Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực trạng pháp luật về tiền lương tối thiểu ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.6 KB, 16 trang )

A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Đối với người lao động thì có thể khẳng định thứ quan trọng và cần thiết
nhất mà họ mong muốn nhận được đó chính là tiền lương, người lao động đánh
đổi sức lao động và thời gian của mình đều chung mục đích là nhận lại được tiền
lương xứng đáng với công sức đã bỏ ra. Tiền lương không chỉ là phạm trù kinh
tế mà còn là yếu tố hàng đầu của các chính sách xã hội liến quan trực tiếp tới đời
sống của người lao động. Tiền lương có tác động đến việc quản lý kinh tế, tài
chính, quản lý lao động, kích thích sản xuất. Có thể khẳng định vai trò to lớn của
tiền lương đối với người lao động, doanh nghiệp và nhà nước đều vô cùng quan
trọng.
Pháp luật tiền lương là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế - xã
hội. Bởi lẽ, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, đến chi
phí sản xuất, đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, quan hệ giữa người lao
động và người sử dụng lao động. Xây dựng một hệ thống chính sách, pháp luật
tiền lương đúng đắn, có căn cứ khoa học sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động, thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta vấn đề về xây dựng pháp luật về tiềm
lương tối thiểu lương luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, được Quốc hội,
Chính phủ cho sửa đổi, bổ sung nhiều lần và đã đạt kết quả đáng kể. Song trong
nền kinh tế thị trường, thì những quy định của pháp luật về tiền lương hiện hành
đã bộc lộ nhiều bất cập cả về quy mô, nội dung và hình thức, đã hạn chế vai trò
và động lực của tiền lương, là nguyên nhân làm tăng bất bình đẳng và cản trở sự
phát triển nhanh và ổn định chính trị xã hội của đất nước. Chính vì vậy, vấn đề
tiền lương đòi hỏi cần được nghiên cứu nghiêm túc và toàn diện để bổ sung,
điều chỉnh cho phù hợp.
Lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng pháp luật về tiền lương tối thiểu ở
nước ta hiện nay” em mong rằng sẽ chỉ ra được những điểm tích cực quy định
của pháp luật về tiền lương tối thiểu, vạch ra những mặt thiếu sót, các điểm tiêu
cực cần tháo gỡ trong vấn đề này, đồng thời đề xuất một số ý kiến góp ý, giải

1




pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về
tiền lương tối thiểu.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Một số vấn đề lỷ luận về tiền lương tối thiểu

1. Khái niệm tiền lương tối thiểu
Điều 91 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Mức lương tối thiểu là mức
thấp nhất trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất, trong điều kiện
lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao
động và gia đình họ”.
Như vậy có thể hiểu tiền lương tối thiểu chính là mức lương thấp nhất mà
người sử dụng lao động phải trả cho người lao động nhằm duy trì cuộc sống tối
thiểu cho bản thân và gia đình người lao động đó. Mức lương tối thiểu chính là
mức lương nền móng được pháp luật quy định và bắt buộc các người sử dụng
lao động phải thực hiện. Các hành vi trả lương cho người lao động cho dù là sự
thoả thuận của hai bên mà thấp hơn mức lương tối thiểu sẽ bị coi là bất hợp
pháp và phải chịu một chế tài tưong ứng.
2. Đặc điểm của tiền lương tối thiểu
- Tiền lương tối thiểu được xác định tương ứng với trình độ lao động giản
đơn nhất, chưa qua đào tạo nghề.
- Tiền lương tối thiểu tương ứng với cường độ lao động nhẹ nhàng nhất,
không đòi hỏi tiêu hao nhiều năng lượng thần kinh, cơ bắp.
- Tiền lương tối thiểu được tính tương ứng với môi trường và điều kiện lao
động bình thường, không có tác động xấu của các yếu tố điều kiện lao động.
- Tiền lương tối thiểu được tính tương ứng với nhu cầu tiêu dùng ở mức độ
tối thiểu cần thiết.

- Tiền lương tối thiểu phải tương ứng với mức giá tư liệu sinh hoạt chủ yếu
ở vùng có mức giá trung bình.
- Tiền lương tối thiểu phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia.

