ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG TỐ NGUYÊN
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG
MẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy
Hà Nội – 2013
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
NGƢỜI CAM ĐOAN
HOÀNG TỐ NGUYÊN
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Mở đầu 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI 7
1.1. Khái quát về thẩm quyền của Toà án trong hệ thống pháp luật 7
1.2. Tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại và thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại 8
1.2.1. Tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại 8
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thƣơng mại 14
1.3.Pháp luật nƣớc ngoài về phân định thẩm quyền của Toà án trong
việc giải quyết giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại 22
Chƣơng 2 PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN TOÀ ÁN TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI
VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM 25
2.1. Thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại theo pháp luật hiện hành 25
2.1.1. Thẩm quyền theo loại việc của Tòa án 25
2.1.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử của Toà án 30
2.1.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án 32
2.1.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn của Toà án 35
2.2. Thực tiễn thực thi thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay 38
iv
2.2.1. Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh
thƣơng mại thông qua Tòa án ở Việt Nam 38
2.2.2. Những vƣớng mắc trong quy định của pháp luật về xác định thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng
mại 41
2.2.3. Những khó khăn nảy sinh trong thực tiễn thực hiện thẩm quyền
của Tòa án 50
Chƣơng 3 :HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI 62
3.1. Phƣơng hƣớng và yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết TCKDTM 62
3.1.1. Đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng trong bối cảnh cải
cách tƣ pháp, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của Việt Nam 62
3.1.2. Đảm bảo đƣợc yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 65
3.1.3. Đảm bảo sự đồng bộ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng
nhằm đảm bảo hiệu lực của pháp luật tố tụng trong giải quyết tranh chấp 66
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại 68
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền
của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại 68
3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại thông qua Tòa án 75
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
v
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
1) KÝ HIỆU QUỐC TẾ
ICC Phòng thƣơng mại quốc tế
ICSID Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tƣ quốc tế
UNCITRAL Luật thƣơng mại quốc tế
WTO Tổ chức thƣơng mại thế giới
2) CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHXHCNVN Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
KDTM Kinh doanh, thƣơng mại
TCKDTM Tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Tình hình thụ lý và giải quyết các loại vụ án nói
chung ở cấp sơ thẩm của ngành Tòa án từ năm
2006 đến 2011
38
Bảng 2.2
Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp
trong kinh doanh, thƣơng mại ở cấp sơ thẩm của
ngành Tòa án từ năm 2006 đến 2011
38
Bảng 2.3
Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thƣơng mại ở cấp sơ thẩm của Tòa
án Hà Nội từ năm 2006 đến 2011
39
Bảng 2.4
Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại ở cấp sơ thẩm của Tòa án thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến 2011
39
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển đặc biệt khi nƣớc ta đã
gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), các quan hệ kinh doanh,
thƣơng mại (KDTM) ngày càng đa dạng, phong phú và mang những diện mạo
sắc thái mới. Tƣơng ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các
tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại (TCKDTM) ngày càng muôn hình muôn
vẻ và với số lƣợng lớn.
Đáp ứng yêu cầu giải quyết các TCKDTM của cá nhân, tổ chức trong
nền kinh tế thực tiễn đã hình thành nhiều phƣơng thức giải quyết TCKDTM
nhƣ: thƣơng lƣợng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục Trọng tài, giải quyết theo
thủ tục tƣ pháp. Ở Việt Nam các đƣơng sự thƣờng lựa chọn hình thức giải
quyết TCKDTM bằng Toà án nhƣ một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu
quả các quyền và lợi ích của mình khi thất bại trong việc sử dụng cơ chế
thƣơng lƣợng, hoà giải. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng con đƣờng
Toà án vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm đó là: vƣớng mắc từ phía pháp
luật chƣa phù hợp, dẫn đến việc áp dụng không đạt đƣợc tính thuyết phục;
hƣớng dẫn của ngành không thống nhất, quan điểm giải quyết không thống
nhất giữa các cấp giải quyết, điều đó làm cho hoạt động xét xử của Toà án
gặp nhiều khó khăn vƣớng mắc. Mặc dù năm 2011 Bộ luật Tố tụng dân sự đã
đƣợc sửa đổi, bổ sung, nhƣng các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải
quyết TCKDTM của Tòa án vẫn chƣa đƣợc khắc phục. Hơn nữa, trong Nhà
nƣớc pháp quyền cũng đòi hỏi hoạt động xét xử của Toà án phải đảm bảo
công minh, nhanh chóng, chính xác và kịp thời tránh tình trạng tồn đọng án,
giải quyết án kéo dài, dễ gây phiền hà, mệt mỏi cho các bên đƣơng sự.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình cải
cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, công cuộc cải cách tƣ pháp
2
cũng đang đƣợc Đảng và Nhà nƣớc tích cực triển khai, coi đây nhƣ là khâu đột
phá quan trọng, thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này đƣợc thể hiện rõ nét trong Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về “chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến
năm 2020”. Công cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta đã và đang đặt ra một loạt
vấn đề lý luận và thực tiễn cần đƣợc giải quyết một cách hợp lý và thoả đáng,
trong đó có vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nói chung cũng
nhƣ tạo lập khuôn khổ pháp lý điều chỉnh pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể kinh doanh, kể cả việc giải quyết vấn
đề đặt ra về tố tụng kinh tế, dân sự nói riêng sao cho thích hợp hiện cũng cần
đƣợc quan tâm thích đáng nhằm tìm ra phƣơng hƣớng giải quyết đúng đắn,
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra trong
giai đoạn hiện nay. Nói một cách khác, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng
cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động xét xử của Toà án đối với việc giải
quyết các TCKDTM. Đây là một trong số những nội dung cơ bản, quan trọng
trong việc cải cách và trên nền tảng đó, hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế, giữ vững an ninh chính trị và hội nhập quốc tế.
