BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
VŨ THỊ HẢI VÂN
LKT12-01
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 52 38 01 07
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Hà Nội, 5/2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
VŨ THỊ HẢI VÂN
LKT12-01
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 52 38 01 07
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN THỊ NHUNG
Hà Nội, 5/2016
Khóa luận tốt nghiệp 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .............................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................ 3
5. Kết cấu...................................................................................................... 3
Chƣơng 1 .......................................................................................................... 4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ................................................................... 4
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC .......................................... 4
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI ............. 4
1.1.
Khái quát về thẩm quyền của Toà án trong hệ thống pháp luật 4
1.2. Tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại và thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại...................... 5
1.2.1.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại .............................................. 5
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại ................................................................................................ 8
Chƣơng 2 ........................................................................................................ 12
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN TOÀ ÁN TRONG VIỆC
......................................................................................................................... 12
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ
THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM ........................... 12
2.1. Thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại theo pháp luật hiện hành ........................................ 12
2.1.1. Thẩm quyền theo loại việc của Tòa án ............................................. 12
2.1.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử của Toà án ........................................... 15
2.1.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án .............................................. 16
Khóa luận tốt nghiệp 2016
2.1.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn của Toà án .............. 18
2.2. Thực tiễn thực thi thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay ................... 19
2.2.1. Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại thông qua Tòa án ở Việt Nam ............................................. 19
2.2.3. Những khó khăn trong thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Tòa án . 24
Chƣơng 3 ........................................................................................................ 28
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN ................................... 28
CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP................ 28
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI ................................................................. 28
3.1. Phƣơng hƣớng và yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại .................................................................................... 28
3.1.1. Đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh cải
cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam ................ 28
3.1.2. Đảm bảo được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế .............................. 29
3.1.3. Đảm bảo sự đồng bộ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng
nhằm đảm bảo hiệu lực của pháp luật tố tụng trong giải quyết tranh
chấp ...................................................................................................... 30
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại.................... 31
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của
Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ......... 31
3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại thông qua Tòa án ....... 32
KẾT LUẬN .................................................................................................... 41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 43
Khóa luận tốt nghiệp 2016
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
ICC
Phòng thƣơng mại quốc tế
ICSID
Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tƣ quốc tế
UNCITRAL
Luật thƣơng mại quốc tế
WTO
Tổ chức thƣơng mại thế giới
CHXHCNVN
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
KDTM
Kinh doanh, thƣơng mại
TCKDTM
Tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TANDCC
Tòa án nhân dân cấp cao
Khóa luận tốt nghiệp 2016
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Tên bảng
Tình hình thụ lý và giải quyết các loại vụ án nói
chung ở cấp sơ thẩm của ngành Tòa án từ năm 2010
đến 2015
Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp trong
kinh doanh, thƣơng mại ở cấp sơ thẩm của ngành
Tòa án từ năm 2010 đến 2015
Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại ở cấp sơ thẩm của Tòa án Hà
Nội từ năm 2010 đến 2015
Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại ở cấp sơ thẩm của Tòa án thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến 2015
Trang
20
20
20
21
Khóa luận tốt nghiệp 2016
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt khi nƣớc ta đã gia
nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), các quan hệ kinh doanh, thƣơng mại
(KDTM) ngày càng đa dạng, phong phú và mang những diện mạo sắc thái mới.
Tƣơng ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các TCKDTM ngày
càng muôn hình muôn vẻ và với số lƣợng lớn.
Đáp ứng yêu cầu giải quyết các TCKDTM của cá nhân, tổ chức trong nền
kinh tế, thực tiễn đã hình thành nhiều phƣơng thức giải quyết TCKDTM nhƣ:
thƣơng lƣợng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục trọng tài, giải quyết theo thủ tục tƣ
pháp. Ở Việt Nam, các đƣơng sự thƣờng lựa chọn hình thức giải quyết TCKDTM
bằng Toà án nhƣ một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi
ích của mình khi thất bại trong việc sử dụng cơ chế thƣơng lƣợng, hoà giải.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình cải cách
kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, công cuộc cải cách tƣ pháp cũng đang
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc tích cực triển khai, coi đây nhƣ là khâu đột phá quan trọng,
thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Điều này đƣợc thể hiện rõ nét trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6
năm 2005 về “chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020”. Công cuộc cải cách tƣ
pháp ở nƣớc ta đã và đang đặt ra một loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần đƣợc giải
quyết một cách hợp lý và thoả đáng, trong đó có vấn đề xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế nói chung cũng nhƣ tạo lập khuôn khổ pháp lý điều chỉnh pháp
luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể kinh doanh, kể cả
việc giải quyết vấn đề đặt ra về tố tụng kinh tế, dân sự nói riêng sao cho thích hợp
hiện cũng cần đƣợc quan tâm thích đáng nhằm tìm ra phƣơng hƣớng giải quyết
đúng đắn, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra
trong giai đoạn hiện nay.
Trƣớc những yêu cầu của thực tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định
của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM nhằm góp
phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cũng nhƣ thực tiễn, tìm ra những hạn chế, vƣớng
mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án kinh tế theo
tinh thần cải cách tƣ pháp là hết sức cần thiết và vẫn có tính thời sự, rất đƣợc quan
tâm trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Vũ Thị Hải Vân
1
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
Do vậy, tác giả đã chọn đề tài “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay” để làm khóa luận
tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu
về vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM theo những khía
cạnh khác nhau nhƣ:
Giáo trình Luật thương mại, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2006; Giáo
trình Luật kinh tế Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001 … Các bài tạp chí
chuyên ngành luật nhƣ: Giải quyết TCKDTM theo quy định của BLTTDS 2004
(Viên Thế Giang, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 12/2005); Thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh doanh theo BLTTDS và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn
thi hành (Phan Chí Hiếu, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 6/2005); Một số kiến
nghị liên quan đến quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo điều 29 BLTTDS (ThS.Nguyễn Thị Vân Anh - Giảng viên khoa
Đào tạo Thẩm phán Học viện Tƣ pháp); Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
bằng con đường Tòa án (Nguyễn Vũ Hoàng, NXB Thanh niên, năm 2003)...
Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM
trong thời gian qua. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đều chƣa tập trung
đƣa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động giải
quyết TCKDTM. Hơn nữa nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang tiếp tục đƣợc đặt
ra và có nhu cầu giải quyết hoặc chƣa đƣợc cập nhật trong pháp luật hiện hành. Đây
là vấn đề cấp thiết đặt ra trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hệ
thống pháp luật kinh tế nói riêng ở nƣớc ta.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Là các quy phạm pháp luật hiện
hành liên quan trực tiếp đến vấn đề thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM mà đặc biệt là Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã đƣợc sửa đổi bổ sung năm
2011 và những văn bản pháp luật có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam
về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại
Vũ Thị Hải Vân
2
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
trong việc đối chiếu so sánh với pháp luật nƣớc ngoài về thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phƣơng pháp đƣợc sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm các
phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
pháp lý nói riêng nhƣ phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống
hóa pháp luật...
5. Kết cấu
Ngoài lời nói đầu và kết luận, khóa luận bao gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM
Chƣơng 2. Nội dung pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM và thực tiễn thực thi pháp luật ở Việt Nam
Chƣơng 3. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM
Vũ Thị Hải Vân
3
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về thẩm quyền của Toà án trong hệ thống pháp luật
Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp
luật. Về mặt pháp lý, thẩm quyền là một quyền năng thi hành trao cho một cơ quan
đƣợc thiết lập chính thức bởi pháp luật hay một lãnh đạo chính trị để giải quyết và
đƣa ra những tuyên bố về những vấn đề pháp lý và để đảm bảo công lý trong phạm
vi lãnh thổ cụ thể.
Thẩm quyền là giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể nhất định (cá
nhân, tổ chức) và đƣợc quyết định khi thực hiện các hoạt động thuộc thẩm quyền.
Thẩm quyền gắn liền với bộ máy nhà nƣớc và các cá nhân có thẩm quyền khi thực
hiện các hoạt động trong phạm vi, quyền hạn.
Thẩm quyền của Tòa án đƣợc quy định trong Hiến pháp 2013, Luật tổ chức
Toà án Nhân dân năm 2014 và các văn bản pháp luật khác. Theo quy định của
những văn bản pháp luật nêu trên thì Toà án là cơ quan xét xử duy nhất của nƣớc
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), chức năng xét xử của Toà
án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao trùm và xuyên suốt quá trình
hoạt động của Toà án. Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do
Luật định” ; Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Toà án Nhân dân 2014 quy định “Tòa
án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự,
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải
quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn
diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết
quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc
không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài
sản, quyền nhân thân”. Qua đó, thẩm quyền của Tòa án trong hệ thống pháp luật
đƣợc hiểu với những cấp độ và nội dung khác nhau. Cụ thể:
Thẩm quyền của Tòa án là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc thực
hiện pháp luật mà trọng tâm là công tác xét xử các loại vụ án theo quy định của
Vũ Thị Hải Vân
4
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
pháp luật. Theo đó tùy thuộc vào quyền hạn do luật định, Tòa án các cấp, các Tòa
án khác nhau trong hệ thống Tòa án, có phạm vi quyền hạn khác nhau trong việc xét
xử các loại vụ án. Giới hạn thẩm quyền căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh pháp luật từ
thực tiễn khách quan, khả năng điều kiện của các Tòa án trong việc thực thi nhiệm
vụ cũng nhƣ hiệu quả của hoạt động đó.
Bên cạnh đó, thẩm quyền của Tòa án còn là sự phân định quyền hạn giữa
Tòa án Nhân dân và các cơ quan chức năng khác trong hệ thống các cơ quan nhà
nước. Theo luật định mỗi hệ thống cơ quan nhà nƣớc có chức năng, nhiệm vụ riêng
thực hiện các công việc do nhà nƣớc giao phó. Sự phân công này nhằm đảm bảo
tính chuyên môn, chuyên nghiệp hóa; phân định lĩnh vực hoạt động của các cơ quan
nhà nƣớc. Tòa án Nhân dân với chức năng là cơ quan xét xử, có trách nhiệm giải
quyết các xung đột trong đời sống xã hội xâm phạm đến lợi ích nhà nƣớc, công dân
đƣợc quy định trong pháp luật. Tòa án không thực hiện chức năng điều hành quản
lý nhà nƣớc nhƣ các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn khác thuộc hệ thống cơ
quan nhà nƣớc.
Từ những phân tích trên, theo tác giả thẩm quyền của Tòa án là phạm vi giới
hạn hoạt động của Tòa án và quyền năng pháp lý của Tòa án có mối liên quan chặt
chẽ với nhau bao gồm thẩm quyền xét xử, phạm vi – giới hạn xét xử và quyền hạn
quyết định của Tòa án.
1.2. Tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại và thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại
1.2.1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại
a ) Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp đƣợc hiểu là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng (tranh cãi); sự mâu
thuẫn về các quyền yêu cầu hay quyền, sự đòi hỏi về quyền, yêu cầu hay đòi hỏi từ
một bên đƣợc đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngƣợc của bên kia.
TCKDTM là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện cùng với sự ra đời của
BLTTDS năm 2004 thay thế cho thuật ngữ tranh chấp kinh tế, “ một khái niệm quen
thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu vào tiềm thức và tƣ duy pháp lý ngƣời Việt
Nam”.
Hiện nay ở Việt Nam chƣa có cách hiểu chuẩn xác và thống nhất về
TCKDTM. Việc xác định phạm vi của tranh chấp đƣợc coi là TCKDTM chủ yếu
căn cứ vào luật thực định.
Vũ Thị Hải Vân
5
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
Theo khoản 16 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.”
Khoản 1 điều 3 Luật Thƣơng mại năm 2005 quy định: “hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”.
