Một số trường hợp giao dịch mang tính chất dài hạn như hợp đồng may đo quần

áo
10



Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản
riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.(khoản 2 điều 20 BLDS 2005 VN)
VD: một người đủ 16 tuổi và có có đủ số tiền mua 1 chiếc áo thì anh ta không cần có sự
đồng ý của ai để có thể mua cho mình 1 cái áo


Nhìn chung lứa tuổi này đang dần hoàn thiện về trí tuệ, thể chất để có thể thực

hiện một số giao dịch

Người không có NLHVDS
Người không có năng lực hành vi là những người chưa đủ 6 tuổi thuộc độ tuổi chưa
thành niên do người đại diện theo pháp luật xác lập có thể là cha mẹ hoặc người giám
hộ
Theo điều 21 BLDS 2005 của Việt Nam thì ”Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực
hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện
theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
Những người chưa đủ 6 tuổi hoàn toàn không có năng lực hành vi dân sự . Để bảo vệ
quyền và lợi ích của họ luật quy định người không có khả năng tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ dân sự nhất thiết phải được đại diện trong quá trình xác lập và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Tuy nhiên từ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống thì hơi bất tiện nếu như mọi giao dịch
nhỏ của trẻ em luôn đi kèm với bố mẹ.


Người mất NLHVDS


“Mất” NLHV được hiểu là đã có NLHV nhưng sau đó, sau một sự kiện vào đó khiến
cho người đó không còn có NLHV nữa.
Một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Tòa
11


án ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự dựa trên cơ sở kết luận
của tổ chức giám định. Mọi giao dịch dân sự của người mất NLHVDS đều do người đại
diện hợp pháp xác lập và thực hiện.
Người bị tòa án quyết định mất NLHVDS phải có người giám hộ (khoản 1, điều
22 BLDS 2005) người giám hộ đương nhiên của người mất NLHVDS được quy định
tại điều 62 BLDS2005. Trong trường hợp không có người giám hộ đương nhiên thì
UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị cử một tổ
chức đảm nhiệm việc giám hộ.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất NLHVDS thì theo yêu cầu của
chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án quyết định hủy bỏ
tuyên bố mất NLHVDS.


Như vậy, một người mất NLHVDS hay không phải có kết luận của tổ chức giám

định có thẩm quyền và bị tòa án ra quyết định tuyên bố mất NLHVDS dựa trên yêu cầu
của người có quyền và lợi ích liên quan
Hậu quả pháp lý: mọi giao dịch dân sự của người này đều do người đại diện hợp pháp
xác lập và thực hiện.


Người bị hạn chế NLHVDS


Theo điều 23 BLDS 2005 thì người bị hạn chế NLHVDS là người nghiện ma túy,
nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết
định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và phạm vi đại diện. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày để trách sự tổn thất do những người
này mang lại.

12


Người đại diện không được thực hiện các giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản của
người được đại diện, trong trường hợp người đại diện thực hiện giao dịch có liên quan
đến tài sản có giá trị lớn của người được đại diện thì phải được sự đồng ý của người
giám sát người giám hộ
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành
vi dân sự.
Tuy nhiên vẫn còn một số thiếu sót trong bộ luật này :
-

Nếu những người không nghiên ma túy, không nghiên các chất kích thích khác

nhưng thường xuyên phá tán tài sản của gia đình và của người khác thì tòa án có thể ra
quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hay không?
Bộ luật không quy định về việc hạn chế năng lực hành vi dân sự của người có
khuyết tật

So sánh với bộ luật dân sự Pháp ta thấy
Bộ luật dân sự pháp quy định thêm về những trường hợp đặc biệt mà pháp luật sẽ bảo
hộ:
-

Nếu người thành niên mà năng lực hành vi bị biến đổi khiến cho người đó lâm

vào tình trạng không thể tự mình thực hiện các quyền của mình thì được pháp luật bảo
hộ khi thực hiện những hành vi cụ thể hoặc được pháp luật bảo hộ liên tục.
Người thành niên do hoang phí, do lối sống vô độ hoặc do lười biếng mà rơi vào cảnh
nghèo túng hoặc không đảm bảo được việc thực hiện các nghĩa vụ gia đình cũng có thể
chịu sự bảo hộ của pháp luật.(điều 488 bộ luật dân sự Pháp)
-

