Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp chỉ đạo rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.53 KB, 10 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Một số biện pháp chỉ đạo rèn
chữ viết cho học sinh lớp 1

4


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đi học là một bước ngoặt trong đời trẻ. Năm đầu tiên cắp sách đến trường, trẻ vô
cùng bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động từ vui chơi sang học tập. Người ta thường nói
“Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học
viết. Bởi vậy vấn đề rèn luyện chữ viết cho học sinh Tiểu học là vô cùng quan trọng
và cấp thiết đặc biệt là của học sinh đầu cấp Tiểu học, đặt nền móng cơ bản cho toàn
bộ quá trình học tập, rèn luyện cho HS những phẩm chất đạo đức tốt như: Tinh thần
kỷ luật, tính cẩn thận và óc thẩm mĩ. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói “Chữ viết là biểu
hiện của nết người. Dạy cho HS viết đúng, viết đẹp, viết cẩn thận là góp phần rèn
luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như với thầy và bạn
đọc bài vở của mình....”.
Tính đến nay, Bộ GD&ĐT đã nhiều lần ban hành những quy định về thay đổi
chữ viết ở TH. Sau nhiều lần thay đổi, chúng ta lại quay về với mẫu chữ mềm mại,
thanh gọn trước kia nhằm giúp học sinh viết chữ đẹp và có thẩm mỹ hơn. Tuy nhiên,
sau nhiều lần thay đổi như vậy lại có những điều làm được và chưa làm được. Thực
trạng chữ viết của học sinh còn rất xấu và thiếu chính xác. Các em còn viết sai, viết
quá chậm, trình bày không sạch sẽ, rõ ràng. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng học Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Là một cán bộ quản
lí, tôi nhận thấy Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt. Việc rèn luyện
kĩ năng viết chữ cho học sinh, nhất là HS lớp 1 lại càng quan trọng hơn. Chính vì vậy
nên tôi rất mong muốn có biện pháp chỉ đạo có hiệu quả môn Tập viết để HS viết đẹp
5



hơn, sạch hơn và cẩn thận hơn. Đó cũng là nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu
học nói chung và dạy học chữ viết nói riêng.
Chính vì thấy được tầm quan trọng của môn Tập viết, nên tôi đã mạnh dạn tìm
hiểu học hỏi và nghiên cứu để tìm ra“Một số biện pháp chỉ đạo rèn chữ viết cho học
sinh lớp 1” giúp các em trở thành những con người phát triển toàn diện có ích cho đất
nước.
Việc nghiên cứu đề tài này được tiến hành ở lớp 1B.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG

Hiện nay chữ viết của các em học sinh tiểu học chưa được đẹp, chưa đúng
mẫu, sự liên kết giữa các nét, các con chữ chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh
còn dùng nhiều loại mực, ngòi bút viết nét chữ to quá hoặc nhỏ quá đều làm ảnh
hưởng đến việc giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp. Đặc biệt càng lên lớp trên thì chữ viết
của nhiều em không đúng mẫu. Các em không tích cực rèn chữ viết thường xuyên
dẫn đến chữ viết của các em chưa đẹp, vở không giữ gìn sạch sẽ.
Việc dạy của một số giáo viên chưa chú trọng thường xuyên đến rèn chữ viết
cho học sinh. Trong ngôn ngữ viết có chức năng giao tiếp và được quy định thống
nhất, mặc dù như vậy nhưng thực tế cho thấy phân môn Tập viết trong trường Tiểu
học chưa được coi trọng, sách giáo viên, tài liệu tham khảo chưa cụ thể, rõ ràng như
những môn học khác, việc dạy phân môn Tập viết còn hạn chế, giáo viên chưa nắm
vững tên gọi các nét cơ bản. Đây là nguyên nhân làm cho chữ viết của học sinh không
đúng mẫu, không đẹp, vở không sạch sẽ .
II. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG

Chương trình tập viết lớp 1 gồm có 2 phần: Học kì 1 và nửa đầu học kì 2 sau
mỗi bài học vần học sinh được luyện viết những chữ các em vừa học và mỗi tuần có
thêm một bài tập viết. Nửa sau học kì 2 mỗi tuần có 1 tiết tập viết, mỗi tiết học trong