Với cách định nghĩa trên hoạt động kinh doanh và hoạt động thƣơng mại có
nhiều nội hàm trùng nhau nhƣ về mục đích sinh lợi, về đầu tƣ, về cung ứng dịch vụ,
về tiêu thụ sản phẩm… Nhƣ vậy, có thể quan niệm TCKDTM là những mâu thuẫn,
bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện liên tục một, một số
hoặc toàn bộ quá trình đầu tƣ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các dịch
vụ trên thị trƣờng, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động sinh lợi khác. Nói một
cách ngắn gọn hơn, có thể định nghĩa TCKDTM là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền lợi giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động KDTM.
Cách định nghĩa trên có hạn chế là tuy chỉ ra đƣợc bản chất của TCKDTM là
mâu thuẫn về quyền lợi phát sinh khi tham gia hoạt động KDTM nhƣng lại không
cho thấy biểu hiện của nó. Trong quan hệ kinh doanh, giữa các bên luôn tồn tại
đồng thời hai mối quan hệ vừa xung đột, vừa hợp tác. Để xác định chính xác khi
nào những xung đột lợi ích này chuyển thành tranh chấp thì cần phải dựa vào những
dấu hiệu biểu hiện của nó. Dấu hiệu đó là khi một bên cho rằng quyền và lợi ích của
mình bị vi phạm yêu cầu phía bên kia khắc phục nhƣng không nhận đƣợc sự đồng
ý. Vì vậy, theo cách này, còn có một cách định nghĩa khác đó là “TCKDTM xảy ra
khi một bên trong quan hệ KDTM khẳng định một trái quyền mà lại bị bên khác
chống lại”.
b) Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Giải quyết TCKDTM theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là cách thức,
phƣơng pháp cũng nhƣ các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp phát
sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật
tự kỷ cƣơng xã hội.
Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa chọn
phƣơng thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn phƣơng
Vũ Thị Hải Vân
6
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho mình. Có 4 phƣơng thức giải quyết
tranh chấp đó là: thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài và Tòa án.
Giải quyết TCKDTM bằng thương lượng là hình thức giải quyết TCKDTM
đƣợc tiến hành giữa các bên (hoặc đại diện của các bên) tranh chấp để cùng tìm ra
và đi đến những thỏa thuận thống nhất bằng những giải pháp phù hợp với tất cả các
bên nhằm chấm dứt những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh.
Giải quyết TCKDTM bằng hòa giải là phƣơng thức giải quyết TCKDTM có
sự tham gia của bên thứ ba giữ vai trò trung gian hòa giải nhằm giúp cho các bên
tranh chấp thu hẹp những bất đồng và đi đến giải pháp giải quyết vụ tranh chấp.
Bên thứ ba (hay còn gọi là hòa giải viên) do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn
làm trung gian hòa giải không có quyền quyết định hay áp đặt ý chí của mình lên
các bên tranh chấp. Tuy nhiên, hòa giải viên là ngƣời am hiểu pháp luật, có kỹ năng
hòa giải, có kiến thức chuyên môn liên quan đến lĩnh vực tranh chấp sẽ đóng vai trò
quan trọng trong việc giúp cho các bên tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích
hợp cho việc giải quyết tranh chấp, còn giải pháp có đạt đƣợc hay không là do các
bên tranh chấp quyết định.
Giải quyết TCKDTM bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua hoạt động của trọng tài viên (hoặc Hội đồng trọng tài), với tƣ cách là bên thứ ba
độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đƣa ra một phán quyết buộc các bên
tranh chấp phải thực hiện. Cơ sở làm phát sinh thẩm quyền của trọng tài là sự thỏa
thuận của các bên tranh chấp. Điều 5, khoản 1 của Luật Trọng tài thƣơng mại 2010
quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thoả thuận
trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp”. Thỏa thuận trọng tài phải đƣợc lập thành văn bản, có thể ghi trong hợp đồng
chính hoặc bằng văn bản riêng.
Giải quyết TCKDTM bằng Tòa án là phƣơng thức giải quyết tranh chấp tại
cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nƣớc, đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ tục
nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu
không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ đƣợc đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cƣỡng
chế của nhà nƣớc. Tòa án là cơ quan tài phán kinh tế duy nhất có quyền nhân danh
quyền lực nhà nƣớc tiến hành xét xử các vụ TCKDTM. Đặc điểm này thể hiện vai
trò của nhà nƣớc trong việc tạo lập nên những thiết chế quyền lực nhằm giải quyết
những mâu thuẫn bất đồng trong kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Vũ Thị Hải Vân
7
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
các chủ thể trong nền kinh tế, góp phần xây dựng môi trƣờng kinh doanh lành
mạnh.
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại
a) Vai trò của Tòa án so với các phương thức khác trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại
Chúng ta đều biết, một thỏa thuận đạt đƣợc tại Tòa án, đƣợc Tòa án công
nhận với vai trò trung gian hòa giải, thì thỏa thuận đó có giá trị hiệu lực buộc các
bên thực hiện theo thỏa thuận, nếu không thực hiện sẽ bị cƣỡng chế thi hành.
Nhƣng cũng là thỏa thuận đó của các bên dựa trên sự tự định đoạt, tự do ý chí
nhƣng nó lại không có hiệu lực thi hành bắt buộc, không có cơ chế cƣỡng chế thi
hành. Nhƣ vậy, vấn đề hình thức pháp lý và hiệu lực pháp lý của hòa giải ngoài tố
tụng vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Việt Nam cũng nhƣ hầu hết các nƣớc trên thế giới hiện nay chủ yếu sử dụng
hai phƣơng thức giải quyết TCKDTM là trọng tài và Tòa án. Mỗi phƣơng thức có
ƣu, nhƣợc điểm riêng. Ƣu điểm của phƣơng thức này có thể là nhƣợc điểm của
phƣơng thức kia và ngƣợc lại.