Nếu khả năng về tinh thần của người đó bị suy giảm do bệnh tật, do tật nguyền

hoặc tuổi tác thì những quyền lợi của người đó được bảo đảm bằng một trong những
chế độ bảo hộ(điều 490 bộ luật dân sự Pháp)

13


=> bộ luật dân sự Pháp đã quy định rõ ràng hơn về những trường hợp bị hạn chế và
mất NLHV dân sự
4.

XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH CHỦ THỂ CỦA CÁ NHÂN TRONG CÁC QUAN

HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Việc xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong các quan hệ pháp luật Dân sự dựa trên

cơ sở năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự.
NLPL và NLHVDS không phải là những thuộc tính tự nhiên của con người mà xuất
hiện trên cơ sở quyết định của pháp luật, phụ thuộc vào ý chí nhà nước trong từng giai
đoạn phát triển của xã hội.
NLPL và NLHVDS tạo thành chủ thể quan hệ pháp luật, là những thuộc tính pháp lý có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chủ thể pháp luật chỉ có NLPL mà không có NLHV thì
không thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
NLPL là điều kiện cần, NLHV là điều kiện đủ cho cá nhân có thể tham gia quan hệ
pháp luật .
Tuy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng giữa NLPL và NLHVDS của cá nhân có
giới hạn rõ nét:


Thời

điểm

phát

sinh:

- Năng lực hành vi dân sự của cá nhân không có ngay khi cá nhân sinh ra mà phải đạt
đến độ tuổi nhất định (6 tuổi) mới bắt đầu có năng lực hành vi dân sự.

Tính

chất

- Pháp luật ghi nhận mọi công dân có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Bộ luật dân

sự quy định "mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau nghĩa là có tính
bình

đẳng

về

năng

lực

pháp

luật

dân

sự

giữa

các



nhân".

- Năng lực hành vi dân sự (của các cá nhân khác nhau là khác nhau) của cá nhân là
14



cá nhân tự tạo ra quyền, tự tạo ra nghĩa vụ, tự thực hiện các quyền và tự gánh chịu trách
nhiệm về hành vi của mình nên pháp luật không công nhận sự bình đẳng về năng lực
hành vi. Năng lực hành vi của cá nhân phụ thuộc vào độ tuổi khả năng nhận thức, khả
năng làm chủ hành vi.

Vị
trí,
vai

trò

trong

năng

lực

chủ

thể

- Năng lực pháp luật dân sự là điều kiện "cần" để cá nhân tham gia vào các quan hệ dân
sự.

Năng

lực

hành


vi

dân

sự



điều

kiện

đủ.

- Năng lực pháp luật dân sự mới là khả năng hưởng quyền còn năng lực hành vi dân sự
là "cầu nối" giữa năng lực pháp luật dân sự và quyền dân sự hiện thực hoá các nội dung
của năng lực pháp luật dân sự.
Liên quan đến NLPL cá nhân, BLDS đã quy đinh một số trường hợp ngoại lệ trong
quan hệ thừa kế. Người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành
thai trước khi người để lại di sản chết thì được xác định là người thừa kế.
Cá nhân chỉ có thể tự mình, tức là bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự khi cá nhân đó là người thành niên, tức là người từ đủ 18 tuổi trở lên
mà không bị mất NLHVDS hoặc bị hạn chế NLHVDS.
Đối với người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
phải được người địa diện theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hành ngày phù hợp với lứa tuổi.
Đối với trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tại sản riêng bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần
có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định

khác. VD: theo Điều 652 khoản 2, di chúc của người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 phải được
lập thành văn bản và phải được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Mọi giao dịch của người không có năng lực hành vi dân sự hoặc người mất NLHVDS
đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
15


5.

