Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Ngữ văn 10 đề, đáp án trại hè hùng vương lần thứ XII năm 2016 trường chuyên hạ LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.04 KB, 6 trang )

TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG LẦN THỨ XII

ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN

TRƯỜNG THPT CHUYÊN HẠ LONG

LỚP 10

TỈNH QUẢNG NINH

Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề)
(Đề này có: 01 trang, gồm: 02 câu)
ĐỀ THI ĐỀ XUẤT

Câu 1 (8 điểm)
Người vá trời lấp bể
Kẻ đắp lũy xây thành
Ta chỉ là chiếc lá
Việc của mình là xanh
(Nguyễn Sĩ Đại)
Hãy viết bài văn chia sẻ suy nghĩ của mình về quan điểm sống của tác giả đặt
ra trong bài thơ trên.
Câu 2 (12 điểm)
Viên Mai, nhà thơ, nhà lí luận phê bình văn học nổi tiếng của Trung Quốc
quan niệm: “Thơ là cái do tình sinh ra” và đó phải là tình cảm chân thật.
(Trích Viên Mai bàn về thơ – Phần Tiểu dẫn - Ngữ văn 10 Nâng cao,
Tập I, trang 208)
Anh / chị hãy bình luận ý kiến trên. Làm sáng tỏ quan điểm của mình qua bài
thơ Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) của Nguyễn Du.
Lưu ý: Thang điểm 20
.............HẾT.............


Người ra đề

Hoàng Thị Liên
(ĐT liên hệ: 0169.696.6816)


HƯỚNG DẪN CHẤM
MÔN: NGỮ VĂN , LỚP: 10
Lưu ý: Các cách giải khác hướng dẫn chấm, nếu đúng, cho điểm tối đa theo thang điểm
đã định.
Câu

Nội dung
1. Giải thích ý nghĩa bài thơ

1

Điểm
2,0

- Tác giả đặt ra một đối lập giữa “người”, “kẻ” với “ta”:
+ Nếu “người” và “kẻ” (chỉ những người khác) đều muốn làm
những việc lớn lao là “vá trời lấp bể”, “đắp lũy xây thành” – cách nói
khoa trương để chỉ những ước muốn to lớn, thậm chí phi thường của con
người…
+ Thì “ta” – chỉ đơn giản ý thức một cách khiêm tốn và thực tế “chỉ
là chiếc lá” bé nhỏ
 Hai hình ảnh đối lập giữa “ta” và người khác trong bài thơ của
Nguyễn Sĩ Đại đã nêu lên một quan điểm sống của chính tác giả: Mỗi
người đều có mơ ước riêng của mình, có người mơ ước lớn lao, còn có

người chỉ bình dị, nhỏ bé.
- Trong cách nói của “ta”: “chỉ là chiếc lá” có sự phân biệt giữa bản thân
và người khác: “chỉ là” – một sự tự nhận thức về bản thân đúng mức,
không ồn ào, không ảo tưởng hay huyễn hoặc về mình.
- Nhưng dù “chỉ là chiếc lá”, bản thân “ta” vẫn ý thức được “việc của
mình là xanh”, như một lẽ tất yếu trong cuộc đời: chim phải hót và lá
phải xanh
 Quan điểm của tác giả trong bài thơ, là ý thức về cái tôi cá nhân, dù chỉ
là một cá thể nhỏ bé, không có những mơ ước phi thường, cũng vẫn phải
ý thức được ý nghĩa sự sống của mình trong cuộc đời: là cống hiến.
2. Bàn bạc và chứng minh ý kiến
- Trong cuộc đời mỗi người đều có quyền có những mơ ước của riêng
mình. Có người có những mơ ước kì vĩ, lớn lao “dời non lấp bể”, “đắp
lũy xây thành”. Lại có người chỉ mơ ước bình dị, thiết thực: có một gia
đình bình yên; có một công việc ổn định…
- Suy nghĩ của Nguyễn Sĩ Đại từ góc độ cá nhân, tự ý thức về bản thân: bé
nhỏ, thậm chí có thể khuất lấp giữa muôn người chỉ như chiếc lá bé nhỏ…

4,0


Nhưng dù “chỉ là chiếc lá” vẫn phải sống bằng đời của lá, nghĩa là “phải
xanh”, phải ý thức đúng về bổn phận và trách nhiệm của mình với cuộc
đời.
- Ý thức về bản thân một cách đúng đắn là suy nghĩ tích cực. Suy nghĩ ấy
khiến con người không tự huyễn hoặc hay ảo tưởng về bản thân; không
mơ ước xa vời, phù phiếm. Đây là biểu hiện sự từ tốn ngay từ ước mơ:
không qua lớn lao ngoài năng lực của mình; dù nhỏ bé nhưng không có
nghĩa là vô nghĩa. Vì nhỏ bé, nên mơ ước dề trở thành hiện thực, mang
đến niềm vui sống cho con người...