Ƣu diểm nổi bật của phƣơng thức Tòa án là tính quyền lực nhà nƣớc. Tòa
án là cơ quan tƣ pháp có quyền nhân danh ý chí quyền lực của nhà nƣớc khi xét xử
các vụ tranh chấp. Bản án, quyết định của Tòa án đƣợc mọi cá nhân, tổ chức tôn
trọng và thi hành. Điều 136 Hiến pháp nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam quy định: “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
phải chấp hành”. Trong trƣờng hợp bản án không đƣợc tự nguyện thi hành thì sẽ bị
cƣỡng chế bởi quyền lực nhà nƣớc. Trong khi đó ở Việt Nam trong một thời gian
dài, các quyết định của Trọng tài không có cơ quan cƣỡng chế thi hành nên hiệu quả
hoạt động của Trọng tài rất thấp. Khắc phục nhƣợc điểm này, Pháp lệnh Trọng tài
Thƣơng mại đặc biệt là Luật Trọng tài Thƣơng mại 2010 quy định “bên được thi
hành phán quyết Trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền thi hành phán quyết Trọng tài” (Điều 67 Luật Trọng tài Thƣơng mại).
Tuy nhiên tình hình vẫn không đƣợc cải thiện là mấy.
Tính quyền lực nhà nƣớc còn thể hiện là trong quá trình giải quyết vụ án,
Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, có quyền triệu tập nhân
Vũ Thị Hải Vân
8
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
chứng, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ
án đƣợc khách quan, chính xác. Ƣu điểm này không thể có ở phƣơng thức trọng tài
vì thẩm quyền của trọng tài đƣợc hình thành trên cơ sở thỏa thuận của các bên tranh
chấp nên Trọng tài viên không có nhiều quyền hạn nhƣ Thẩm phán, không có quyền
triệu tập các bên liên quan khác ngoài các bên tranh chấp.
Tuy nhiên, xét dƣới góc độ kinh doanh của doanh nghiệp để đánh giá việc
lựa chọn, thì trọng tài có những điểm ƣu việt trội.
Trong kinh doanh, nhiều khi thời gian là yếu tố đƣợc quy ra tiền bạc. Ƣu
thế về tốc độ giải quyết tranh chấp, rút ngắn sự lãng phí thời gian công sức theo
đuổi kiện tụng cho doanh nghiệp không thuộc về Tòa án. Với đặc điểm của cơ chế
tố tụng hiện nay, một vụ việc tranh chấp kinh doanh thƣơng mại nếu trải qua đủ các
trình tự, thủ tục pháp lý sơ thẩm, phúc thẩm, thì về mặt quy định thời hạn giải quyết
tại Tòa án có thể từ 7 - 12 tháng, nhƣng trên thực tế, có thể mất 1 - 3 năm. Trong
khi đó, nếu cộng tất cả các thời hạn theo các trình tự, thủ tục liên quan, thì thời hạn
giải quyết một vụ tranh chấp của trọng tài thƣơng mại chỉ mất khoảng hơn 120 ngày
và giữa quy định với thực tế không khác xa là bao.
Với những doanh nghiệp đã từng trải qua một chu trình xét xử từ sơ thẩm
đến phúc thẩm, có khi lại giám đốc thẩm hủy án để xét xử sơ thẩm lại từ đầu, mới
thấu hiểu đến giá trị của việc phán quyết chung thẩm, một lần nhanh gọn và có hiệu
lực áp dụng ngay của trọng tài thƣơng mại. Những chi phí gia tăng suốt quá trình
mệt mỏi theo kiện khiến cho lợi thế về án phí so với phí Trọng tài giờ trở thành vô
nghĩa.
Qua việc so sánh hai phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án và
Trọng tài, có thể thấy phƣơng thức Trọng tài có nhiều ƣu điểm hơn, những ƣu điểm
này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động KDTM. Chính vì thế phƣơng thức Trọng
tài đƣợc ƣa chuộng hơn, đặc biệt ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển.
Tuy nhiên, ở các nƣớc đang phát triển và chậm phát triển thì Tòa án vẫn là cơ quan
giải quyết TCKDTM chủ yếu. Ở Việt Nam, “Theo số liệu thống kê vào năm 2010
của Trung tâm Trọng tài quốc tế (VIAC), trong khi mỗi Thẩm phán ở Toà kinh tế
Thành phố Hà Nội phải xử trên 50 vụ một năm, ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh xử trên 70 vụ một năm, thì mỗi Trọng tài viên của VIAC chỉ xử 4 vụ”.
Mặc dù Luật Trọng tài thƣơng mại 2010 đã có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2011 các doanh nghiệp Việt Nam chƣa thật sự “mặn mà” với việc đem tranh
chấp của mình ra giải quyết tại Trọng tài? Rõ ràng các nhà kinh doanh của ta chƣa
Vũ Thị Hải Vân
9
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
đặt trọn niềm tin vào các Trọng tài viên, cũng nhƣ chƣa hoàn toàn coi trọng hiệu
quả của việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và hiệu lực thi hành của các quyết
định Trọng tài.
Qua sự phân tích trên có thể thấy, giải quyết TCKDTM bằng Tòa án vẫn
chiếm ƣu thế chủ đạo trong việc lựa chọn các phƣơng thức giải quyết TCKDTM ở
nƣớc ta. Theo thống kê có đến hơn 95% tranh chấp hợp đồng thƣơng mại trong
nƣớc đƣợc đƣa ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy
định của BLTTDS. Bằng các quyết định và bản án của Tòa án, các bên có tranh
chấp buộc phải thực hiện để khắc phục và chấm dứt tranh chấp, đảm bảo cho hoạt
động KDTM trong nền kinh tế diễn ra trong trật tự lập pháp. Ƣu thế này không có ở
các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhƣ thƣơng lƣợng, hòa giải ngoài tố
tụng hoặc nếu có nhƣ trọng tài thì cũng không đƣợc đảm bảo một cách triệt để.
b) Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết TCKDTM
Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết TCKDTM, xét theo mối quan hệ
với các cơ quan nhà nƣớc khác, là xác định phạm vi những TCKDTM thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án, phân định những tranh chấp về KDTM thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan nhà nƣớc khác. Xét theo mối quan hệ giữa các Tòa án
với nhau thì thẩm quyền trong giải quyết TCKDTM trƣớc hết xác định phạm vi giải
quyết các TCKDTM so với phạm vi xét xử về hình sự, dân sự, hành chính và giải
quyết những vụ việc khác thuộc thẩm quyền xét xử, giải quyết của Tòa án theo quy
định của pháp luật.