QUYỀN NHÂN THÂN

Với tư cách là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, cá nhân có hàng loạt các dấu hiệu và
thuộc tính tự nhiên và xã hội mà trên cơ sở đó, phân biệt các cá nhân với nhau và đồng
thời có ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của cá nhân đó. Các thuộc tính đó là: họ tên, quốc
tịch, độ tuổi, tình trạng gia đình,….. Từ những thuộc tính này, luật quy định mỗi người
tham gia vào quan hệ pháp luật với một tên (họ), nhất định (nhân danh mình) với quốc
tịch, độ tuổi và giới tính đã xác định. Các thuộc tính này được xác định ngay từ khi sinh
ra cùng với việc đăng kí khai sinh.
Các thuộc tính này gắn với nhân thân cá nhân và được pháp luật ghi nhận, trở thành các
quyền nhân thân của mỗi con người.
Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong
Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người
khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Quyền nhân thân là một khái niệm pháp lý chỉ quyền năng dân sự của cá nhân được
pháp luật ghi nhận.Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật dân sự là cụ thể hóa
quyền con người đã được quy định trong Hiến Pháp năm 1992.Quyền nhân thân gắn
liền với những giá trị tinh thần của con người và về nguyên tắc không thể chuyển giao
cho người khác.
BLDS Việt Nam năm 1995 đã ghi nhận các quyền nhân thân của cá nhân và các quyền
này được kế thừa, phát triển trong BLDS năm 2005. Quyền nhân thân là một khái niệm

pháp lý chỉ quyền năng dân sự của cá nhân được pháp luật ghi nhận.Quyền nhân thân
được quy định trong bộ luật dân sự là cụ thể hóa quyền con người đã được quy định
trong Hiến Pháp năm 1992. Một xã hội càng tiến bộ, phát triển bao nhiêu thì quyền
nhân thân của cá nhân càng được pháp luật tôn trọng và mở rộng bấy nhiêu. Cùng với
sự phát triển của đất nước, quyền nhân thân của cá nhân cũng ngày càng được công
nhận và bảo vệ cao hơn trong pháp luật Việt Nam. Từ Bộ luật Dân sự 1995 đến BLDS
2005, pháp luật đã mở rộng thêm quyền nhân thân của cá nhân từ 20 quyền lên thành 26
16


quyền nhân thân trong đó bổ sung thêm các quyền như quyền hiến bộ phận cơ thể;
quyền hiến xác, hiến các bộ phận trên cơ thể sau khi chết; quyền nhận bộ phận cơ thể
người; quyền xác định lại giới tính… Có thể nói đây là những cơ sở pháp lý quan trọng
trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền nhân thân của con người. Tuy nhiên các quyền
này chỉ được thực hiện trong y học, khám chữa bệnh mà không mang mục đích kinh
doanh, thương mại, tránh tình trạng biến các bộ phận cơ thể người thành hàng hóa.
Chúng ta có thể thấy những quyền nhân thân mới được bổ sung vào bộ luật Dân sự
2005 đã xuất hiện trong BLDS Pháp:
Điều 16-3:
“Chỉ được phép xâm phạm đến tính toàn vẹn của cơ thể người trong trường hợp cần
thiết (Luật số 99-641 ngày 27-7-1999, Điều 70) vì mục đích “chữa bệnh” cho người
đó.
Hoạt động trên phải được sự đồng ý trước của người đó, trừ trường hợp tình trạng của
người đó đòi hỏi phải tiến hành liệu pháp chữa trị nhưng người đó không thể đưa ra ý
kiến đồng ý.”
Điều 16-1:
“Cơ thể người, các bộ phận cơ thể người và sản phẩm từ cơ thể người không thể trở
thành đối tượng của quyền tài sản”
Các quyền nhân thân trên trong BLDS Pháp về tổng quan đều nói về vấn đề tôn trọng
cơ thể người nhằm bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trước và sau