Trƣớc những yêu cầu của thực tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy
định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM
nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cũng nhƣ thực tiễn, tìm ra những hạn
chế, vƣớng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, từ đó đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ
án kinh tế theo tinh thần cải cách tƣ pháp là hết sức cần thiết và vẫn có tính thời
sự, rất đƣợc quan tâm trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Do vậy, tác giả đã chọn đề tài “Thẩm quyền của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay ” để
làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, bài viết nghiên
cứu về vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM theo
những khía cạnh khác nhau nhƣ:
Giáo trình Luật thương mại, Đại học Luật Hà Nội, năm 2006; Giáo
trình Luật kinh tế Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001 … Các bài
tạp chí chuyên ngành luật học nhƣ: Giải quyết TCKDTM theo quy định của
BLTTDS 2004 (Viên Thế Giang, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 12/2005);
Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo BLTTDS và các vấn
đề đặt ra trong thực tiễn thi hành (Phan Chí Hiếu, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp
luật số 6/2005); Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường
Tòa án (Nguyễn Vũ Hoàng, NXB Thanh niên, năm 2003) Các luận án tiến
sỹ nhƣ luận án “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà
án ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh; luận án “Thẩm quyền xét
xử của Toà án nhân dân đối với các vụ việc KDTM theo pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Tiến. Một số luận văn thạc sĩ liên quan
đến vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM nhƣ: “Một
số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
tại Tòa án nhân dân cấp huyện” của tác giả Nguyễn Vũ Hoàng; “Giải quyết
tranh chấp thương mại bằng Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp ở Việt
Nam” của tác giả Vũ Quốc Hùng…
Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
TCKDTM trong thời gian qua. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đều
chƣa tập trung đƣa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả của hoạt động giải quyết TCKDTM. Hơn nữa nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn đang tiếp tục đƣợc đặt ra và có nhu cầu giải quyết hoặc chƣa đƣợc cập
4
nhật trong pháp luật hiện hành. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra trong tiến trình
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng
ở nƣớc ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành liên quan
trực tiếp đến vấn đề thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết TCKDTM
mục đích của luận văn là đƣa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của pháp
luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM nói riêng và
pháp luật giải quyết TCKDTM nói chung nhằm đảm bảo mọi TCKDTM đều
đƣợc giải quyết một cách thuận lợi và triệt để.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài nghiên cứu có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Hệ thống đƣợc cơ sở lí luận, quan điểm khoa học, nhận thức chung về
thẩm quyền quyền xét xử của Toà án nhân dân trong việc giải quyết
TCKDTM. Đây là cơ sở khoa học làm cơ sở cho việc xác định thẩm quyền tƣ
pháp nói chung và thẩm quyền xét xử đối với các vụ việc KDTM nói riêng.
- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết các TCKDTM. Thực tiễn thi hành
pháp luật, trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, vƣớng mắc trong thực
thi pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các TCKDTM.
- Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM nhằm hoàn thiện công cụ pháp lý trong lĩnh vực kinh doanh, tiền
đề cho cải cách tƣ pháp, tiến tới xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xã hội dân chủ, bình đẳng, văn minh.
5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là các quy phạm pháp luật hiện
hành liên quan trực tiếp đến vấn đề thẩm quyền của Toà án trong việc giải
quyết TCKDTM mà đặc biệt là Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã đƣợc sửa đổi
bổ sung 2011 và những văn bản pháp luật có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu pháp luật thực định Việt
Nam về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thƣơng mại trong việc đối chiếu so sánh với pháp luật nƣớc ngoài về thẩm
quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
triết học Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đƣờng lối, chính
sách của Đảng, Nhà nƣớc ta về phát triển kinh tế xã hội, về xây dựng và hoàn
thiện pháp luật trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các phƣơng pháp đƣợc sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm
các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý nói riêng nhƣ phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, hệ thống hóa pháp luật
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn vấn
đề, xác định những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM, đồng thời phân tích kinh nghiệm
pháp luật một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này. Tác giả của luận văn
với mong muốn đây là công trình nghiên cứu có ít nhiều giá trị về mặt lý luận
cũng nhƣ thực tiễn để làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động giảng dạy
pháp lý cũng nhƣ tạo những gợi ý có giá trị cho các nhà lập pháp hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật về giải quyết TCKDTM.