Thẩm quyền giải quyết TCKDTM của Tòa án nhân dân là quyền của một
Tòa án hoặc các Tòa án trong hệ thống Tòa án nhân dân đƣợc tiến hành những thủ
tục giải quyết một TCKDTM cụ thể theo quy định của pháp luật tố tụng.
Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết TCKDTM xác định những tranh
chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, tranh chấp nào thuộc thẩm quyền
giải quyết của cơ quan nhà nƣớc khác. Một tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án thì tranh chấp đó do Tòa án nào giải quyết.
Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết TCKDTM dựa trên quy định của
pháp luật. Pháp luật quy định những TCKDTM nào thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Những TCKDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án đƣợc xác định căn cứ vào các yếu
tố:
Thứ nhất, tính chất riêng biệt của các quan hệ pháp luật về KDTM. Tính
chất riêng này đƣợc xác định theo ý chí của nhà lập pháp căn cứ vào các tiêu chí
Vũ Thị Hải Vân
10
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
nhất định. Nhà lập pháp cho rằng những nhóm quan hệ cùng tính chất cần điều
chỉnh theo phạm vi riêng để trên cơ sở đó phân biệt với các loại quan hệ khác và
nhằm đến hiệu quả của hoạt động điều chỉnh pháp luật. Tuy nhiên, cách phân biệt
nào cũng có tính tƣơng đối và có thể sẽ không phản ánh hết nội hàm của các loại
quan hệ do sự giao thoa của các quan hệ xã hội.
Thứ hai, thành phần chủ thể của quan hệ pháp luật về kinh doanh thương
mại. Yếu tố chủ thể trong quan hệ pháp luật cũng đƣợc các nhà lập pháp quan tâm
khi phân loại các quan hệ xã hội. Tƣơng ứng với từng loại quan hệ xã hội các chủ
thể tham gia có sự khác nhau về thành phần và phạm vi thẩm quyền. Yếu tố này gắn
liền với phạm vi hoạt động, mức độ thể hiện quyền hạn trong các quan hệ pháp luật.
Vì có sự phân biệt các quan hệ pháp luật nên yếu tố chủ thể có địa vị pháp lý khác
nhau khi tham gia thiết lập các quan hệ pháp lý đó. Ví dụ: chủ thể có đăng ký kinh
doanh mới là chủ thể của quan hệ pháp luật về KDTM.
Thứ ba, mục đích của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật về
KDTM. Mục đích là mong muốn của các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp
luật. Đó là cái đích mà một chủ thể nào đó nhắm đến khi thiết lập các quan hệ xã
hội. Điều này liên quan mật thiết đến thẩm quyền xét xử mà cụ thể là sự phân loại
án trong hoạt động tố tụng và cơ quan xét xử. Trong tố tụng dân sự, các loại vụ việc
đƣợc phân chia thành bốn loại khác nhau, trong đó các hoạt động kinh doanh tiêu
chí mục đích đƣợc xác định là chủ yếu. Đây là căn cứ để phân biệt với các vụ việc
khác.
Pháp luật quy định cụ thể những TCKDTM thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án. Tuy nhiên, không phải từ những quy định này, mỗi khi có tranh chấp
phát sinh trong hoạt động KDTM thì Tòa án tự đƣa ra giải quyết, mà phải có yêu
cầu của đƣơng sự. Thẩm quyền giải quyết TCKDTM của Tòa án chỉ xuất hiện khi
có yêu cầu của đƣơng sự, theo sự lựa chọn của đƣơng sự. Pháp luật tố tụng dân sự
có sự phân chia thẩm quyền giải quyết TCKDTM theo cấp Tòa án, theo lãnh thổ,
theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Việc phân chia này sẽ đƣợc nghiên cứu cụ thể ở
Chƣơng 2 của khóa luận khi phân tích các quy định của pháp luật về thẩm quyền
của Tòa án trong giải quyết TCKDTM.
Vũ Thị Hải Vân
11
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
Chƣơng 2
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN TOÀ ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ THỰC
TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
Nhƣ đã phân tích ở chƣơng trƣớc, hình thức giải quyết TCKDTM bằng Tòa
án đƣợc coi nhƣ một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả nhất các quyền và
lợi ích của các chủ thể kinh doanh khi họ thất bại trong việc sử dụng các cơ chế giải
quyết tranh chấp khác. Tại sao đây không phải là lựa chọn đầu tiên của các bên khi
có tranh chấp xảy ra? Lý do quan trọng là quy định của pháp luật về thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM còn nhiều bất cập, hạn chế. Với việc
phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án trong
giải quyết TCKDTM; đồng thời đƣa ra những báo cáo số liệu thực tiễn về tình hình
giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại của Tòa án; qua đó rút ra những
vƣớng mắc trong quy định của pháp luật và những khó khăn trong thực tiễn thực thi
thẩm quyền của Tòa án; khóa luận sẽ có cái nhìn khái quát nhất về thực trạng pháp
luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM và thực tiễn thực thi
ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thƣơng mại theo pháp luật hiện hành
2.1.1. Thẩm quyền theo loại việc của Tòa án
Xác định thẩm quyền theo vụ việc là xác định phạm vi các tranh chấp phát
sinh từ hoạt động KDTM đƣợc pháp luật xác định thuộc quyền hạn giải quyết của
Tòa án. Theo quy định tại Điều 29 BLTTDS 2004 thì Tòa án có thẩm quyền giải
quyết những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM bao gồm:
a) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
Theo quy định tại khoản 1 điều 29 BLTTDS 2004 tranh chấp phát sinh
trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hoá; Cung ứng dịch vụ; Phân
phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng; Tƣ vấn, kỹ
thuật; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đƣờng sắt, đƣờng bộ, đƣờng thuỷ nội
địa; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển; Mua
bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tƣ, tài chính, ngân hàng; Bảo
hiểm; Thăm dò, khai thác. Các tranh chấp này đƣợc điều chỉnh trong các luật
Vũ Thị Hải Vân
12
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
chuyên ngành nhƣ: Luật Thƣơng mại, Luật đƣờng sắt, Luật hàng không dân dụng,
Luật giao thông đƣờng thủy nội địa, Luật giao thông đƣờng bộ, Luật kinh doanh
bảo hiểm, Luật kinh doanh bất động sản, Luật đầu tƣ, Luật xây dựng, Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của luật khoáng sản.