khi chết. Ở Việt Nam xuất phát từ tình hình thực tế mà đưa ra quy định cho phù hợp
như quyền xác định lại giới tính…
Thừa nhận quyền hiến xác; hiến và nhận các bộ phận cơ thể
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, để duy trì sự sống, rất nhiều người bệnh cần
phải thay hay ghép một số bộ phận cơ thể (ví dụ như thay thận, ghép gan…) nên Điều
33 và 34 của BLDS đã cho phép cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thể của mình
khi còn sống, hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích chữa
17


bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Việc Nhà nước ta thừa nhận hành vi
này và xây dựng cơ chế pháp luật để điều chỉnh nó cũng là một hình thức đấu tranh có
hiệu quả chống tình trạng sử dụng các bộ phận người vì mục đích thương mại đang
manh nha xuất hiện.
Song song với điều đó là quy định “cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người
khác chỉ để chữa bệnh cho mình”. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là quyền hiến bộ phận cơ
thể người, quyền hiến xác, quyền hiến bộ phận cơ thể sau khi chết và quyền nhận bộ
phận cơ thể người không phải là quyền tự do không giới hạn. Luật nêu rõ: Việc nhận,
sử dụng bộ phận cơ thể của người khác vì mục đích thương mại bị nghiêm cấm.
Hóa giải mâu thuẫn giữa luật và tập quán
Yêu cầu của việc thực hiện các phẫu tích trên tử thi trong ngành y luôn là cấp bách
nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu, chữa bệnh. Nhưng thực tế vẫn đi ngược lại
mong muốn của ngành, vì việc mổ tử thi là vấn đề nhạy cảm và mang nhiều yếu tố tâm
linh đối với người á Đông. Đối với quyết định cho phép mổ tử thi cần phải được sự
đồng ý của cha mẹ, người giám hộ của người quá cố. Hơn nữa, khái niệm “người thân
thích” được quy định tại khoản 5 Điều 32 BLDS năm 1995 lại có thể hiểu theo nghĩa rất
rộng và chưa có văn bản nào giải thích cụ thể nên vừa gây khó khăn, ách tắc cho ngành
y




cả

với

những

gia

đình



yêu

cầu.

Để khắc phục bất cập, khoản 4 Điều 32 BLDS mới đã quy định các trường hợp cụ thể
được phép giải phẫu tử thi như sau:
“Việc mổ tử thi được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Có sự đồng ý của người quá cố trước khi người đó chết;
b) Có sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ khi
không có ý kiến của người quá cố trước khi người đó chết;
c) Theo quyết định của tổ chức y tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp
cần

thiết”.

Giới tính - chỉ được xác định lại, không được chuyển đổi
18



Việc chuyển đổi giới tính là vấn đề mới và rất phức tạp về mặt xã hội, mới chỉ xảy ra
rất ít trường hợp, chưa có tính phổ biến và chưa phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội ở
nước ta hiện nay. Do đó, cần phải có thời gian để tìm hiểu thực tế và nghiên cứu thêm
kinh nghiệm các nước khác trên thế giới và khu vực.
Tuy nhiên, từ thực tiễn là trong thời gian gần đây, một số nơi ở nước ta (ví dụ như
TP.HCM) có nhiều cuộc phẫu thuật nhằm xác định lại giới tính dẫn đến một yêu cầu
bức xúc về việc phải có pháp luật điều chỉnh về vấn đề này. Đáp ứng thực tiễn đó, Điều
36 BLDS đã quy định về việc xác định lại giới tính như sau:
“Cá nhân có quyền được xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một
người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh
hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về
giới

tính.

Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, BLDS quy định việc xác định lại giới tính của một người chỉ được thực hiện
trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình
chính xác, cần có sự can thiệp của y học để xác định rõ, chứ không quy định quyền
thay đổi giới tính. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế và truyền
thống

đạo

đức

của




hội

ta

hiện

nay.