6


35 phút, học sinh được làm quen với chữ viết hoa, mỗi bài gồm hai lần viết, mỗi lần
viết gồm 3 phần: phần thứ nhất là tô chữ viết hoa cỡ chữ vừa, riêng tuần cuối viết số
theo mẫu cỡ vừa và cỡ nhỏ; phần thứ hai viết lại hai vần đã học theo cỡ chữ vừa;
phần thứ ba viết hai từ chữ cỡ nhỏ.
Qua khảo sát thực trạng dạy và học tập viết ở lớp 1 cho thấy kỹ năng viết của
học sinh chưa đẹp, giữ gìn vở chưa sạch, giáo viên chưa chú ý sửa sai theo dõi tốc độ
viết cho học sinh, tất cả các yếu tố trên cho thấy chất lượng giữ vở sạch, viết chữ đẹp
chưa cao.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

Ngay từ đầu năm học, tôi kiểm tra đánh giá phân loại chữ viết của từng em ở
lớp 1B. Qua kiểm tra đánh giá tôi nhận thấy các em đã có ý thức xong các em viết
chữ còn chưa đúng mẫu, chưa đúng các nét cơ bản, các chữ cái chỉ viết thành hình
con chữ, có em còn chưa biết cầm bút.
Khảo sát chất lượng chữ viết của 24 em học sinh lớp 1B, tháng 10 năm 2011
cho thấy:

Kết quả

Số
Giỏi

HSKS

19

Khá


TB

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

1

5

6

32

10


53

2

10

- Học sinh thường khó tập trung cao độ trong khi viết nên học sinh chỉ có thể
viết cẩn thận, nắn nót theo chữ mẫu được mấy chữ đầu, sau đó các em viết ẩu, viết láu
cho xong bài mà không quan tâm mình viết như thế đã đúng, đẹp chưa.
Học sinh không quan sát kỹ chữ mẫu nên tuỳ tiện theo ý mình và do vậy nên
chữ viết không đúng cỡ chữ, khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ và khoảng
7


cách giữa các chữ đặc biệt ghi sai vị trí dấu thanh.
Học sinh không nghe và theo dõi giáo viên hướng dẫn quy trình viết nên viết sai
quy định tạo nên những nét không đúng cỡ chữ, nét cao thấp không đều và đặc biệt là
nét nối giữa các con chữ, nét bắt đầu và nét kết thúc chưa đúng quy định.
Vì vậy để nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh lớp 1 tôi xin mạnh dạn đề
xuất một số biện pháp nhằm khắc phục các hạn chế đã nêu ở trên như sau:
1. Việc rèn tư thế viết, cách cầm bút của học sinh
Với học sinh, tư thế ngồi viết đúng, thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì chất
lượng chữ viết tốt, nếu tư thế ngồi chưa đúng, tâm trạng buồn phiền thì chữ viết cũng
bị ảnh hưởng. Để viết được chữ thì phải hoạt động tiêu hao năng lượng của thần kinh
và bắp thịt. Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ phải tri giác bằng mắt, tai và tay sẽ làm
theo, nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét của chữ cái
để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng của chữ đó. Nói thầm
kiến thức mới thu nhập được để tái hiện hình ảnh đó trong óc trước khi viết, được thể
hiện trên bảng con, trên giấy bằng các dụng cụ như phấn, bút. Tay điều khiển quá

trình viết là các cơ và xương bàn tay còn đang độ phát triển nên cử động các ngón tay
còn vụng về, chóng mệt mỏi. Khi cầm bút các em có tâm lí sợ rơi nên các em cầm rất
chặt, các cơ tay cứng khó di chuyển. Nếu các em cầm bút bằng bốn hoặc năm ngón
tay thì khi viết vận động cổ tay, cánh tay sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ
viết không đúng, không nhanh. Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn, do vậy
nếu chữ viết được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em
phải cúi sát mắt nhìn cho rõ chữ, lâu dần sẽ dẫn đến cận thị. Trong thời gian đầu, có
thể các em nhận ra đúng hình dáng của chữ nhưng bàn tay chưa ghi lại đầy đủ hình
dáng của mẫu chữ. Chỉ sau quá trình luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại nhiều thì các
em mới chép đúng mẫu.
2. Việc chuẩn bị của giáo viên về kiến thức chuyên môn
8