6
7. Kết cấu
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Những vấn đề lí luận về thẩm quyền của Toà án trong việc giải
quyết TCKDTM
Chƣơng 2. Pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM và thực tiễn thực thi pháp luật ở Việt Nam
Chƣơng 3. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải
quyết TCKDTM
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về thẩm quyền của Toà án trong hệ thống pháp luật
Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo
pháp luật [48, tr922]. Về mặt pháp lý, thẩm quyền là một quyền năng thi hành
trao cho một cơ quan đƣợc thiết lập chính thức bởi pháp luật hay một lãnh đạo
chính trị để giải quyết và đƣa ra những tuyên bố về những vấn đề pháp lý và
để đảm bảo công lý trong phạm vi lãnh thổ cụ thể.
Thẩm quyền là giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể nhất định
(cá nhân, tổ chức) và đƣợc quyết định khi thực hiện các hoạt động thuộc thẩm
quyền. Thẩm quyền gắn liền với bộ máy nhà nƣớc và các cá nhân có thẩm
quyền khi thực hiện các hoạt động trong phạm vi, quyền hạn.
Thẩm quyền của Tòa án đƣợc quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ
chức Toà án Nhân dân năm 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2004
(BLTTHS 2004), Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 (BLTTDS 2004), Luật Tố
tụng hành chính năm 2010 (BLTTHC 2010) và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Toà án là cơ quan xét
xử duy nhất của nƣớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN), chức năng xét xử của Toà án là chức năng cơ bản và quan
trọng nhất, nó bao trùm và xuyên suốt quá trình hoạt động của Toà án. Điều
127 Hiến pháp 1992 quy định Toà án Nhân dân tối cao, các Toà án Nhân dân địa
phƣơng, các Toà án Quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan
xét xử của nƣớc CHXHCNVN; Điều 1 Luật Tổ chức Toà án Nhân dân quy định
Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
8
Qua đó, thẩm quyền của Tòa án trong hệ thống pháp luật đƣợc hiểu với
những cấp độ và nội dung khác nhau. Cụ thể:
Thẩm quyền của Tòa án là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc
thực hiện pháp luật mà trọng tâm là công tác xét xử các loại vụ án theo quy
định của pháp luật. Theo đó tùy thuộc vào quyền hạn do luật định, Tòa án các
cấp, các Tòa án khác nhau trong hệ thống Tòa án, có phạm vi quyền hạn khác
nhau trong việc xét xử các loại vụ án. Giới hạn thẩm quyền căn cứ vào nhu
cầu điều chỉnh pháp luật từ thực tiễn khách quan, khả năng điều kiện của các
Tòa án trong việc thực thi nhiệm vụ cũng nhƣ hiệu quả của hoạt động đó.
Bên cạnh đó, thẩm quyền của Tòa án còn là sự phân định quyền hạn
giữa Tòa án Nhân dân và các cơ quan chức năng khác trong hệ thống các cơ
quan nhà nước. Theo luật định mỗi hệ thống cơ quan nhà nƣớc có chức năng,
nhiệm vụ riêng thực hiện các công việc do nhà nƣớc giao phó. Sự phân công
này nhằm đảm bảo tính chuyên môn, chuyên nghiệp hóa; phân định lĩnh vực
hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc. Tòa án Nhân dân với chức năng là cơ
quan xét xử, có trách nhiệm giải quyết các xung đột trong đời sống xã hội
xâm phạm đến lợi ích nhà nƣớc, công dân đƣợc quy định trong pháp luật. Tòa
án không thực hiện chức năng điều hành quản lý nhà nƣớc nhƣ các cơ quan
hành chính hoặc chuyên môn khác thuộc hệ thống cơ quan nhà nƣớc.
Từ những phân tích trên, theo tác giả thẩm quyền của Tòa án là phạm
vi giới hạn hoạt động của Tòa án và quyền năng pháp lý của Tòa án có mối
liên quan chặt chẽ với nhau bao gồm thẩm quyền xét xử, phạm vi – giới hạn
xét xử và quyền hạn quyết định của Tòa án.
