Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

BÀI THU HOẠCH bản chất và hiện tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.41 KB, 10 trang )

Triết học Mác – Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương
pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin kế thừa và
phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư
duy con người.
Với vai trò to lớn như vậy, việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo lí luận Triết học
Mác – Lênin nói riêng và Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung trong giai đoạn hiện nay
có ý nghĩa hết sức to lớn cả trong tư tưởng, nhận thức và hoạt động thực tiễn. Việc
vận dụng lí luận Triết học Mác – Lênin vào từng lĩnh vực vụ thể yêu cầu phải nắm
vững bản chất cách mạng, khoa học của lí luận cũng như tình hình thực tiễn để vận
dụng đúng đắn, sáng tạo, tránh rơi vào tình trạng dập khuôn máy móc, giáo điều…
Đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh cũng vậy, việc nắm vững cặp phạm trù bản
chất – hiện tượng có vai trò quan trọng trong nhận thức và vận dụng vào hoạt động
thực tiễn.
I. Phạm trù bản chất và hiện tượng:
1. Khái niệm:
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối
ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển cuả sự vật đó. Còn
hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài.
Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách
quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những
hiện tượng ấy. còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của hiện
thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.
- So sánh bản chất với cái chung và quy luật:
Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo nên
bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các sự vật đó.


Tuy nhiên, không phải cái chung nào cũng là cái bản chất vì bản chất chỉ là cái chung


tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển sự vật.
Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Nói đến bản chất của sự vật
là nói đến tổ hợp những quy luật quyết định sự vận động và phát triển của nó. Vì vậy,
bản chất là phạm trù cùng bậc với phạm trù quy luật. Lênin viết: “Quy luật và bản
chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một bậc), hay nói đúng hơn, là cùng
một trình độ, những khái niệm này biểu hiện con người nhận thức ngày càng sâu sắc
các hiện tượng, thế giới”.
Tuy bản chất và quy luật là những phạm trù cùng bậc, nhưng chúng không
hoàn toàn đồng nhất với nhau. Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp
lại và ổn định giữa các hiện tượng hay giữa các mặt của chúng. Còn bản chất lại tổng
hợp tất cả các liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, nghĩa là ngoài
những mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, chung cho nhiều hiện tượng, nó còn bao gồm
cả những mối liên hệ tất nhiên, không phổ biến, cá biệt nữa. Như vậy, phạm trù bản
chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật.
2. Sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng:
Những người duy tâm chủ quan cho rằng, bản chất chỉ là một điều bịa đặt, một
tên gọi trống rỗng. Còn hiện tượng cho dù được thừa nhận là có tồn tại, nhưng theo
họ đó chỉ là tổng hợp các cảm giác, nghĩa là chỉ tồn tại trong chủ quan con người.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại thực
sự của bản chất, nhưng lại xem đó là tinh thần
Trái với các quan điểm trên đây – những quan điểm không được các tài liệu
của khoa học và thực tiễn xác nhận – chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả bản
chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan. Giải thích quan điểm này: đó là vì bất kỳ
sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào
những mối liên hệ qua lại đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ
tất nhiên tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật. Sự
vật tồn tại khách quan và những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định này ở bên
trong sự vật, nên đương nhiên chúng cũng tồn tại khách quan, tức là bản chất của sự



vật cũng tồn tại khách quan. Kết luận này cũng đúng cho hiện tượng vì hiện tượng chỉ
là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài.
3. Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
a. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng không những tồn tại khách quan, mà còn ở trong mối
liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Mỗi sự vật đều
là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở
chỗ bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự
biểu hiện của bản chất. không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần
có hiện tượng. Ngược lại cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu
hiện của một bản chất nhất định. Nhấn mạnh mối liên hệ không tách rời giữa bản chất
và hiện tượng, Lênin viết: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính chất bản chất”.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ: Bất kỳ bản chất
nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện tượng nào cũng
là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó hoặc nhiều hoặc ít.
Nói cách khác, bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với nhau. Ví dụ,
trong các xã hội có giai cấp, bất kỳ nhà nước nào cũng là một bộ máy trấn áp của giai
cấp này đối với giai cấp khác. Bản chất ấy thể hiện ở chỗ bất kỳ nhà nước nào cũng
có quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù, v.v. Tất cả bộ máy này đều nhằm mục đích trấn
áp sự phản kháng của giai cấp khác để bảo vệ quyền lợi kinh tế và chính trị của giai
cấp thống trị.
Như vậy, bản chất bao giờ cũng tự bộc lộ ra thông qua những hiện tượng nhất
định. Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra thành những loại hiện tượng khác nhau. Khi
bản chất thay đồi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến
mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng biến mất. Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản
chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động và phát triển của sự vật với những
biểu hiện muôn hình, nghìn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều biểu
tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.



b. Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng tuy thống nhất với nhau, nhưng đó là sự thống nhất
biện chứng, nghĩa là trong sự thống nhất ấy đã có bao hàm sự khác biệt. Nói cách
khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau về căn bản phù hợp với nhau,
nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn. Vì sao vậy? Vì bản chất của
sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua tương tác của sự vật ấy với các sự vật
xung quanh; các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến
hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định. Kết quả là
hiện tượng tuy biểu hiện bản chất nhưng không còn là sự biểu hiện y nguyên bản chất
nữa.
Hiện tượng không phải bao giờ cũng trùng khớp hoàn toàn với bản chất. Sự
không hoàn toàn trùng khớp đó khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn. tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa
bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
– Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. vì vậy, cùng một bản chất có thể
biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của điều
kiện và hoàn cảnh. Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào
bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện. chính vì
thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất; ngược lại, bản chất lại sâu sắc hơn hiện
tượng.
– Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất, về cơ bản phù hợp với bản chất
nhưng không bao giờ phù hợp hoàn toàn. Chúng biểu hiện bản chất không phải dưới
dạng y nguyên như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã cải biến, nhiều khi xuyên
tạc nội dung thực sự của bản chất. .
Như vậy, bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của sự vật, còn
hiện tượng là sự biệu hiện của bản chất đó ra bên ngoài, nhưng biểu hiện dưới hình



thức đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất. Mác nhận xét: “Nếu hình thái biểu và
bản chất của sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”.
Vì vậy, khi xem xét sự vật, ta không thể dừng lại ở biểu hiện bề ngoài mà phải đi sâu
vào tìm hiểu bản chất của nó.
Nhưng quá trình tìm hiểu bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp, lâu
dài. Đó là quá trình con người đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc
hơn đến bản chất sâu sắc hơn và cứ thế tiếp tục mãi. Khi nhấn mạnh tính chất vô tận
của quá trình này, Lênin viết: “ Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô tận, từ
hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất
cấp hai, v.v…, cứ như thế mãi”
– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn định,
nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Đó là do nội dung của hiện
tượng không chỉ được quyết định bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điền
kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động quay lại của nó với các sự vật. Các điều
kiện tồn tại bên ngoài cũng như sự tác động quay lại của sự vật này với các sự vật
khác xung quanh lại thừong xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng cũng thường xuyên
biến đổi, trong khi đó bản chất vẫn giữ nguyên.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là từ lúc ra đời cho đến khi mất đi, bản chất
vẫn giữ nguyên như cũ. Bản chất cũng thay đổi Lênin viết: “Không phải chỉ riêng
hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có
tính ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế”. Chỉ có điều bản chất biến đổi
chậm hơn hiện tượng.Trong toàn bộ sự thay đổi, phát triển của sự vật các hiện tượng
luôn luôn biến đổi còn bản chất về căn bản vẫn giữ nguyên như cũ. Nó có thay đổi
nhưng thay đổi ít hơn, chậm hơn so với hiện tượng.
c. Mối quan hệ giữa cặp phạm trù bản chất và hiện tượng với “cái chung”,
“cái riêng”:
Việc tìm hiểu cặp phạm trù “sự vật” và “thuộc tính” là cơ sở để tìm hiểu cặp
phạm trù trong “cái riêng” và “cái chung”, bên cạnh đó, việc tìm hiểu cặp phạm trù



“cái riêng” và “cái chung” lại là cơ sở để tìm hiểu cặp phạm trù “hiện tượng” và “bản
chất”.
Để trả lời câu hỏi : “hiện tượng và bản chất là gì?”, chúng ta không những cần
phải xác định quan hệ giữa “hiện tượng” với “bản chất”, mà còn cần phải xác định
quan hệ giữa “hiện tượng”, “bản chất” với các phạm trù khác, trước hết với cặp phạm
trù “cái riêng” và “cái chung”.
Quan hệ giữa hiện tượng với cái riêng có thể được xem giống như quan hệ giữa
sự vật với cái riêng: cái riêng là hiện tượng, hiện tượng là cái riêng (một cái riêng là
một hiện tượng, một hiện tượng là một cái riêng).
Khi xét quan hệ giữa “cái chung” với “bản chất” cần xét “cái chung” và “bản
chất” với tính cách là những phạm trù của phép biện chứng, chứ không phải với tính
cách là những khái niệm của các bộ môn khoa học khác, hoặc của ngôn ngữ hàng
ngày.
Từ nghiên cứu lí luận Triết học Mác – Lênin về cặp phạm trù bản chất – hiện
tượng, rút ra được một số ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng vào trong lĩnh vực
sản xuất và kinh doanh, đó là:
II. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh:
a. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, qui định sự
vận động và phát triển của sự vật, còn hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất ra bên
ngoài, là cái không ổn định và biến đổi nhanh hơn so với bản chất nên trong nhận
thức,để hiểu đầy đủ và đúng đắn về sự vật, không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải
đi sâu tìm hiểu bản chất của nó. Còn trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào bản chất
chứ không phải dựa vào hiện tượng.
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn cần nắm được bản
chất và dựa vào bản chất của sự vật, thì nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận
thức khoa học nói riêng là phải vạch ra được cái bản chất đó.



Bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra
bản chất của sự vật ở trong chính sự vật chứ không thể ở ngoài nó, và khi kết luận về
bản chất của sự vật cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra ngoài
thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản chất trên
cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
Nhưng vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến
nhiều khi xuyên tạc bản chất, nên trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải
xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng trong
một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định không bao giờ có thể xem xét hết
được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, phải ưu tiên cho việc
xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Dĩ nhiên, kết
quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật, mà
mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình đi vào nắm bắt các cấp độ
tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự vật là một quá trình hết sức
khó khăn, lâu dài, công phu, không có điểm dừng. Cũng vì lẽ đó, khi kết luận về bản
chất của sự vật cần hết sức thận trọng.
b. Vận dụng vào trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh:
Khi nghiên cứu về khái niệm bản chất và hiện tượng, chúng ta có thể nhận thức
được bản chất của các hình thái kinh tế - xã hội với các phương thức sản xuất khác
nhau. Thấy được bản chất ưu việt, cách mạng, tiên tiến của Chủ nghĩa xã hội, nhận
thức rõ và phê phán bản chất bóc lột của Chủ nghĩa tư bản và các quan điểm tư tưởng
sai trái. Từ đó vận dụng vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ khi nghiên cứu thấy được, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản. Theo quy luật này, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ
được tiến hành khi nó bảo đảm sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư
bản trên cơ sở tăng cường bóc lột lao động làm thuê dưạ vào việc mở rộng sản xuất
và phát triển kỹ thuật. Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật chi phối toàn bộ



quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Nói cách khác, nó
đồng thời nói lên bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa – một nền sản xuất
nhằm sản xuất giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt, thể hiện sâu sắc bản chất bóc lột
của Chủ nghĩa tư bản.
Bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng dư, bản chất đó được thể
hiện ở rất nhiều thủ đoạn của giai cấp tư sản như tích cực áp dụng khoa học kỹ
thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới phương pháp quản lý, thậm chí tăng lương và cải
thiện đời sống, điều kiện làm việc cho công nhân…để nhằm mục đích nâng cao giá
trị thặng dư cho giai cấp tư sản, cho nên nếu không tìm hiểu kỹ sẽ không thấy được
bản chất thật sự của giai cấp tư sản mà chỉ thấy những biểu hiện bề ngoài của nó,
không có được sự đánh giá toàn diện đúng đắn về giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư
bản.
Không chỉ vậy, cần nhận thức rõ tính đấu tranh, mâu thuẫn của sự thống nhất
biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Để từ đó nhận thức rõ về bản chất của hoạt
động sản xuất – kinh doanh trong các hình thái kinh tế - xã hội, đặc biệt là Chủ nghĩa
tư bản.
Ví dụ, giá trị của hàng hóa do lượng lao động xã hội cần thất đã chi phí để sản
xuất ra nó quyết định, trong khi đó , nhìn theo những hiện tượng bề ngoài thì hình
như nó do quan hệ cung – cầu quyết định. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quan hệ
giữa nhà tư bản và công nhân nhìn bề ngoài là một quan hệ rất sòng phẳng giữa một
bên mua sức lao động và trả tiền dưới hình thức trả lương. Còn bên kia bán sức lao
động và nhận tiền dưới hình thức nhận lương, trong khi đó thực tế là nhà tư bản đã
bóc lột công nhân.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thì bản chất
của chế độ tư bản chủ nghĩa đã biến đổi ít nhiều .Nếu trong giai đoạn trước độc
quyền, tự do cạnh tranh và xuất khẩu hàng hóa chiếm địa vị thống trị, thì trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa,tư bản độc quyền đã thay thế cho tự do cạnh tranh ,quy luật
lợi nhuận tối đa thay thế cho qui luật thu nhập bình quân, xuất khẩu hàng hóa bị

chèn ép và xuất khẩu tư bản chiếm địa vị thống trị v.v .Mặc dầu vậy, về căn bản, bản


chất của chủ nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên như cũ, tức là vẫn chưa vượt ra ngoài
khuôn khổ của hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thông qua nhận thức rõ vai trò to lớn của Triết học Mác – Lênin nói chung,
cặp phạm trù bản chất – hiện tượng nói riêng, rút ra được những ý nghĩa phương pháp
luận to lớn để vận dụng vào trong hoạt động và sản xuất kinh doanh trong thời đại
hiện nay. Yêu cầu phải luôn quán triệt sâu sắc lí luận, đứng vững trên lập trường,
quan điểm của giai cấp công nhân, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong hoạt động
thực tiễn, từ đó bổ sung, phát triển lí luận. Quá trình này đòi hỏi phải tiến hành
thường xuyên, liên tục, có tính sáng tạo, đổi mới, luôn luôn cảnh giác trong xem xét,
đánh giá các sự vật, hiện tượng trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, thấy được
bản chất sâu xa và hiện tượng bề ngoài của nó. Tích cực đấu tranh, phê phán các quan
điểm, nhận thức sai trái trong hoạt động nhận thức lí luậnvà thực tiễn nói chung cũng
như hoạt động sản xuất – kinh doanh nói riêng, góp phần xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vững mạnh.




×