1.Cấu tạo của chữ viết
1.1 Xác định toạ độ và chiều hướng chữ viết
Toạ độ chữ được xác định trên đường kẻ, đường li. Mỗi đơn vị dòng kẻ trong vở Tập
viết gồm 4 dòng li (đường kẻ dưới và đường kẻ trên in đậm còn lại 3 đường li in nhạt
hơn). Thống nhất kí hiệu từ đường kẻ in đậm dưới lên trên là các dòng li 1, 2, 3;
đường kẻ đứng là đường kẻ dọc, mỗi ô vuông nhỏ là một ô li. Cách xác định toạ độ
trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ, đường li, dòng kẻ và các ô li, ô
vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện dạy chữ thành một quy
trình; quy trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành trình ngòi bút đi qua
toạ độ các con chữ. Xác định toạ độ cấu tạo các chữ viết hoa đều phải căn cứ vào các
ô vuông của khung chữ mẫu để phân tích.
Ngoài ra cần nắm thêm một số thuật ngữ khi dạy tập viết như : điểm bắt đầu,
điểm kết thúc, đặt bút, đưa bút, nối liền, nhấc bút.
1.2. Điểm bắt đầu:
Điểm bắt đầu là điểm khi viết một nét trong con chữ cái, điểm bắt đầu có khi
nằm trên đường kẻ, đường li hoặc dòng li tuỳ theo con chữ cái đứng đầu của chữ đó.

1.3. Điểm kết thúc:
Điểm kết thúc là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm kết thúc có
thể có thể trùng với điểm bắt đầu hoặc giống vị trí điểm bắt đầu.
Ví dụ: Điểm kết thúc trùng với điểm bắt đầu ở các chữ cái o, ô, ơ viết thường.
1.4. Nối liền:
Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước tới điểm
bắt đầu của nét đứng sau.
Ví dụ: Con chữ a nối với con chữ n :an
Con chữ x nối với inh : inh
1.5. Đặt bút:
9


Đặt bút là điểm bắt đầu của con chữ, trùng với điểm bắt đầu của chữ. Trong một
chữ có một điểm bắt đầu nhưng cũng có thể có nhiều điểm đặt bút, chẳng hạn khi viết
chữ : tho - đặt bút viết con chữ t ,... đặt bút viết con chữ o.
1.6. Nhấc bút:
Nhấc bút là điểm kết thúc của con chữ, trùng với điểm kết thúc của chữ. Trong
một chữ có nhiều lần nhấc bút, chẳng hạn khi viết chữ : oa- ... nhấc bút, đặt bút viết
con chữ a .
1.7. Đưa bút
Đưa bút là điểm kết thúc của con chữ, viết nối các chữ cái với nhau, nét bút
được thể hiện liên tục ngòi bút không chạm vào mặt giấy, thao tác đưa trên không
hoặc viết đè lên theo hướng ngược lại; ngòi bút chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét
đứng trước đên điểm bắt đầu của nét liền sau.
Chẳng hạn khi viết chữ : thoáng ( cỡ chữ vừa)- Đặt bút từ đường li thứ hai viết
con chữ t cao 3 dòng li, nối liền sang con chữ h cao 5 dòng li, dừng bút ở đường li 1,
nhấc bút, đặt bút dưới đường li 2 viết con chữ o cao 2 dòng li, viết nét nối, nhấc bút,
đặt bút dưới dòng li 2 viết con chữ a cao 2 dòng li, nối liền sang con chữ n cao 2 dòng
li, dừng bút ở đường li 1, nhấc bút, đặt bút dưới dòng li 2 viết con chữ g cao 5 dòng li,

kết thúc ở đường li 1, được chữ thoáng.
2. Cấu tạo của chữ cái Tiếng Việt
Kí hiệu của ngôn ngữ được xây dựng trên hệ thống kí tự đã được chuẩn hoá.
Những đặc điểm của chữ viết là yếu tố để phân biệt các chữ cái khi thể hiện ngôn ngữ
viết. Những yếu tố cấu tạo nên chữ viết là hệ thống các nét chữ gồm ba loại:
- Nét thẳng: + Nét thẳng đứng
+ Nét ngang
- Nét xiên : +Nét xiên phải
+ Nét xiên trái
10


- Nét cong: + Nét cong hở trái
+ Nét cong hở phải
+ Nét cong kín
Tuy vậy, hệ thống chữ ghi âm Tiếng Việt ngoài các nét cơ bản trong cấu tạo chữ
viết còn có nét dư. Những nét dư này tạo nên sự liên kết giữa các con chữ trong chữ.
Nét phối hợp là nét trên cơ sở lấy nét chữ cơ bản làm nền tính từ điểm xuất phát kéo
dài nét đó cho đến khi đủ độ cao nhờ vậy chữ viết không bị gãy vụn, chẳng hạn khi
viết chữ a ta phân tích thành hai nét: nét cong kín và nét móc ngược .
3. Bồi dưỡng về phương pháp rèn chữ viết, giữ vở sạch cho giáo viên
3.1 Phương pháp trực quan.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện
đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng
to trên bảng hoặc trên máy chiếu, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu...
Chữ mẫu phải đúng mẫu, rõ ràng và đẹp giúp học sinh dễ quan sát giúp các em
phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo chữ cái cần viết cần viết trong bài
học. Chữ mẫu của giáo viên trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các nét chữ
của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền
mạch, viết nhanh, đồng thời cũng giúp giáo viên hướng dẫn học sinh quy trình viết