Ngoài ra, mặc dù tính đến ngày 01/07/2016 mới bắt đầu có hiệu lực nhƣng
cũng cần nói đến BLTTDS 2015 cũng đã bổ sung thêm những tranh chấp về kinh
doanh, thƣơng mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhƣ: “Tranh chấp giữa người
chưa phải là thành viên công tynhuwng cso giao dịch về chuyển nhuwongjphaanf
vốn góp với công ty, thành viên công ty”, “Tranh chấp công ty với nguwoif quản lý
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc,
tổng giám đốc trong công ty cổ phần”.( Căn cứ Khoản 3,4,5 Điều 30 BLTTDS
2015)
Qua đó, các tranh chấp đƣợc coi là tranh chấp trong hoạt động kinh doanh
thƣơng mại phải hội đủ ba điều kiện:
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ tranh chấp phải có đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật, trong đó cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân
tổ chức đƣợc các cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhƣ: cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác; doanh nghiệp; hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; cá nhân, tổ chức khác theo quy
định của pháp luật về đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM. “Hoạt động KDTM
không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký KDTM mà còn bao gồm cả các hoạt
động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại”
(Nghị quyết 01/2005 của Hội đồng Thẩm phán ngày 31/3/2005 Hƣớng dẫn thi hành
một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của BLTTDS 2004,
gọi tắt là Nghị quyết 01).
Thứ ba, các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận. Theo hƣớng dẫn
Nghị quyết 01 mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động KDTM là
mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu đƣợc lợi nhuận mà không phân biệt có thu
đƣợc hay không thu đƣợc lợi nhuận từ hoạt động KDTM đó.
b) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ
Do sự phát triển mạnh mẽ của thông tin,công nghệ… Sở hữu trí tuệ là một
loại tài sản rất đặc biệt, nó vô hình, nhƣng có giá trị cao, là nhân tố quan trọng trong
nền kinh tế hiện đại. Do đó, tài sản trí tuệ này thƣờng bị xâm hại dẫn đến những
Vũ Thị Hải Vân
13
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
tranh chấp. Trƣớc yêu cầu hội nhập thế giới pháp luật tố tụng dân sự quy định thẩm
quyền cho Tòa án giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công
nghệ giữa cá nhân, tổ chức là cần thiết, nó đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, là cơ sở
pháp lý để Tòa án có thẩm quyền thụ lý, giải quyết các tranh chấp sở hữu trí tuệ và
chuyển giao công nghệ, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích các đƣơng sự, tạo niềm tin
cho các chủ thể sáng tạo.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ là tranh chấp về quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tài sản trí tuệ bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Tranh chấp về hợp đồng chuyển giao công nghệ là tranh chấp về các thỏa
thuận trong việc chuyển giao bí quyết, kỹ thuật, kiến thức kỹ thuật về công nghệ
dƣới dạng phƣơng án công nghệ các giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ
thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, chƣơng trình máy tính, thông tin dữ liệu về công nghệ
chuyển giao, giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ, cấp phép đặc quyền
kinh doanh và các đối tƣợng khác do pháp luật về chuyển giao công nghệ quy định.
Đối với tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ thì
không đòi hỏi cá nhân tổ chức phải đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ
chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động KDTM. Nếu chỉ có một bên có mục
đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó đƣợc coi
là tranh chấp dân sự đƣợc quy định khoản 4 Điều 25 BLTTDS 2004. Nhƣ vậy “mục
đích lợi nhuận là tiêu chí duy nhất dùng để xác định một vụ tranh chấp về quyền sở
hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ là TCKDTM hay tranh chấp dân sự.
c) Tranh chấp phát sinh trong nội bộ công ty liên quan đến quản lý điều hành và
phân phối lợi nhuận trong nội bộ công ty
Đó là tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Trong đó:
Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty là các tranh
chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty (thông thƣờng phần vốn
góp đó đƣợc tính bằng tiền, nhƣng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị
quyền sở hữu công nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với
mỗi công ty cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tƣơng ứng với
phần vốn góp vào công ty; về quyền đƣợc chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ
tƣơng ứng với phần vốn góp vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc
Vũ Thị Hải Vân
14
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà
công ty đã ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức
của công ty..
Trên thực tế, có nhiều tranh chấp phát sinh giữa thành viên công ty với
công ty hoặc giữa các thành viên công ty với nhau. Tuy nhiên, các tranh chấp này
không phải tất cả đều là các TCKDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án. Qua đó để
xác định một tranh chấp là tranh chấp công ty cần có hai điều kiện, đó là các bên
tranh chấp phải là công ty hoặc thành viên công ty; và tranh chấp phát sinh từ việc
thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức
tổ chức của công ty.
d) Tranh chấp khác về kinh doanh mà pháp luật quy định
Đây là quy định mở trong BLTTDS 2004 nhằm dự liệu những tranh chấp
trong hoạt động kinh doanh chƣa đƣợc liệt kê trong BLTTDS nhƣng đƣợc quy định
trong luật khác hoặc các tranh chấp mới phát sinh từ thực hiện hoạt động kinh
doanh và đƣợc xác định là hoạt động KDTM.