Kèm theo việc xác định lại giới tính, việc thay đổi họ tên của cá nhân sau khi giới tính
đã thay đổi (ví dụ như từ nam chuyển sang thành nữ) là nhu cầu thực tế và chính đáng,
nhằm tránh gây nhầm lẫn trong cuộc sống. Từ đó, BLDS đã bổ sung quyền thay đổi họ,
tên trong trường hợp cá nhân đã thay đổi giới tính tại điều 27 như sau: Cá nhân có
quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong
trường hợp cá nhân đó đã được xác định lại giới tính.
Căn cứ vào nội dung các quyền nhân thân, quyền nhân thân của cá nhân có thể được
phân loại thành hai nhóm là quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không
gắn với tài sản. Phân loại này được thể hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS 2005.
19


- Quyền nhân thân không gắn với tài sản (phi tài sản)
Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định từ Điều 26 đến Điều 51
BLDS 2005. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản này được công nhận đối với
mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh
kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó. Các quyền nhân thân này thể hiện giá
trị tinh thần của chủ thể đối với chính bản thân mình, luôn gắn với chính bản thân người
đó và không dịch chuyển được sang chủ thể khác như quyền đối với họ tên, hình ảnh,
quyền xác định giới tính, quyền giữ bí mật về đời tư, danh dự, nhân phẩm,…

Ngược lại, các quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ được xác lập cùng với sự hình thành
của một tài sản vô hình (như tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu
dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, …). Đây là quyền nhân
thân của chủ thể đối với tài sản vô hình mà người đó sáng tạo ra. Các quyền nhân thân
này được quy định tại khoản 2 Điều 738 và mục a khoản 1 Điều 751 BLDS 2005.
Trong số các quyền này có một quyền có thể chuyển giao được sang cho chủ thể khác –
đó là quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm theo quy định tại
Khoản 1 Điều 742 BLDS 2005: “Công bố hoặc cho phép người khác công bố tác
phẩm”
Quyền nhân thân mang những giá trị xã hội và có những đặc điểm nhất định :
1. Quyền nhân thân thuộc về cá thể từ khi sinh ra hoặc do pháp luật quy định. Trong
thực tế tất cả mọi người đều có quyền này. Đây là một đặc điểm khác biệt để phân biệt
quyền nhân thân và quyền tài sản. Theo pháp luật, các quyền tài sản như quyền sở hữu
thì tất cả mọi người đều có quyền sở hữu nhưng trên thực tế nhiều người không có
quyền này. Quyền nhân thân được quy định như một thực tế chứ không phải sự thể hiện
của “khả năng” dân sự.
2. Quyền nhân thân không nằm trong tài sản của cá nhân. Tài sản ở đây được hiểu là
các vật mặc định hoặc tiền, các giấy tờ khác.
20


3. Quyền nhân thân về nguyên tắc không thể bị định đoạt và vì vậy không thể chuyển
nhượng. Đây là một vấn đề khá phức tạp trong lý thuyết về quyền nhân thân. Thông
thường, một quyền không thể bị định đoạt có nghĩa là không thể là đối tượng giao dịch.
Tuy nhiên, có quyền nhân thân thành quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân
thân phi tài sản.
4. Về nguyên tắc, quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường
hợp theo quy định của pháp luật.
5.


Quyền nhân thân của cá nhân theo quy định của pháp luật khá đa dạng nên hành vi

xâm phạm đến quyền nhân thân cũng khá đa dạng dưới những hình thức, mức độ khác
nhau. Để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả ngoài việc sử dụng nhiều
phương thức bảo vệ khác nhau còn phải áp dụng các biện pháp bảo vệ khác nhau như
biện pháp xử lý hành chính, biện pháp xử lý hình sự, biện pháp dân sự, biện pháp xử lý
kỷ luật. Trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đó thì biện pháp dân sự là một
trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả và được áp dụng phổ biến nhất.
Các biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân trong trường hợp bị xâm phạm được quy
định trong pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 25 BLDS thì cá nhân có quyền
nhân thân bị xâm phạm được áp dụng các biện pháp dân sự sau để bảo vệ quyền nhân
thân của mình như tự cải chính; yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi
vi phạm; yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Tự mình cải chính là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm được
áp dụng trong trường hợp người có hành vi trái pháp luật đưa ra những tin tức không
đúng xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Đây là biện pháp cho phép người
có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền nhân thân của mình, hạn chế
được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những tin tức không đúng ra gây
ra.
21