2


Trong kết cấu tiền lương tối thiểu không bao gồm tiền lương làm thêm giờ,
phụ cấp làm việc ban đêm, phụ cấp trách nhiệm hay chức vụ, tiền ăn giữa ca và
các khoản tiền lương khác ngoài tiền lương thông thường hàng tháng do Chính
phủ quy định. Mức lương tối thiểu chung là căn cứ và nền thấp nhất để xây dựng
các mức tiền lương tối thiểu vùng, ngành.
3. Bản chất của tiền lương tối thiểu
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tiền lương được coi là một phần
thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được Nhà nước phân phối
một cách có kế hoạch cho công nhân viên căn cứ vào số lượng và chất lượng mà
họ cống hiến, do đó, người sử dụng lao động không thương lượng, thỏa thuận
với người lao động về tiền lương, tiền công, mà đơn phương ấn định mức lương
của người lao động trên cơ sở thang lương, bảng lương của Nhà nước.
Còn trong nền kinh tế thị trường, người lao động có quyền thương lượng,
thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm và điều kiện lao động khác
phù hợp với khả năng chuyên môn, năng lực của mình. Tiền lương của người
lao động do hai bên thỏa thuận và được ghi trong hợp đồng lao động.
4. Ý nghĩa của tiền lương tối thiểu
Thứ nhất: Đối với người lao động
Tiền lương tối thiểu là sự đảm bảo có tính pháp lý của Nhà nước đối với
người lao động trong mọi ngành nghề, khu vực có tồn tại quan hệ lao động, bảo
đảm đời sống tối thiểu cho họ phù hợp với khả năng của nền kinh tế. Chính sách
tiền lương tối thiểu là công cụ bảo vệ người lao động, bảo đảm cho người lao

động tái sản xuất sức lao động, có vai trò chính trong việc loại trừ khả năng bóc
lột có thể xảy ra đối với người lao động trước sức ép của thị trường. Khi cung
lao động vượt cầu lao động, nếu không có “lưới an toàn” là tiền lương tối thiểu
do Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện thì người sử dụng lao động có thể
lợi dụng, gây sức ép nhằm trả công theo ý muốn.
Thứ hai: Đối với nền kinh tế
Lương tối thiểu là công cụ điều tiết của Nhà nước trên phạm vi toàn xã hội
và trong từng cơ sở kinh tế nhằm:

3


- Bảo vệ sức mua cho các mức tiền lương trước sự gia tăng của lạm phát và
các yếu tố kinh tế khác.
- Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng của thị trường lao động.
- Phòng ngừa những cuộc xung đột trong các ngành.
- Thiết lập mối quan hệ ràng buộc kinh tế trong lĩnh vực sử dụng lao động,
tăng cường trách nhiệm của các bên trong quản lý và sử dụng lao động.
- Tiền lương tối thiểu không chỉ có chức năng bảo vệ lợi ích của người lao
động và còn đảm bảo lợi ích của người sử dụng lao động, có chức năng khuyến
khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy phân công lao
động quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa
Thứ ba: Tiền lương tối thiểu là sự đảm bảo có tính pháp lý của nhà nước đối
với người lao động có tham gia quan hệ lao động trong mọi khu vực kinh tế. Nó
là cơ sở để xây dựng hệ thống thang, bảng lương và còn là căn cứ để các bên
thỏa thuận tiền lương phù hợp với điều kiện, khả năng, lợi ích của các bên trong
quan hệ lao động, thiết lập mối quan hệ ràng buộc kinh tế trong lĩnh vực sử dụng
lao động, tăng cường trách nhiệm của các bên trong quản lý và sử dụng lao
động.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu

1. Các quy định hiện hành về tiền lương tối thiểu
a. Mức lương tối thiểu vùng năm 2016:
Mức lương tối thiểu vùng là mức thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp và
người lao động thỏa thuận và trả lương, trong đó mức lương trả cho người lao
động làm việc trong điều kiện lao động bình thường, bảo đảm đủ thời gian đủ
thời gian làm việc bình thường trong tháng, hoàn thành định mức lao động hoặc
công việc đã thỏa thuận.
Ngày 14 tháng 11 năm 2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định 122/2015/NĐ
– CP (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2016) nâng mức lương tối thiểu vùng
2016 như sau:
- Vùng 1: 3.500.000 đồng/tháng.
- Vùng 2: 3.100.000 đồng/tháng.