Phải thừa nhận rằng so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
trƣớc đây thì các quy định trong BLTTDS 2004 hiện hành về phạm vi giải quyết
TCKDTM của Tòa án đã đƣợc mở rộng rất nhiều, trƣớc mắt cũng giúp cho Tòa án
tháo gỡ đƣợc một số vƣớng mắc trong thực tiễn. Đặc điểm chung của việc lập pháp
về thẩm quyền theo kiểu liệt kê này có ƣu điểm là: nội dung rõ ràng, cụ thể dễ dàng
trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp thuộc thẩm quyền.
Tuy nhiên về mặt khoa học lập pháp cách quy định thẩm quyền theo kiểu liệt kê
nhƣ vậy chắc chắn sẽ làm cho pháp luật giải quyết TCKDTM nhanh chóng lạc hậu
trong nền kinh tế thị trƣờng sôi động, sự thay đổi và mở rộng các quan hệ thƣơng
mại ngày một gia tăng ở nƣớc ta hiện nay. Điều này cũng kéo theo những vƣớng
mắc trong việc áp dụng thẩm quyền giải quyết TCKDTM của Tòa án.
2.1.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử của Toà án
Thẩm quyền theo cấp xét xử của Tòa án là giới hạn do pháp luật quy định
để Tòa án các cấp thực hiện chức năng giải quyết các TCKDTM. Thông thƣờng
thẩm quyền của Tòa án các cấp đƣợc phân chia căn cứ vào giá trị tranh chấp, tính
chất của sự việc và khả năng, điều kiện của từng cấp Tòa án. Theo pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam, thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp đƣợc quy định căn cứ vào
các tiêu chí:
Vũ Thị Hải Vân
15
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
Thứ nhất, tính chất phức tạp của vụ việc. Tính chất phức tạp của vụ việc là
độ khó của việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc đó. Độ khó của vụ việc phụ
thuộc vào các yếu tố: phạm vi không gian, thành phần chủ thể của quan hệ pháp
luật, mức độ sử dụng nghiệp vụ trong hoạt động áp dụng pháp luật. Các quan hệ
pháp luật về KDTM có thể diễn ra trong phạm vi hẹp nhƣng cũng có thể đƣợc xác
lập trong phạm vi không gian liên quan đến nhiều quốc gia phụ thuộc vào tính chất
quan hệ. Điều này hẳn nhiên có nhiều khó khăn cho các đƣơng sự trong việc thu
thập chứng cứ để chứng minh, Tòa án thực hiện các thủ tục tƣ pháp để giải quyết vụ
việc. Với khả năng của mình, một số Tòa án có thể không áp dụng các biện pháp tƣ
pháp để thực hiện nhiệm vụ mà cần có sự can thiệp của Tòa án cấp cao hơn.
Thứ hai, điều kiện khả năng giải quyết các tranh chấp của từng cấp Tòa án.
Năng lực của Tòa án phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong đó có yếu tố nhân lực,
phƣơng tiện trang bị kỹ thuật và khả năng thực hiện ủy thác tƣ pháp. Do đó, những
Tòa án có kinh nghiệm, khả năng thực hiện xét xử sẽ thuận lợi hơn các Tòa án khác
chƣa có điều kiện thực thi những vấn đề này. Thẩm quyền của Tòa án các cấp của
một số nƣớc trên thế giới cũng quy định theo hƣớng này (Trung Quốc, Nga, Đài
Loan).
2.1.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là giới hạn (khả năng) do pháp luật
quy định xác định chức năng giải quyết các vụ việc KDTM của Tòa án theo đơn vị
hành chính lãnh thổ. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định Tòa án có
nghĩa vụ giải quyết các vụ việc KDTM theo yêu cầu của đƣơng sự khi khởi kiện.
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đƣợc xác định:
Thứ nhất, nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở. Khác với nguyên đơn là
ngƣời trực tiếp bảo vệ quyền lợi của mình, chủ động trong việc yêu cầu Tòa án giải
quyết mâu thuẫn thì bị đơn là ngƣời tham gia tố tụng trong trạng thái bị động và yếu
thế hơn nên pháp luật quy định Tòa án nơi bị đơn cƣ trú có thẩm quyền giải quyết.
Hơn nữa xét ở góc độ tâm lý, bị đơn thông thƣờng là ngƣời thực hiện nghĩa vụ trƣớc
nguyên đơn nên thái độ tham gia tố tụng của họ kém tích cực, thiếu sự hợp tác trong
việc làm sáng tỏ nội dung vụ việc. Việc quy định Tòa án nơi bị đơn cƣ trú, làm việc,
có trụ sở là phù hợp và cần thiết.
Bên cạnh đó, sự thuận lợi của Tòa án nhân dân trong quá trình giải quyết
tranh chấp cũng là yếu tố đƣợc tính đến khi quy định thẩm quyền của Tòa án theo
cấp lãnh thổ. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân gắn liền với hoạt động kiểm
Vũ Thị Hải Vân
16
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
tra, đánh giá chứng cứ. Tòa án nơi bị đơn cƣ trú, làm việc có trụ sở có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp, có điều kiện thuận lợi trong việc xác định thông tin, tài liệu
liên quan, thực hiện các thủ tục tố tụng trong việc xác định sự thật khách quan của
vụ án.
Hơn nữa, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ còn là cơ sở giúp Tòa án
ngăn chặn, kiểm soát việc xét xử nhiều lần đối với một vụ án. Về nguyên tắc, một
sự việc chỉ đƣợc Tòa án giải quyết một lần từ khi thụ lý vụ án cho đến khi ra bản án
quyết định có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là kết
luận cuối cùng về nội dung sự việc. Việc cần có cơ chế phù hợp ngăn chặn tình
trạng một sự việc giải quyết nhiều lần là cần thiết. Đó chính là hình thức ngăn chặn
lạm quyền, chồng chéo, mâu thuẫn trong hoạt động thực thi và áp dụng pháp luật.