(Chứng minh bằng những mơ ước của bản thân và những người xung
quanh)
- Nhưng dù thế nào, là người làm nên những điều lớn lao, hay chỉ là cá
nhân bình thường, khuất lấp, bản thân mỗi người cũng cần tự ý thức về sự
cống hiến của mình: phải làm nên những điều có ích cho cuộc sống, dù
nổi bật, hay lặng thầm…
(Chứng minh:
+Những người “vá trời lấp bể”, “đắp lũy xây thành” ai cũng biết
tuổi tên…
+ Những người lặng thầm cống hiến, bình dị nhưng có ý nghĩa cho
đời…)
3. Mở rộng vấn đề

1,0

- Có những cá nhân tự huyễn hoặc về mình; tự cao cho mình làm nên
những điều to lớn, nhưng lại chỉ là sự trống rỗng một cách vô duyên…
- Lại có người tự ti cho rằng “mình chỉ là chiếc lá” nhỏ bé, thậm chí vô
nghĩa giữa cuộc đời, nên chẳng cần phấn đấu…đã nhỏ bé, càng trở nên
mờ nhạt và vô nghĩa hơn…
 Những biểu hiện này cần bị phê phán…
4. Bài học nhận thức và hành động
- Dù là ai trong cuộc đời cũng cần có sự tự ý thức về bản thân. Chẳng ai
vô nghĩa giữa cuộc đời. Chỉ có người tự cho là mình vô nghĩa mà thôi.
- Hãy làm việc, hãy cống hiến bằng sức lực của mình. Ước mơ và phấn
đấu biến ước mơ thành hiện thực…
- Hãy làm cho cuộc sống của mình trở nên có ý nghĩa ở mọi nơi, mọi

1,0



lúc…
1. Giải thích

2

2,0

- “Thơ là cái do tình sinh ra”: Nguồn gốc của thơ là ở cái tình, tức là
những rung động, cảm xúc của nhà thơ trước cuộc sống và con người.
Như vậy, muốn có thơ, người nghệ sĩ phải có những rung động, cảm xúc
thực sự trước cuộc đời. Đó là khởi nguồn cho mọi sáng tạo thơ ca của
người nghệ sĩ. Vì thế khi đến với thơ, người đọc được tiếp xúc với cả thế
giới tâm hồn, tình cảm của nhà thơ.
- Theo Viên Mai, những tình cảm trong thơ phải chân thật. Ông cho rằng:
“Kẻ làm thơ không được đánh mất đi tấm lòng trẻ thơ”. Viên Mai đặt ra
yêu cầu với người làm thơ là ở chỗ: những xúc cảm, tình cảm mà nhà thơ
biểu lộ trong thơ phải hết sức chân thật, tự nhiên, mãnh liệt... Đó có thể là
niềm vui hay nỗi buồn, hạnh phúc hay khổ đau.... Nhưng tất cả những
điều đó phải được viết ra từ những rung động, những xúc cảm thực sự của
một trái tim, một tâm hồn tha thiết với cuộc sống và con người.
 Quan niệm của Viên Mai bàn về đặc trưng của thơ nói riêng, của văn
học nói chung, đề cao vai trò của cảm xúc ở người nghệ sĩ, đặc biệt là
những xúc cảm, tình cảm chân thực trong thơ.
2. Bình luận
- Đây là quan niệm xác đáng về thơ. Từ đó thấy được một phương diện
trong quá trình sáng tạo của nhà thơ.
+ Muốn có thơ, trước hết đòi hỏi trái tim của nhà thơ phải rung
động thực sự trước hiện thực cuộc sống …
+ Những rung động, cảm xúc ấy phải mãnh liệt, chân thành…mới

khiến cho những sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ (nhà thơ) thực sự
có giá trị với cuộc sống.
- Quan niệm về thơ của Viên Mai có ý nghĩa đối với người làm thơ và
người tiếp nhận thơ:
+ Đối với người làm thơ: Để sáng tạo được những vần thơ hay, những
vần thơ chạm tới và neo đậu trong tâm hồn người đọc, nhà thơ phải có
một tâm hồn giàu xúc cảm, phải sống sâu sắc với cuộc đời. Đồng thời
những tình cảm trong mỗi vần thơ đều phải xuất phát từ sự chân thật của
nhà thơ đối với con người, và cuộc sống.