4


- Vùng 3: 2.700.000 đồng/tháng.
- Vùng 4: 2.400.000 đồng/tháng.
Dưới đây là bảng so sánh mức lương tối thiểu vùng của năm 2016 và các
năm trước:
Vùng

Vùng 1
Vùng 2
Vùng 3
Vùng 4
Cơ sở

So sánh với mức lương tối thiểu các năm trước
Mức lương tối

Mức lương tối
Mức lương tối thiểu
thiểu năm 2014
2.700.000

thiểu năm 2015
3.100.000

năm 2016
3.500.000

đồng/tháng
2.400.000

đồng/tháng
2.750.000

đồng/tháng.
3.100.000

đồng/tháng
2.100.000

đồng/tháng
2.400.000

đồng/tháng
2.700.000

đồng/tháng

1.900.000

đồng/tháng
2.150.000

đồng/tháng.
2.400.000

đồng/tháng
Nghị Định

đồng/tháng
Nghị định

đồng/tháng.
Nghị

182/2013/NĐ-CP 103/2014/NĐ-CP
định 122/2015/NĐ-CP
Theo quy định về mức lương tối thiểu của nước ta năm 2016, có thể nhận

thấy rằng, nhà nước ta có những cải thiện và nhận thức mới mang tính tích cực
hơn so với những năm trước. Mức lương tối thiểu vùng năm 2016 đã được cập
nhật và thay đổi tăng lên so với các năm trước.Tuy nhiên từ bảng so sánh trên có
thể thấy rằng, mức chênh lệch giữa các năm là không cao. Mức tăng này thực tế
là chưa đủ để có thể theo kịp được biến động về giá cả trên thị trường và nhu
cầu về mức sống thiết yếu của người lao động.
b. Mức lương tối thiểu chung
Hiện nay, mức lương tối thiểu chung (hay còn gọi là lương cơ sở) được áp
dụng ở nước ta theo Nghị định 47/2016/NĐ-CP ban hành ngày 26/05/2016 ( có

hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 7 năm 2016) là 1.210.000 đồng/tháng.
c. Phương pháp xác định tiền lương tối thiểu
Về nguyên tắc có thể xây dựng tiền lương tối thiểu cho vùng mức sống
chuẩn (vùng quy ước, vùng giả định,..) hoặc vùng có mức sống thấp nhất. Vùng

5


có mức sống thấp nhất là vùng có cơ cấu chi dùng cơ bản của người lao động
đơn giản nhất; thị trường lao động kém phát triển, tiền công trả cho lao động tự
do và khả năng chi trả của các đơn vị kinh tế thấp; mức sống, thu nhập bình
quân của hộ gia đình thấp so với bình quân chung của cả nước. Như vậy, mức
tiền lương tối thiểu chung được xây dựng thông thường theo các phương pháp
sau:
- Xác định tiền lương tối thiểu trên cơ sở nhu cầu tiêu dùng tối thiểu cho
bản thân người lao động và có phần nuôi con:
- Xác định tiền lương tối thiểu trên cơ sở tiền công trung bình trả cho lao
động trên thị trường lao động.
- Xác định mức tiền lương tối thiểu trên cơ sở khả năng chi trả của doanh
nghiệp.
- Xác định mức tiền lương tối thiểu từ khả năng chi trả của nền kinh tế
(GDP) và quỹ tiêu dùng dân cư.
- Xác định mức tiền lương tối thiểu theo tốc độ trượt giá so với lúc thiết kế
tiền lương lần trước.
Ngoài các phương pháp trên đây việc xác định tiền lương tối thiểu phải tính
đến quan hệ công - nông tức là so sánh tiền lương với mức thu nhập của người
nông dân hiện nay để không có sự cách biệt lớn về mức sống, tránh tạo nên sự
mâu thuẫn trong xă hội vốn có sự phân chia về mức sống và thu nhập khá cao
nước ta hiện nay.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay có sự cạnh tranh rất lớn về

sản xuất, kinh doanh, sử dụng lao động. Do vậy khi xác định lương tối thiểu ở
Việt Nam cần có sự tính toán, so sánh và học hỏi mức tiền lương tối thiểu ở các
nước trong khu vực có mức phát triển tương đồng với nước ta như: Philippin,
Inđônêxia, Malaysia...
d. Xử lý, giải quyết tranh chấp về tiền lương tối thiểu
Khi tham gia quan hệ lao động, tiền lương là trung tâm thu hút sự quan tâm
của người lao động và người sử dụng lao động. Bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền và lợi ích của các bên, đồng thời xác định nghĩa vụ của người sử dụng lao