Thứ hai, theo sự lựa chọn của đương sự. Theo pháp luật tố tụng dân sự, các
đƣơng sự có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp bằng thoả thuận trong hợp
đồng. Tuy nhiên, sự lựa chọn này giới hạn trong phạm vi hẹp giữa các đƣơng sự và
do pháp luật quy định sẵn. Đó là Tòa án nơi nguyên đơn cƣ trú, làm việc, có trụ sở.
Thứ ba, đối với tranh chấp bất động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải
quyết là Tòa án nơi có bất động sản. Quy định này có ƣu điểm:
Trƣớc hết, do bản chất của bất động sản gắn liền với đất và là đối tƣợng
tranh chấp trong vụ án nên Tòa án sẽ thuận lợi trong hoạt động kiểm tra, đánh giá
chứng cứ, xác minh sự việc. Điều đó cũng giúp cho đƣơng sự dễ dàng trong việc
chứng minh là quyền lợi của mình bị ngƣời khác xâm phạm cũng nhƣ phản bác yêu
cầu của đƣơng sự khác đặt ra đối với mình.
Bên cạnh đó, bất động sản gắn liền với quá trình hình thành, tồn tại, phát
triển và các yếu tố pháp lý liên quan đến bất động sản đó. Hầu hết các bất động sản
có quá trình hình thành, tồn tại trong thời gian dài và đòi hỏi có chứng thƣ pháp lý
ghi nhận và những ngƣời sống lâu năm chứng nhận. Để xác định tính hợp pháp của
tài sản và tính có căn cứ của yêu cầu, chỉ có Tòa án nơi có bất động sản giải quyết
mới có đầy đủ thông tin, tài liệu về tài sản đó. Từ đó, Tòa án dễ dàng hơn trong việc
xác định sự thật của vụ án.
Ngoài ra, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ còn có mối liên hệ mật thiết
với hoạt động thi hành án dân sự. Về cơ bản, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
đƣợc quy định trong pháp luật tố tụng dân sự cũng là thẩm quyền theo địa hạt đối
với hoạt động thi hành án. Cơ quan thi hành án cùng cấp với Tòa án xét xử sơ thẩm
trừ trƣờng hợp ủy thác. Các tiêu chí xây dựng thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Vũ Thị Hải Vân
17
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
cũng là tiêu chí xác định thẩm quyền thi hành án của cơ quan thi hành án. Đối tƣợng
tranh chấp trong các vụ án cũng chính là đối tƣợng của hoạt động thi hành án sau
khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Điều này tạo thuận lợi cho cơ quan thi
hành các bản án, quyết định do Tòa án tuyên.
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với các TCKDTM đƣợc quy định
tại điều 35 BLTTDS 2004. Đây là cơ sở pháp lý xác định Tòa án cụ thể có trách
nhiệm giải quyết các vụ án KDTM theo yêu cầu của công dân, tổ chức kinh tế.
2.1.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn của Toà án
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là giới hạn do
luật định cho các chủ thể trong việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết
TCKDTM. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là hình thức
pháp luật đƣa ra các quy định về các Tòa án có thẩm quyền giải quyết và nguyên
đơn đƣợc lựa chọn theo ý chí của mình. Thực chất của thẩm quyền theo sự lựa chọn
của nguyên đơn là ngoại lệ của những quy tắc chung về thẩm quyền. Theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự, bên cạnh những tranh chấp nguyên đơn bắt buộc phải
khởi kiện tại Tòa án đã quy định thì một số tranh chấp khác pháp luật trao quyền
chủ động cho nguyên đơn đƣợc tự mình quyết định chọn Tòa án để khởi kiện. Quy
định này hƣớng đến mục tiêu là tạo sự thuận lợi cho nguyên đơn thực hiện quyền
bảo vệ quyền của họ. Quy định về thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn nhà
lập pháp căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của ngƣời khởi kiện; tính chất của đối
tƣợng tranh chấp.
Khi nguyên đơn lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp, họ cũng có thể chọn
Tòa án theo sự bắt buộc hoặc theo yêu cầu. Tuy nhiên, việc lựa chọn Tòa án giải
quyết cũng phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định nhƣ chỉ đƣợc lựa chọn những
Tòa án mà pháp luật quy định, việc lựa chọn phải tuân theo yêu cầu luật định (lựa
chọn có điều kiện và không điều kiện) và khi đã lựa chọn Tòa án giải quyết tranh
chấp thì nguyên đơn không đƣợc lựa chọn Tòa án khác giải quyết nữa.
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn đƣợc quy định tại
điều 36 BLTTDS 2004. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để khởi kiện đối với
các tranh chấp trong KDTM nhƣ sau:
Nếu không biết nơi cƣ trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Toà án nơi bị đơn cƣ trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có
tài sản giải quyết;
Vũ Thị Hải Vân
18
LKT12-01
Khóa luận tốt nghiệp 2016
Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải
quyết;
Nếu tranh chấp về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Toà án nơi mình cƣ trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây
thiệt hại giải quyết;
Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Toà án nơi hợp đồng đƣợc thực hiện giải quyết;
Nếu các bị đơn cƣ trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cƣ trú, làm việc, có trụ sở giải
quyết;
Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phƣơng khác
nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải
quyết.
Nhìn chung, việc quy định thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc, theo cấp
Tòa án, theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn là phù hợp với xu hƣớng
chung của pháp luật giải quyết TCKDTM và phù hợp với tổ chức hệ thống Tòa án ở
Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn xác định thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết
TCKDTM không hề dễ dàng. Những vƣớng mắc trong áp dụng pháp luật và khó
khăn trong thực tiễn thực thi thẩm quyền sẽ đƣợc phân tích cụ thể ở phần tiếp theo.
2.2. Thực tiễn thực thi thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
thông qua Tòa án ở Việt Nam
Theo Báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án Nhân dân Tối cao, tình hình
thụ lý, giải quyết các loại vụ án nói chung và các vụ án kinh doanh thƣơng mại nói
riêng đã đạt đƣợc những thành tích nhất định. Thể hiện qua các bảng số liệu dƣới
đây:
Vũ Thị Hải Vân
19
LKT12-01