1.2. Tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại và thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại
1.2.1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại
a ) Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
9
Tranh chấp đƣợc hiểu là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng (tranh cãi); sự mâu thuẫn
về các quyền yêu cầu hay quyền, sự đòi hỏi về quyền, yêu cầu hay đòi hỏi từ một bên
đƣợc đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngƣợc của bên kia 12, tr 9.
TCKDTM là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện cùng với sự ra đời
của BLTTDS năm 2004 thay thế cho thuật ngữ tranh chấp kinh tế, “ một khái
niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu vào tiềm thức và tƣ duy
pháp lý ngƣời Việt Nam”8, tr 427.
Tranh chấp kinh tế theo tƣ duy cũ quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án Kinh tế năm 1994, bao gồm:
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể
công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.
Với quy định này, khái niệm tranh chấp kinh tế vẫn không bao quát hết
các tranh chấp phát sinh trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam, ví dụ nhƣ
tranh chấp về hợp đồng có mục đích kinh doanh giữa hai doanh nghiệp tƣ
nhân với nhau không đƣợc xem là tranh chấp kinh tế mà xem là tranh chấp
dân sự. Điều này dẫn đến không có sự phân biệt rõ ràng giữa tranh chấp kinh
tế và tranh chấp dân sự.
Hiện nay ở Việt Nam chƣa có cách hiểu chuẩn xác và thống nhất về
TCKDTM. Việc xác định phạm vi của tranh chấp đƣợc coi là TCKDTM chủ
yếu căn cứ vào luật thực định.
Theo khoản 2 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 thì: “kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư
10
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”
Khoản 1 điều 3 Luật Thƣơng mại năm 2005 định nghĩa: “hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác”.
Khái niệm kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2005 và khái niệm
thƣơng mại theo Luật thƣơng mại 2005 về cơ bản là tƣơng thích với nhau và
cũng phù hợp với khái niệm thƣơng mại theo luật mẫu về thƣơng mại điện tử
của UNCITRAL: “Thuật ngữ thƣơng mại đƣợc diễn giải theo nghĩa rộng để
bao quát các vấn đề nảy sinh từ mọi quan hệ thƣơng mại, dù có hay không có
hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thƣơng mại bao gồm nhƣng không
phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thƣơng mại nào về
cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện
hoặc đại lý thƣơng mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng các
công trình; đầu tƣ; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc
tô nhƣợng; liên doanh hoặc các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng không,
đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ” [47].
Với cách định nghĩa trên hoạt động kinh doanh và hoạt động thƣơng
mại có nhiều nội hàm trùng nhau nhƣ về mục đích sinh lợi, về đầu tƣ, về cung
ứng dịch vụ, về tiêu thụ sản phẩm… Nhƣ vậy, có thể quan niệm TCKDTM là
những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực
hiện liên tục một, một số hoặc toàn bộ quá trình đầu tƣ từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm, cung ứng các dịch vụ trên thị trƣờng, xúc tiến thƣơng mại và
các hoạt động sinh lợi khác. Nói một cách ngắn gọn hơn, có thể định nghĩa
11
TCKDTM là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi giữa các chủ thể phát
sinh trong hoạt động KDTM.
Cách định nghĩa trên có hạn chế là tuy chỉ ra đƣợc bản chất của
TCKDTM là mâu thuẫn về quyền lợi phát sinh khi tham gia hoạt động
KDTM nhƣng lại không cho thấy biểu hiện của nó. Trong quan hệ kinh
doanh, giữa các bên luôn tồn tại đồng thời hai mối quan hệ vừa xung đột, vừa
hợp tác. Để xác định chính xác khi nào những xung đột lợi ích này chuyển
thành tranh chấp thì cần phải dựa vào những dấu hiệu biểu hiện của nó. Dấu hiệu
đó là khi một bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm yêu cầu phía bên
kia khắc phục nhƣng không nhận đƣợc sự đồng ý. Vì vậy, theo cách này, còn có
một cách định nghĩa khác đó là “TCKDTM xảy ra khi một bên trong quan hệ
KDTM khẳng định một trái quyền mà lại bị bên khác chống lại”. [49]
Từ các định nghĩa trên có thể nêu ra khái niệm TCKDTM nhƣ sau:
“TCKDTM là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi giữa các bên trong
quan hệ KDTM khi một bên khẳng định trái quyền của mình mà lại bị bên
khác chống lại”.