Yêu cầu người có vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm là biện pháp bảo vệ quyền nhân
thân của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền nhân thân bị xâm phạm.
So với biện pháp tự cải chính thì biện pháp này được áp dụng trong một phạm vi rộng
hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường
hợp người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành vi trái pháp
luật của họ. Nếu người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân không nhận thức được

hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm phải áp dụng
biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ được quyền nhân thân của mình.
Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
cũng là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường
hợp quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm. Đây là biện pháp bảo vệ quyền nhân
thân có hiệu quả vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ áp
dụng các biện pháp đủ mạnh do pháp luật quy định buộc người có hành vi trái pháp luật
xâm phạm đến quyền nhân thân chấm dứt hành vi đó. Trên thực tế, biện pháp này
thường được người có quyền nhân thân bị xâm phạm áp dụng trong trường hợp đã yêu
cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật nhưng không được đáp ứng. Trong các cơ quan Nhà
nước áp dụng biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thì Tòa án là cơ
quan có nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân chủ yếu và trong
việc áp dụng biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thì Tòa án áp dụng
có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, bảo vệ quyền nhân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ
được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và đòi hỏi người có quyền nhân thân bị
xâm phạm yêu cầu Tòa án bảo vệ phải chứng minh được quyền nhân thân của mình,
hành vi xâm phạm quyền nhân thân của họ là trái pháp luật.
Yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân
được thực hiện khi người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của
cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho họ. Nếu có hành vi trái pháp luật
22


xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần
thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp luật
bồi thường thiệt hại.
Nếu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không
chịu bồi thường thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án
hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.

Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân có quyền nhân thân bị
xâm phạm được thực hiện các biện pháp bảo vệ trên để bảo vệ quyền nhân thân của
mình. Việc áp dụng một hay nhiều biện pháp bảo vệ quyền nhân thân hoặc áp dụng
biện pháp bảo vệ quyền nhân thân nào là tùy vào trường hợp cụ thể quyền nhân thân bị
xâm phạm và do người có quyền nhân thân bị xâm phạm tự lựa chọn quyết định. Tuy
nhiên, việc lựa chọn được biện pháp bảo vệ phù hợp sẽ giúp cho việc bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân có hiệu quả.
6.
6.1.

HỘ TỊCH VÀ NƠI CƯ TRÚ CỦA CÁ NHÂN
Hộ tịch

Đăng kí hộ tịch là việc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện
sinh, tử, kết hôn ,ly hôn ,giám hộ, nuôi con nuôi , thay đổi họ tên,quốc tịch ,xác định
dân tộc, cải chính hộ tịch,và theo những quy định khác của pháp luật về hộ tịch.Đây
là những sự kiện pháp lý quan trọng để xác lập ,thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp
luật liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân như quyền sở hữu, quyền thừa
kế ..
Về khai sinh bộ luật dân sự quy định mọi người sinh ra đều có quyền được khai sinh,
không phân biệt con trong giá thú hay ngoài giá thú, để bảo đảm mọi người được khai
sinh của trẻ sơ sinh, pháp luật quy định cha, mẹ hoặc những người thân thuộc khác của
trẻ sơ sinh co trách nhiệm khai sinh cho trẻ sơ sinh ,trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi thì
cá nhân ,tổ chức nhận nuôi dưỡng phải khai sinh cho trẻ sơ sinh.
23


Việc khai tử, bộ luật dân sự xác định nguyên tắc khi có người chết, thì người thân
thích ,chủ nhà đó, đơn vị cơ quan , tổ chức nơi có người chết phải khai tử cho người đó.
Trong trường hợp trẻ sơ sinh, nếu chết sau khi sinh thì phải dược khai sinh và khai tử ;

nếu chết trước khi sinh hoặc sinh ra mà chết ngay ,thì không phải khai sinh và khai tử.
6.2.