6


động khi tham gia quan hệ pháp luật lao động. Nhằm bảo đảm cho việc thực
hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về tiền lương tối thiểu, bảo đảm mức
sống tối thiểu cho người lao động, bảo vệ người lao động khỏi sự bóc lột sức lao
động của người sử dụng lao động, Nhà nước không chỉ quy định mức tiền lương
tối thiểu áp dụng trong từng thời kỳ buộc người sử dụng lao động phải thực hiện
mà Nhà nước còn có các chế tài áp dụng đối với những hành vi vi phạm pháp
luật về tiền lương tối thiểu.
Hiện nay việc xử lý vi phạm về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam được điều
chỉnh thông qua quy định tại Điều 13 Nghị định 95/2013/NĐ-CP (Quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng), sửa đổi tại Nghị
định số 88/2015/NĐ-CP ngày 7/10/2015, quy định xử phạt hành chính về hành
vi vi phạm pháp luật lao động quy định về xử phạt vi phạm hành chính về tiền
lương.
2. Thực tiễn áp dụng chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam
a. Mặt tích cực
Đã ngày càng quán triệt hơn quan điểm cải cách chính sách tiền lương theo
định hướng thị trường và đảm bảo công bằng xã hội trong điều kiện xây dựng

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong từng giai đoạn phát triển; đặc
biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư
cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng dịch vụ
công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Bộ
máy Nhà nước.
Tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành chính
nhà nước và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công, chính sách tiền lương
với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công. Mỗi khu vực có chính
sách và cơ chế tiền lương phù hợp. Đó là bước tiến rất quan trọng trong chính
sách tiền lương trong điều kiện mới.
Từng bước đổi mới chính sách tiền lương theo định hướng thị trường, nhất là
trong khu vực sản xuất kinh doanh, từng bước tính đúng, tính đủ tiền lương theo

7


nguyên tắc theo thị trường, chống bình quân, cào bằng. Trong các loại hình
doanh nghiệp, tiền lương được coi là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở
mặt bằng tiền lương trên thị trường và bước đầu được xác định thông qua tho ả
thuận giữa ngươi lao động và người sử dụng lao động để ký kết hợp đồng lao
động cá nhân và thoả ước lao động tập thể.
Đổi mới hơn cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền tự
chủ của đơn vị, doanh nghiệp trong việc xếp lương, trả lương gắn với năng suất
lao động, chất lượng và hiệu quả.
Tiền lương và thu nhập của người làm công ăn lương có xu hướng tăng từ 10
- 20%/năm, đảm bảo ổn định đời sống và có phần được cải thiện.
b. Những hạn chế cần khắc phục
Quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng là
đúng, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng việc thể chế
hoá chưa đầy đủ và thực hiện chưa nghiêm. Cơ chế phân phối tiền lương đổi mới

chậm, không theo kịp cơ chế quản lý kinh tế trong kinh tế thị trường nên chưa
tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nhất là tiền lương tối thiểu
chung còn thấp, bị ràng buộc tự động với nhiều chính sách xã hội khác và bị chi
phối bởi ngân sách nhà nước.
Phân phối tiền lương và thu nhập trong khu vực sản xuất kinh doanh chưa
phản ánh đúng thực chất quan hệ phân phối công bằng trong kinh tế thị trường,
cụ thể:
- Trong kinh tế thị trường, Nhà nước quy định mức lương tối thiểu làm cơ
sở cho các bên trong doanh nghiệp thoả thuận về tiền lương, nhưng các mức này
lại quy định còn thấp và khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp.
- Cơ chế phân phối tiền lương và thu nhập còn có sự khác nhau giữa các
loại hình doanh nghiệp; hiện nay ở nước ta đang tồn tại 3 cơ chế phân phối tiền
lương khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp ,chưa phù hợp với kinh tế thị
trường. Tiền lương và thu nhập của người lao động chưa gắn chặt với năng suất,
hiệu quả kinh tế, kết quả sản xuất kinh doanh; tiền lương chưa trở thành động

8


lực mạnh mẽ thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, khuyến khích nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ...
- Trên thực tế, phân phối tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp chưa
phản ánh đúng thực chất quan hệ phân phối công bằng trong kinh tế thị
trường. Chính sách phân phối tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước còn nhiều
bất hợp lý, nhất là còn bao cấp, chưa tách được yếu tố lợi thế so sánh và xóa độc
quyền đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Cơ chế thương lượng, thoả thuận về tiền lương chưa đảm bảo đúng
nguyên tắc thị trường và phát huy được tác dụng, còn hình thức. Khi xảy ra
tranh chấp về tiền lương thường không qua bước thương lượng, thoả thuận mà đi
thẳng đến đình công, dẫn đến đình công tự phát có xu hướng gia tăng.