Mỗi cách định nghĩa đều có hạt nhân hợp lý của mình, vấn đề là sử
dụng thuật ngữ thống nhất trong tất cả các văn bản pháp luật. Và thuật ngữ đó
không thể bó hẹp nội dung cụ thể của tranh chấp mà mang tính bao quát, tiên
liệu các TCKDTM trong sự biến động của đời sống kinh tế hiện nay, nhƣng
lại xác định chính xác loại tranh chấp. Đặc biệt, xây dựng hệ thống pháp luật
giải quyết tranh chấp này thật hiệu quả là vấn đề thực tế đặt ra.
b) Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
TCKDTM là hệ quả phát sinh từ các quan hệ KDTM, các quan hệ có
tính tài sản với mục đích kinh doanh, kiếm lời. Khi tham gia các quan hệ
KDTM. các chủ thể đều hƣớng đến mục đích cao nhất là lợi nhuận, lợi ích
kinh tế. Do vậy, TCKDTM phát sinh trên cơ sở sự xâm phạm đến quyền lợi
12
kinh tế. Các tranh chấp này thƣờng có ảnh hƣởng đến không những quyền lợi
của các bên tranh chấp mà còn ảnh hƣởng đến sản xuất, kinh doanh của cả
cộng đồng kinh doanh. Đây chính là phản ứng dây chuyền của TCKDTM và
do vậy nếu nó không đƣợc giải quyết một cách khoa học, bảo đảm quyền lợi
của các bên trong quan hệ tranh chấp thì có thể ảnh hƣởng tiêu cực đến sự
phát triển của nền kinh tế đất nƣớc.
Giải quyết TCKDTM theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là cách thức,
phƣơng pháp cũng nhƣ các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp
phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh,
bảo vệ trật tự kỷ cƣơng xã hội. [18, tr.287]
Hoạt động KDTM có những đặc thù riêng cho nên khi tranh chấp xảy
ra các bên tranh chấp luôn mong muốn nhanh chóng chấm dứt xung đột để
bảo vệ hoặc khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, việc giải
quyết TCKDTM cần đáp ứng một số yêu cầu sau:
- Nhanh chóng, thuận lợi, không làm cản trở các hoạt động kinh doanh
- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, sự tín nhiệm giữa các bên
trong kinh doanh
- Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thƣơng trƣờng
- Kinh tế nhất, ít tốn kém nhất cả về thời gian, tiền bạc, sức lực
Việc lựa chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp nói riêng cũng nhƣ
mọi vấn đề liên quan đến quá trình giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh
nói chung dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên.
Cơ quan nhà nƣớc và Trọng tài thƣơng mại can thiệp theo yêu cầu của các
bên tranh chấp, kể cả khi Tòa án hoặc Trọng tài đã can thiệp trong quá trình tố
tụng, quyền tự định đoạt biểu hiện bằng những hành vi đơn phƣơng hoặc thỏa
thuận của các bên luôn đƣợc ghi nhận và tôn trọng. Quyền tự định đoạt của
các bên đƣợc coi là một nội dung của quyền tự do kinh doanh và đƣợc pháp
luật bảo hộ.
13
Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa
chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lựa
chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho mình. Có 4 phƣơng
thức giải quyết tranh chấp đó là: thƣơng lƣợng, hòa giải, Trọng tài và Tòa án.
Giải quyết TCKDTM bằng thương lượng là hình thức giải quyết
TCKDTM đƣợc tiến hành giữa các bên (hoặc đại diện của các bên) tranh chấp
để cùng tìm ra và đi đến những thỏa thuận thống nhất bằng những giải pháp
phù hợp với tất cả các bên nhằm chấm dứt những tranh chấp trong hoạt động
kinh doanh.
Giải quyết TCKDTM bằng hòa giải là phƣơng thức giải quyết
TCKDTM có sự tham gia của bên thứ ba giữ vai trò trung gian hòa giải nhằm
giúp cho các bên tranh chấp thu hẹp những bất đồng và đi đến giải pháp giải
quyết vụ tranh chấp. Bên thứ ba (hay còn gọi là hòa giải viên) do các bên
tranh chấp thỏa thuận lựa chọn làm trung gian hòa giải không có quyền quyết
định hay áp đặt ý chí của mình lên các bên tranh chấp. Tuy nhiên, hòa giải
viên là ngƣời am hiểu pháp luật, có kỹ năng hòa giải, có kiến thức chuyên
môn liên quan đến lĩnh vực tranh chấp sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc
giúp cho các bên tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải
quyết tranh chấp, còn giải pháp có đạt đƣợc hay không là do các bên tranh
chấp quyết định.
Giải quyết TCKDTM bằng Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp
thông qua hoạt động của Trọng tài viên (hoặc Hội đồng Trọng tài), với tƣ
cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đƣa ra một
phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Cơ sở làm phát sinh thẩm
quyền của Trọng tài là sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Điều 5, khoản 1
của Luật Trọng tài thƣơng mại 2010 quy định: “Tranh chấp đƣợc giải quyết
bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận Trọng tài. Thỏa thuận Trọng tài có
14
thể đƣợc lập trƣớc hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Thỏa thuận Trọng tài phải
đƣợc lập thành văn bản, có thể ghi trong hợp đồng chính hoặc bằng văn bản riêng.