3,0


+ Đối với người tiếp nhận thơ, khi cảm thụ thơ cần chú ý đến những
tình cảm chân thật, sâu kín mà nhà thơ gửi vào tác phẩm. Đây là tiêu chí
để đánh giá một bài thơ hay. Để từ đó có sự đồng cảm, tri âm với nhà thơ.
- Quan niệm này không chỉ đúng với thơ mà còn đúng với các thể loại văn
học khác; không chỉ đúng với nhà thơ mà đúng với những người nghệ sĩ
sáng tạo nghệ thuật khác.
3. Chứng minh
Bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Bỉnh Khiêm để làm sáng tỏ :
Thơ là cái do tình sinh ra và đó phải là tình cảm chân thực.
3.1. Khái quát: Bài thơ là tiếng khóc lớn của nhà thơ: khóc cho nàng Tiểu
Thanh, người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh ở một đất nước xa xôi; khóc cho
những kiếp tài hoa, tài tử mà bạc phận và cũng là tiếng khóc cho chính
mình....
3.2. Nội dung cảm xúc chân thật trong bài thơ:
+ Hai câu đề: Tiếng thở dài của trước những biến thiên dâu bể của cuộc
đời và niềm thổn thức của một tấm lòng nhân đạo lớn trước sự đổi thay
của vạn vật, sự mất đi của cái đẹp và con người - một mình nhà thơ

“viếng” – cũng là khóc thương cho nỗi bất hạnh của nàng Tiểu Thanh qua
tập sách còn lại của nàng…
+ Hai câu thực: Nỗi niềm xót thương của nhà thơ cho một kiếp tài hoa
bạc mệnh, đó là cuộc đời, số phận của nàng Tiểu Thanh: tài hoa, nhan sắc
hơn người mà phải chịu những hờn ghen, đố kị, đày đọa đến chết….
+ Hai câu luận: Niềm cảm thương sâu sắc của nhà thơ với những kiếp
hồng nhan, tài hoa, bạc mệnh… Từ cuộc đời, số phận nàng Tiểu Thanh,
nhà thơ khái quát về quy luật : Tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc mệnh,
tự nhận mình là kẻ cùng hội cùng thuyền, là nạn nhân của nỗi oan khiên lạ
lùng…Cái tình Nguyễn Du dành cho nạn nhân xưa xuất phát từ nỗi đồng
cảm sâu sắc của người có cùng cảnh ngộ...
+ Hai câu kết: Tiếng lòng thiết tha của nhà thơ: khóc nàng Tiểu Thanh,
nghĩ đến mình, nhà thơ hướng về hậu thế để tỏ bày niềm khao khát tìm
những tấm lòng tri kỉ của một kiếp tài hoa từng chịu nhiều thăng trầm,
đau khổ...
3.3. Nghệ thuật thơ chữ Hán uyên bác, tài hoa; phép đối cân chỉnh; ngôn

6,0


ngữ giàu tính triết lí, hình ảnh tượng trưng…
---------------------------------------------------------------------------------------4. Đánh giá chung
- “Đọc Tiểu Thanh kí” là một minh chứng cho quan niệm của Viên Mai.
Bài thơ chứa đựng nỗi khắc khoải nhân sinh mang tầm nhân loại của thi
hào Nguyễn Du: tình cảm chân thật của ông dành cho những kiếp người
đau khổ, và cũng mang nỗi khắc khoải của chính cá nhân ông…
- Bài thơ khẳng định được vị trị của nó trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn
Du và của nền thơ ca dân tộc.
- Người đọc nhiều thế hệ đã đọc, đã đồng cảm và tri âm với nhân vật của
Nguyễn Du, cùng những tình cảm và ước vọng ông gửi gắm trong bài

thơ…

--------1.0



×