 Phân phối tiền lương và thu nhập trong khu vực hành chính nhà nước và
khu vực sư nghiệp cung cấp dịch vụ công còn nhiều bất cập, cụ thể:
- Tiền lương của cán bộ công chức, viên chức bị dàng buộc và chi phối
mạnh của Ngân sách Nhà nước, nên cũng rất thấp và thấp hơn khu vực sản xuất
kinh doanh, chưa bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống chủ yếu bằng
tiền lương; thu nhập ngoài lương lớn, là một trong những nguyên nhân của tiêu
cực, tham nhũng; quan hệ tiền lương chưa hợp lý, các mức lương theo hệ số tiền
lương gắn quá chặt với tiền lương tối thiểu chung; tiền lương chưa gắn thật chặt
với vị trí, chức danh và hiệu quả công tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công.
- Tiền lương chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát
huy tài năng và cống hiến. Tiền lương thấp không kích thích được cán bộ, công
chức gắn bó với nhà nước, không thu hút được nhân tài; ngược lại, người làm
việc giỏi, người có tài bỏ khu vực nhà nước ra làm việc cho khu vực ngoài nhà
nước, nơi có tiền lương và thu nhập cao, có xu hướng tăng.
- Trong khi tiền lương không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất cao
và không kiểm soát được dẫn đến làm méo mó quan hệ tiền lương trong khu vực
này. Thu nhập ngoài lương lớn, có phần hợp pháp, hợp lý, nhưng có phần do
tham nhũng, tiêu cực trong thi hành công vụ (từ biếu xén, từ cơ chế xin - cho, từ
cơ chế ăn chia, từ tạo sân sau...).

9


- Tiền lương nhà nước quy định trả cho cán bộ, công chức, viên chức còn
thấp, nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do ngân sách nhà nước bảo đảm lại chiếm
khá cao trong tổng chi ngân sách nhà nước.
- Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch
vụ công) còn chậm, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo... làm khó khăn cho
cải cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho viên chức khu vực sự
nghiệp, cán bộ, công chức khu vực hành chính nhà nước.

 Vai trò điều tiết của chính sách tiền lương còn yếu kém trong phân bổ
nguồn lực, cân đối cung - cầu lao động và đảm bảo công bằng; thiếu khung khổ
pháp lý bảo vệ và bảo hộ thu nhập và tài sản hợp pháp của công dân; chưa kiểm
soát được tiền lương và thu nhập, nhất là chưa điều tiết được yếu tố lợi thế về
ngành, nghề, xoá độc quyền, làm ăn phi pháp.
Tình trạng vi phạm pháp luật về tiền lương tối thiểu ngày càng gia tăng cả
về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng và phức tạp. Tuy nhiên, ở nước ta vẫn
chưa có một cơ chế hợp lý để điều chỉnh vấn đề này, cho nên các tranh chấp về
tiền lương tối thiểu thường tồn tại ở dạng tập thể mà chủ yếu ở khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, cơ chế giải quyết tranh chấp ở nước ta còn nhiều
hạn chế và chưa bảo vệ được quyền lợi cho người lao động cho nên họ không sử
dụng các con cơ chế khác để bảo vệ quyền lợi cho mình mà đã phải sử dụng “vũ
khí cuối cùng” để đấu tranh bằng cách tổ chức các cuộc đình công buộc người
sử dụng lao động phải nhân nhượng. Hoạt động thanh tra lao động hoạt động
kém hiệu quả, người lao động thì ở thế yếu nên luôn có suy nghĩ “ thà yếu còn
hơn không có,” cho nên vi phạm pháp luật thì nhiều mà không bị phát hiện và xử
lý. Nhiều doanh nghiệp chưa có công đoàn, những doanh nghiệp đã có công
đoàn thì thường hoạt động kém hiệu quả, cán bộ công đoàn không đủ năng lực
hoặc không dám đấu tranh bảo vệ người lao động, trong một số trường họp còn
vì tư lợi cá nhân mà câu kết với người sử dụng lao động vi phạm pháp luật về
tiền lương tối thiểu.
c. Hệ quả đối với kinh tế - xã hội