Giải quyết TCKDTM bằng Tòa án là phƣơng thức giải quyết tranh chấp
tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nƣớc, đƣợc tiến hành theo trình
tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ
tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ đƣợc đảm bảo thi hành
bằng sức mạnh cƣỡng chế của nhà nƣớc [8, tr465]. Tòa án là cơ quan tài phán
kinh tế duy nhất có quyền nhân danh quyền lực nhà nƣớc tiến hành xét xử các
vụ TCKDTM. Đặc điểm này thể hiện vai trò của nhà nƣớc trong việc tạo lập
nên những thiết chế quyền lực nhằm giải quyết những mâu thuẫn bất đồng
trong kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong nền
kinh tế, góp phần xây dựng môi trƣờng kinh doanh lành mạnh.
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
a) Vai trò của Tòa án so với các phương thức khác trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại
Có rất nhiều lý do để các bên tranh chấp trong KDTM lựa chọn những
hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp với yêu cầu của mình:
Đối với phƣơng thức giải quyết TCKDTM bằng thƣơng lƣợng. Thông
thƣờng là phƣơng thức đƣợc các bên tranh chấp lựa chọn trƣớc tiên khi tranh
chấp xảy ra. Bởi vì nó đơn giản lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý
phiền phức, ít tốn kém về chi phí và thời gian cho các bên, không làm phƣơng
hại đến quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên trong kinh doanh, và vẫn đảm
bảo đƣợc bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên trên thƣơng trƣờng. Tuy
nhiên thƣơng lƣợng lại phụ thuộc vào khả năng cũng nhƣ kỹ năng đàm phán
thƣơng lƣợng, ý chí của các bên tranh chấp. Do đó, nếu một bên trong thƣơng
lƣợng không có thiện chí hợp tác, lợi dụng hình thức thƣơng lƣợng để kéo dài
15
thời gian thực hiện nghĩa vụ, thì thƣơng lƣợng chỉ làm tốn kém và kéo dài
thời gian hơn. Mặt khác, thỏa thuận thƣơng lƣợng chƣa có sự điều chỉnh pháp
lý rõ ràng. Nó chỉ đƣợc quy định chung chung là một hình thức giải quyết
tranh chấp (điều 317 Luật thƣơng mại 2005) mà không đƣợc quy định chi tiết
về thủ tục, cách thức và trình tự vì vậy một bên có thể lợi dụng thƣơng lƣợng
bằng cách kéo dài quá trình thƣơng lƣợng hoặc trì hoãn việc thực hiện thỏa
thuận thƣơng lƣợng đã đạt đƣợc giữa các bên để làm cho bên kia mất quyền
khởi kiện tại Tòa án.
Đối với phƣơng thức giải quyết bằng hòa giải. Bên cạnh những ƣu
điểm nhƣ giải quyết bằng thƣơng lƣợng nhƣ: nhanh chóng, linh hoạt, hiệu
quả, ít tốn kém; hòa giải còn có ƣu điểm vƣợt trội bởi có sự tham gia của
ngƣời thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp. Ngƣời thứ ba thƣờng là
ngƣời có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đề
đang tranh chấp. Khi hiểu rõ đƣợc nguyên nhân hoàn cảnh phát sinh mâu
thuẫn cũng nhƣ quan điểm nhận thức của các bên, họ sẽ biết cách làm cho ý
chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để loại trừ tranh chấp.
Hệ thống pháp luật về hòa giải hiện hành chủ yếu điều chỉnh hoạt
động hòa giải trong tố tụng. Hòa giải trong tố tụng là việc hòa giải đƣợc tiến
hành bởi cơ quan Trọng tài hay Tòa án. Vụ tranh chấp đƣợc các cơ quan này
thụ lý giải quyết và tiến hành hòa giải theo trình tự thủ tục do pháp luật quy
định. Bên thứ ba giữ vai trò trung gian hoà giải có thể là Thẩm phán hoặc
Trọng tài viên phụ trách vụ việc (hoặc Hội đồng Trọng tài). Kết quả hòa giải
phản ánh sự thỏa thuận tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội của
các bên và đƣợc ghi nhận tại biên bản hòa giải thành. Tòa án hoặc Trọng tài
sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên và có hiệu lực thi hành.
Riêng hòa giải với tính chất là một biện pháp giải quyết TCKDTM
ngoài tố tụng là một khái niệm mới. Đây là một trong những biện pháp giải
16
quyết TCKDTM ngoài tố tụng đƣợc đánh giá cao về tính hiệu quả. Hòa giải
ngoài tố tụng là hình thức hòa giải với ý nghĩa là một phƣơng pháp giải quyết
tranh chấp độc lập thay thế (Alternative Dispute Resolution - ADR) do các
bên tự lựa chọn hòa giải viên và tiến hành hòa giải, quá trình hòa giải không
liên quan đến cơ quan Trọng tài hay Tòa án.