Nơi cư trú của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành

Điều 48:
1-

Nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ

khẩu thường trú. Trong trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú và không có
nơi thường xuyên sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú và có đăng kí
tạm trú.
2Khi không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 điều
này, thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống, làm việc hoặc nơi có tài sản hoặc
nơi có phần lớn tài sản nếu tài sản của người đó có ở nhiều nơi.
3Cá nhân có thể lựa chọn một nơi khác với nơi cư trú của mình để xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nơi cư trú của cá nhân là một địa điểm riêng, trước hết đó là nơi hàng ngày diễn ra
những sinh hoạt cá nhân của một người. Nơi cư trú của cá nhân còn là nơi diễn ra
những mối liên hệ, quan hệ chủ yếu của người đó với chủ thể dân sự khác.
Dưới góc độ pháp luật dân sự, nơi cư trú của một người phải là nơi sinh sống thường
xuyên của người đó. Nơi sinh sống thường xuyên của một người, trước tiên phải là nơi
người đó có nhà ở hợp pháp. Nhà ở hợp pháp ở đây có thể là một ngôi nhà được tạo
dựng một cách thô sơ hay kiên cố, nhà ở riêng biệt hay chung cư…Bên cạnh yếu tố
“nhà ở hợp pháp, nơi sinh sống thường xuyên của một người phải là nơi người đó
thường xuyên sử dụng để phục vụ cuộc sống riêng tư của cá nhân và gia đình mình.
Đây chính là yếu tố để phân biệt nơi sinh sống thường xuyên của một người với nơi sản
xuất kinh doanh hay nơi làm việc của họ.
Để xem xét khía cạnh pháp lí của nơi cư trú ngoài việc xem xét cá nhân đó sinh sống

thường xuyên ở địa điểm này không, cần phải xem xét đến một yếu tố nữa đó là hộ
24


khẩu thường trú của họ. Nghĩa là, việc sinh sống thường xuyên của người này phải
được pháp luật công nhận bằng một loại giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
đó là sổ hộ khẩu. Muốn có được sự công nhận này, cá nhân phải đăng kí nhân khẩu
thường trú tại cơ quan công an có thẩm quyền và được cơ quan đó cấp sổ hộ khẩu. Hộ
khẩu thường trú làm cho khái niệm “nơi cư trú” có một đặc tính quan trọng, đó là tính
duy nhất. Nghĩa là một người trong cùng một thời điểm chỉ có thể có một nơi cư trú.
Đây cũng chính là tiêu chí để phân biệt “nơi cư trú” và “nơi ở”. Nơi ở của một cá nhân
là nơi người đó thực tế đến ở (thường xuyên hoặc không thường xuyên) nhưng với nơi
ở điều kiện về hộ khẩu thường trú không được đặt ra. Vì vậy, một người có thể có nhiều
nơi ở nhưng chỉ có thể có một nơi cư trú. Khi đăng kí đến một nơi cư trú mới, thông
qua việc đăng kí hộ khẩu – đương nhiên họ sẽ mất nơi cư trú cũ – thông qua việc cắt hộ
khẩu.
Chế định nơi cư trú không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối vơi từng cá nhân mà nó còn là
một trong những biện pháp quản lí hành chính hữu hiệu của nhà nước đối với công dân
của mình. Đối với cá nhân, chế định nơi cư trú là cơ sở để bảo đảm việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ công dân, là cơ sở đê phát sinh mối quan hệ của cá nhân đối với nhà
nước, ví dụ việc đăng kí cho trẻ mới sinh, thừa kế, li hôn…Đối với nhà nước, chế định
nơi cư trú là một biện pháp quản lí xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
Trong luật dân sự có ba cách thức xác định nơi cư trú, đó là:
a.
Nơi cư trú của một cá nhân được xác định theo nơi người đó thường xuyên sinh
sống và có hộ khẩu thường trú.
b.
Trong trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú và không có nơi thường
xuyên sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú hoặc có đăng kí tạm trú.

c.
Khi không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo hai cách trên thì nơi cư trú
là nơi người đó đang sinh sống, làm việc hoặc nơi có tài sản hoặc nơi có phần lớn tài
sản.

25


×