10


Những hạn chế và thiếu sót nêu trên đã gây ra những hệ quả tiêu cực đối với
xã hội và nền kinh tế. Đáng chú ý là:
- Một, tiền lương thấp đã hạn chế tái sản xuất sức lao động trên cả hai
phương diện: thể lực và trí lực. Người lao động do phải bươn trải tìm cách mưu

sinh, nên không có nhiều thời gian để nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, đảm bảo thể
lực; đặc biệt họ không có thời gian để học tập nâng cao kiến thức văn hóa,
chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc.
Đây là nguy cơ đe dọa đến sự phát triển nguồn nhân lực cả trong hiện tại lẫn
trong tương lai.
- Hai, tiền lương thấp khiến nhiều người lao động tổ

chức cuộc sống

và sinh
hoạt gia đình không phải chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ lương mà bằng nhiều
nguồn thu khác (gọi là phần mềm). Trong bối cảnh hiện nay, ngoài một số người
có điều kiện thu nhập thêm bằng sức lao động và trí tuệ của mình, còn lại một tỷ
lệ không nhỏ chấp nhận cả giải pháp tiêu cực, hành vi thấp nhất là tham ô thời
gian trong chế độ giờ làm việc của Nhà nước để làm kinh tế phụ gia đình; hành
vi xấu hơn là tham ô, hối lộ.
- Ba, do có sự khác biệt lớn về mức lương tối thiểu giữa các khối hành
chính, sự nghiệp với khối sản xuất kinh doanh, giữa khu vực kinh tế nhà nước,
ngoài nhà nước với khu vực doanh nghiệp FDI, đã tạo nên sự chênh lệch, sự bất
bình đẳng về thu nhập, mức sống giữa những người

có cùng trình độ, cùng

năng lực làm việc, nhưng làm việc ở những thành phần kinh tế khác nhau. Do
vậy, để hạn chế dần sự bất bình đẳng đó và rút ngắn khoảng chênh lệch về thu
nhập so với tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội, không ít công chức khi có
điều kiện sẽ tìm cách vòi vĩnh, nhũng nhiễu dân cư và tham ô, ăn hối lộ. Điều
này đưa đến chỗ làm suy yếu bộ máy Nhà nước và mất đi niềm tin của nhân
dân, của các nhà đầu tư vào nhà nước.
- Bốn, chế độ tiền lương thấp không phản ánh đúng sự đánh giá của xã hội

đối với người lao động vì vậy trong nhiều trường hợp đã triệt tiêu động lực sáng
tạo, không kích thích người lao động tích cực tìm kiếm những giải pháp để tăng

11


năng suất lao động, nâng cao hiệu quả công việc. Điều này dẫn đến nguy cơ
đánh mất năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
- Năm, sự chênh lệch lớn về tiền lương, thu nhập đã tạo nên sự di chuyển
nguồn lao động từ nơi này sang nơi khác với mức độ khó kiểm soát, vì vậy phá
vỡ định hướng, kế hoạch phân bố lực lượng lao động theo yêu cầu phát triển của
các ngành và vùng lãnh thổ; gây nên sự mất cân đối về lực lượng lao động giữa
các ngành và các vùng.
-

Sáu, do lương không đủ sống nên nhiều người phải tạo ra, tìm thêm những

nguồn thu nhập ngoài lương. Vì vậy rất khó xác định đúng thu nhập thực tế của
mỗi người. Điều này đưa đến sự phát sinh tiêu cực trên ba phương diện: thứ
nhất, gây thất thu thuế thu nhập cá nhân; thứ hai, khó truy tìm những nguồn thu
nhập bất chính; thứ ba, không đánh giá đúng sức cầu lao động hiện tại trong xã
hội và khó dự đoán mức cầu tương lai khi hoạch định chiến lược thị trường,
chính sách thu nhập và chính sách kinh tế.
-