Tuy nhiên, hòa giải cũng có hạn chế bởi nền tảng của hòa giải vẫn
đƣợc quyết định trên cơ sở tự nguyện thi hành của các bên. Bởi vậy, nếu một
bên không trung thực, thiếu thiện chí hợp tác trong quá trình đàm phán thì hòa
giải cũng khó đạt đƣợc kết quả cao.
Chúng ta đều biết, một thỏa thuận đạt đƣợc tại Tòa án, đƣợc Tòa án
công nhận với vai trò trung gian hòa giải, thì thỏa thuận đó có giá trị hiệu lực
buộc các bên thực hiện theo thỏa thuận, nếu không thực hiện sẽ bị cƣỡng chế
thi hành. Nhƣng cũng là thỏa thuận đó của các bên dựa trên sự tự định đoạt,
tự do ý chí nhƣng nó lại không có hiệu lực thi hành bắt buộc, không có cơ chế
cƣỡng chế thi hành. Nhƣ vậy, vấn đề hình thức pháp lý và hiệu lực pháp lý
của hòa giải ngoài tố tụng vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Việt Nam cũng nhƣ hầu hết các nƣớc trên thế giới hiện nay chủ yếu sử
dụng hai phƣơng thức giải quyết TCKDTM là Trọng tài và Tòa án. Mỗi
phƣơng thức có ƣu, nhƣợc điểm riêng. Ƣu điểm của phƣơng thức này có thể
là nhƣợc điểm của phƣơng thức kia và ngƣợc lại.
Ƣu diểm nổi bật của phƣơng thức Tòa án là tính quyền lực nhà nƣớc.
Tòa án là cơ quan tƣ pháp có quyền nhân danh ý chí quyền lực của nhà nƣớc
khi xét xử các vụ tranh chấp. Bản án, quyết định của Tòa án đƣợc mọi cá
nhân, tổ chức tôn trọng và thi hành. Điều 136 Hiến pháp nƣớc Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam quy định: “Các bản án và quyết định của Tòa án
nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải đƣợc các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn
17
trọng; những ngƣời và đơn vị hữu quan phải chấp hành”. Trong trƣờng hợp
bản án không đƣợc tự nguyện thi hành thì sẽ bị cƣỡng chế bởi quyền lực nhà
nƣớc. Trong khi đó ở Việt Nam trong một thời gian dài, các quyết định của
Trọng tài không có cơ quan cƣỡng chế thi hành nên hiệu quả hoạt động của
Trọng tài rất thấp. Khắc phục nhƣợc điểm này, Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng
mại đặc biệt là Luật Trọng tài Thƣơng mại 2010 quy định “bên đƣợc thi hành
phán quyết Trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền thi hành phán quyết Trọng tài” (Điều 67 Luật Trọng tài Thƣơng
mại). Tuy nhiên tình hình vẫn không đƣợc cải thiện là mấy.
Tính quyền lực nhà nƣớc còn thể hiện là trong quá trình giải quyết vụ
án, Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, có quyền triệu
tập nhân chứng, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án đƣợc khách quan, chính xác. Ƣu điểm này không thể có
ở phƣơng thức Trọng tài vì thẩm quyền của Trọng tài đƣợc hình thành trên cơ
sở thỏa thuận của các bên tranh chấp nên Trọng tài viên không có nhiều
quyền hạn nhƣ Thẩm phán, không có quyền triệu tập các bên liên quan khác
ngoài các bên tranh chấp.
Tuy nhiên, xét dƣới góc độ kinh doanh của doanh nghiệp để đánh giá
việc lựa chọn, thì Trọng tài có những điểm ƣu việt trội.
Trong kinh doanh, nhiều khi thời gian là yếu tố đƣợc quy ra tiền bạc.
Ƣu thế về tốc độ giải quyết tranh chấp, rút ngắn sự lãng phí thời gian công
sức theo đuổi kiện tụng cho doanh nghiệp không thuộc về Tòa án. Với đặc
điểm của cơ chế tố tụng hiện nay, một vụ việc tranh chấp kinh doanh thƣơng
mại nếu trải qua đủ các trình tự, thủ tục pháp lý sơ thẩm, phúc thẩm, thì về
mặt quy định thời hạn giải quyết tại Tòa án có thể từ 7 - 12 tháng, nhƣng trên
thực tế, có thể mất 1 - 3 năm. Trong khi đó, nếu cộng tất cả các thời hạn theo
các trình tự, thủ tục liên quan, thì thời hạn giải quyết một vụ tranh chấp của
18
Trọng tài thƣơng mại chỉ mất khoảng hơn 120 ngày và giữa quy định với thực
tế không khác xa là bao.