Bảy, chính sách tiền lương tối thiểu thấp đã hạn chế tính linh hoạt và hiệu

quả của các doanh nghiệp, không khuyến khích doanh nghiệp nhà nước sử dụng
và bố trí lao động hợp lý, tạo ra sự chia cắt thị trường lao động giả tạo, tạo sự
gian dối và lộn xộn trong hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp, khiến thất

thu ngân sách. Tác động tiêu cực đến tổng cầu hàng hóa, làm giảm sức mua của
dân cư, giảm khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, kìm
hãm giá cả, do vậy làm giảm khả năng tích lũy, đầu tư và tác động tiêu cực đến
khả năng mở rộng việc làm của doanh nghiệp. Nó cũng gây cản trở đối với sự
hình thành và phát triển thị trường sức lao động - một trong những thị trường cơ
bản của nền kinh tế vận động theo cơ chế kinh tế thị trường.
III. Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật
về tiền lương tối thiểu.
1. Đổi mới tư duy trong cải cách chính sách tiền lương
Một trong những sai lầm trong nhiều năm gần đây ở nước ta là trong các lần
họp Quốc hội bàn về tiền lương, các nhà hoạch định chính sách thường trả lời
trước Quốc hội là “thiếu ngân sách, năng suất lao động thấp nên không thể tăng

12


lương”. Thực tế người lao động chưa yêu cầu tăng lương mà đề nghị trả đủ mức
lương phù hợp giá trị sứclao động. Chính tư duy xơ cứng, bảo thủ trong hoạch
định chính sách tiền lương đã kéo dài hàng thập kỷ qua là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến thực trạng tiền lương như hiện nay.Vì vậy, vấn đề trước tiên là cần đổi
mới tư duy trong việc cải cách chính sách và hệ thống tiền lương. Đổi mới quan
điểm “trả lương thấp” theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của tiền lương
trong cơ chế thị trường. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được
hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung- cầu về sức lao động, chất
lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm.
2. Cần xây dựng một văn bản luật về tiền lương tối thiểu
Yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần sớm ban hành Luật tiền lương tối thiểu,
qua đó xác định rõ các nhóm đối tượng chịu tác động của tiền lương tối thiểu; cơ
chế, nguyên tắc xác định và điều chỉnh tiền lương tối thiểu; xác định các mức
lương tối thiểu (mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức

lương tối thiểu ngành...). Luật tiền lương tối thiểu là cơ sở pháp lý để thực hiện
tốt chính sách tiền lương. về các mức lương tối thiểu, cần chú ý những vấn đề
sau đây:
Một là, mức lương tối thiểu cần được quy định áp dụng cho tất cả các khu
vực (hành chính, sự nghiệp, sản xuất kinh doanh) và các loại hình doanh nghiệp
(không phân biệt loại hình sở hữu), được xác định căn cứ vào những yếu tố sau
đây:
- Quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường lao động cả nước và chỉ số
giá sinh hoạt trong từng thời kỳ.
- Hệ thống các nhu cầu tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
- Mức sống chung đạt được và sự phân cực mức

sống giữa các tầng lớp

dân cư trong xã hội.
- Khả năng chi trả của các doanh nghiệp.
- Phương hướng, khả năng phát triển kinh tế của đất nước, mục tiêu và nội
dung cơ bản của các chính sách lao động trong thời kỳ.

13


Hai là, mức lương tối thiểu theo vùng cần tính đến sự khác biệt về không
gian của các yếu tố chi phối tiền lương tối thiểu mà chưa tính đến đầy đủ trong
tiền lương tối thiểu chung để áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp.
Việc xác định mức lương tối thiểu vùng cần căn cứ vào các yếu tố: chênh lệch
về nhu cầu tối thiểu thực tế của người lao động trong các vùng; mức sống trong
vùng; mức tiền lương, tiền công đạt được trong vùng; và giá cả thực tế trong
vùng.
Ba là, mức lương tối thiểu theo ngành là cơ sở để trả công lao động trong

từng ngành cụ thể, góp phần loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng giữa các
ngành. Căn cứ xác định mức tiền lương tối thiểu ngành trong những năm tới, cần
dựa trên các yếu tố: mức lương tối thiểu chung; điều kiệnlao động và mức độ
phức tạp công việc của ngành, khả năng thỏa thuận của người lao động trong
từng ngành; tầm quan trọng của ngành đó trong nền kinh tế quốc dân.
3. Đổi mới tư duy và cách tiếp cận khi điều chỉnh lương tối thiểu
Theo quy định của pháp luật thì khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền
lương thực tế của người lao động bị giảm sút, khi đó Chính phủ điều chỉnh mức
lương tối thiểu để đảm bảo tiền lương thực tế. Nhưng trên thực tế khi chỉ số giá
sinh hoạt tăng thì chưa chắc lương tối thiểu đã được tăng, nếu có tăng thì tăng
lương như thế nào so với mức tăng giá cũng chưa có quy định nào cụ thể. Bản
chất của tiền lương tối thiểu là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở
giá trị sức lao động cho nên luôn chịu tác động của các quy luật của nền kinh tế
thị trường. Nhưng ở nước ta, tiền lương không được tự điều chỉnh theo thị
trường mà có sự can thiệp quá sâu của Nhà nước nên chỉ điều chỉnh lương tối
thiểu khi có sức ép của xã hội và cứ nói đến tiền lương là lại nói đến cân đối
ngân sách. Thực tế đó đặt ra yêu cầu, phải xây dựng một cơ chế kiểm soát và
điều chỉnh lương tối thiểu, sao cho lương tối thiểu được điều chỉnh thường
xuyên theo yếu tố thị trường. Ngoài ra cần có một quy định cụ thể ấn định ngày
công bố mức lương tối thiểu hàng năm và có thể được điều chỉnh bất thường khi
có các điều kiện nhất định.
4. Áp dụng cơ chế ba bên trong xây dựng và thực hiện tiền lương tối thiểu

14


Ở Việt Nam, trong lĩnh vực tiền lương có thể nói sự tham gia của người lao
động và người sử dụng lao động trong việc quyết sách các vấn đề về lao động
chỉ mang tính hình thức. Vì vậy trong thời gian tới đề nghị cần phải có sự hoàn
thiện của pháp luật về cơ chế ba bên trong quan hệ lao động nói chung và trong

việc quy định và thực hiện tiền lương tối thiểu nói riêng. Để mức tiền lương tối
thiểu được công bố trong từng thời kỳ đảm bảo được chức năng và vai trò của nó
là đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, phù hợp với sự phát triển của
nền kinh tế, khả năng chi trả của doanh nghiệp, góp phần bảo vệ người lao động,
phát triển thị trường lao động, phát triển kinh tế thì cần phải thành lập một tổ
chức với sự tham gia của ba bên là cơ quan tham mưu, tư vấn cho nhà nước về
tiền lương nói chung và tiền lương tối thiểu nói riêng.
C. KẾT BÀI
Tiền lương tối thiểu là vấn đề quan trọng không chỉ với đời sống của cá
nhân người lao động mà đối với toàn xã hội bởi lẽ nó là cơ sở, nền tảng cho
chính sách tiền lương, các chính sách an sinh xã hội của nhà nước.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã liên tục và thường xuyên chú trọng cải
cách chính sách pháp luật về tiền lương tối thiểu, nhờ đó mức lương được nâng
cao gắn với sự phát triển của thị trường. Thu nhập của người lao động trong các
loại hình doanh nghiệp được cải thiện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các chính
sách về tiền lương nói chung và tiền lương tối thiểu ở Việt Nam nói chung vẫn
còn đang bộc lộ khá nhiều điều bất cập và thiếu sót. Trước thực trạng đó, việc
tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật vè tiền lương tối thiểu là yêu cầu rất
cần thiết. Nhiệm vụ này cần được sự chung tay đóng góp xây dựng của toàn xã
hội, sự lắng nghe và thay đổi từ các cơ quan nhà nước. Hy vọng rằng, trong thời
gian tới những bất cập và tồn tại trong các quy định về tiền lương tối thiểu sẽ
không còn, nền kinh tế đất nước cũng từ đó mà được đổi mới và phát triển đi
lên.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật lao động 2012.
2. Giáo trình môn luật lao động, Trường Đại Học Luật Hà Nội.

3. Nghị định số 88/2015/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định
số 95/2013/NĐ-CP.
4. Nghị định số 95/2013/NĐ-CP quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực lao động.
5. Nghị định 122/2015/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng 2016.
6. Nghị định 47/2016/NĐ-CP quy định về mức lương tối thiểu chung năm
2016
7. Trang web />8. Trang web />9. Bài viết “Chính sách tiền lương, thực trạng vấn đề” của tác giả Nguyên
Hữu Dũng
10.Đỗ Phương Đông (2008), Định hướng tiếp tục cải cách chính sách tiền
lương, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 330.
11.Đỗ Thị Tươi (2008), Tiếp tục cải cách chính sách tiền lương đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 332.
12.Trang web
13.

16



×