Với những doanh nghiệp đã từng trải qua một chu trình xét xử từ sơ
thẩm đến phúc thẩm, có khi lại giám đốc thẩm hủy án để xét xử sơ thẩm lại từ
đầu, mới thấu hiểu đến giá trị của việc phán quyết chung thẩm, một lần nhanh
gọn và có hiệu lực áp dụng ngay của Trọng tài thƣơng mại. Những chi phí gia
tăng suốt quá trình mệt mỏi theo kiện khiến cho lợi thế về án phí so với phí
Trọng tài giờ trở thành vô nghĩa.
Một ƣu thế vƣợt trội của Trọng tài thƣơng mại là ở đội ngũ Trọng tài
viên. Muốn thu hút đƣợc sự tin tƣởng từ các doanh nghiệp, các trung tâm
Trọng tài thƣơng mại phải lựa chọn chặt chẽ đội ngũ Trọng tài viên của mình.
Trên thực tế, họ đều là những chuyên gia của nhiều lĩnh vực khác nhau, có
kiến thức và dày dạn về kinh nghiệm về những vụ việc mà họ tham gia giải
quyết trong tƣ cách Trọng tài viên. Điều này khiến cho trong quá trình giải
quyết vụ việc, giữa Trọng tài viên và các doanh nghiệp đã có sẵn tiền đề tốt
cho việc phân giải là sự cùng am hiểu về những khái niệm kinh doanh, về
những vấn đề kinh tế… Trong khi đó, rất nhiều doanh nghiệp đã chật vật giải
thích những ý kiến kinh doanh của mình khi tham gia tranh tụng tại Tòa án, vì
sự hạn chế trong tiếp cận các thông tin, kiến thức kinh doanh của nhiều Thẩm
phán. Đây rõ ràng là ƣu điểm của Trọng tài thƣơng mại mà các doanh nghiệp
có thể nhìn nhận đƣợc.
Xét về tổng thể, sự hoạt động hiệu quả của Trọng tài thƣơng mại
không chỉ dừng lại ở ý nghĩa của một cơ quan tài phán. Hoạt động của Trọng
tài thƣơng mại là cơ sở phát triển và cập nhật cho doanh nghiệp những kiến
thức lấp đầy những khuyết tật trong kinh doanh và rõ ràng đây là một “bệnh
viện” pháp lý tốt cho những căn bệnh tranh chấp pháp lý phát sinh của doanh
nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế đất nƣớc.
19
Qua việc so sánh hai phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
và Trọng tài, có thể thấy phƣơng thức Trọng tài có nhiều ƣu điểm hơn, những
ƣu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động KDTM. Chính vì thế
phƣơng thức Trọng tài đƣợc ƣu chuộng hơn đặc biệt ở các nƣớc có nền kinh
tế thị trƣờng phát triển. Tuy nhiên, ở các nƣớc đang phát triển và chậm phát
triển thì Tòa án vẫn là cơ quan giải quyết TCKDTM chủ yếu. Có thể lấy ví dụ
ở Việt Nam, “Theo số liệu thống kê vào năm 2010 của Trung tâm Trọng tài
quốc tế (VIAC), trong khi mỗi Thẩm phán ở Toà kinh tế Thành phố Hà Nội
phải xử trên 50 vụ một năm, ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh xử trên
70 vụ một năm, thì mỗi Trọng tài viên của VIAC chỉ xử 4 vụ một năm” [11].
Mặc dầu Luật Trọng tài thƣơng mại 2010 đã có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2011 các doanh nghiệp Việt Nam chƣa thật sự “mặn mà” với việc đem
tranh chấp của mình ra giải quyết tại Trọng tài? Rõ ràng các nhà kinh doanh
của ta chƣa đặt trọn niềm tin vào các Trọng tài viên, cũng nhƣ chƣa hoàn toàn
coi trọng hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và hiệu lực
thi hành của các quyết định Trọng tài.
Khi ký kết các hợp đồng thƣơng mại hiện nay về điều khoản giải
quyết tranh chấp, các doanh nghiệp trong nƣớc thƣờng hay chọn cơ quan giải
quyết tranh chấp là cơ quan Tòa án nhân dân có thẩm quyền vì chƣa có thói
quen sử dụng Trọng tài khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, và do kém hiểu
biết về pháp luật nên cho rằng, quyết định của Tòa án có giá trị pháp lý cao
hơn quyết định của Trọng tài; và hiệu lực thi hành các phán quyết Trọng tài.
Bên cạnh đó, với xuất phát điểm thấp cùng với truyền thống văn hóa
phƣơng Đông cổ truyền, thói quen áp đặt các mệnh lệnh hành chính trong thời kỳ
kinh tế bao cấp kéo dài đã tạo thành thói quen cố hữu trong nhận thức của các
doanh nghiệp ở nƣớc ta trong việc lựa chọn các phƣơng thức giải quyết tranh chấp
bằng Tòa án ngay cả trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hội nhập hiện nay.