một cách cụ thể, rõ ràng.
3.2 Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Phương pháp đàm thoại gợi mở được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết
học. Giáo viên cần cho học sinh tri giác chữ cái đồng thời nhận biết thông qua hệ
thống câu hỏi để học sinh nắm được cấu tạo, độ cao, kích thước của chữ cái. Từ đó,
so sánh các nét giống nhau và các nét khác biệt giữa các chữ cái đã học. Khi dạy, giáo
viên cần có hệ thống câu hỏi khái quát và nhất quán để học sinh có biểu tượng trong
đầu trước khi nhận xét chữ cái đó là: độ cao, bề rộng , khoảng cách và các nét.
11


3.3 Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Phương pháp đàm thoại gợi mở được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn
đầu của tiết học. Giáo viên cần cho học sinh tri giác chữ cái đồng thời nhận biết thông
qua hệ thống câu hỏi để học sinh nắm được cấu tạo, độ cao, kích thước của chữ cái.
Từ đó, so sánh các nét giống nhau và các nét khác biệt giữa các chữ cái đã học. Khi
dạy, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi khái quát và nhất quán để học sinh có biểu
tượng trong đầu trước khi nhận xét chữ cái đó là: độ cao, bề rộng , khoảng cách và
các nét.
Chẳng hạn: Khi dạy chữ A viết hoa, giáo viên cần đưa ra một số câu hỏi : Chữ A
viết hoa cao mấy dòng li, bề rộng là bao nhiêu? Chữ A viết hoa nằm trong mấy ô?
Chữ A viết hoa gồm có mấy nét? Là những nét nào ? Khi học sinh đã quen với các
câu hỏi đó thì giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi khái quát như: Em hãy
nhận xét cách viết chữ viết hoa A?
3.4. Phương pháp luyện tập
Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải được tiến hành từ dễ đến khó để giúp
học sinh dễ tiếp thu, đầu tiên là viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước, cỡ chữ, sau
đó là viết đúng dòng, đúng tốc độ . Quá trình rèn luyện kĩ năng viết chữ phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục ở lớp cũng như ở nhà và ở các phân môn học khác.
Trong khi học sinh luyện tập viết chữ thì giáo viên phải luôn quan tâm uốn nắn từng

nét, từng con chữ và đặc biệt là tư thế ngồi viết đúng .
Hình thức luyện tập trên bảng con được sử dụng trong khi kiểm tra bài cũ, trước
khi viết vào vở, giúp cho học sinh định hình và nắm được quy trình viết, đồng thời
cũng giúp giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng
bài: từ điểm bắt đầu, cách đưa bút, độ cao, khoảng cách , cách nối các con chữ, vị trí
nhấc bút, đặt bút, thứ tự viết nét cho đến điểm kết thúc.Từ đó giáo viên phát hiện ra
chỗ sai để kịp thời uốn nắn. Khi học sinh viết bài vào vở cần cho các em quan sát vở
12


mẫu để giúp các em có ý thức viết chữ đẹp, đồng thời viết đủ, đúng số dòng quy định.
Đặc biệt để giúp cho học sinh có bộ vở sạch, chữ viết đẹp thì giáo viên cần quan tâm
tới chất lượng chữ viết ở tất cả các loại vở, các môn học.
3.5. Rèn chữ viết rõ ràng, sạch đẹp
- Chất lượng chữ viết phụ thuộc vào nhiều yếu tố về chủ quan và khách quan, để
giúp học sinh viết được chữ đẹp, giữ được vở sạch thì giáo viên cần thường xuyên
quan tâm tới học sinh về đồ dùng học tập. Đồ dùng học tập bao gồm bảng con, phấn,
giẻ lau, bút chì, bút mực. Để đạt được chất lượng chữ viết cao thì giáo viên cần làm
tốt các yêu cầu sau:
Bảng con có màu xanh, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng đều đặn,
bảng viết 4 li giống trong vở tập viết. Phấn viết có độ dài vừa phải những hôm thời
tiết hanh khô thì cho học sinh viết phấn mềm, những ngày thời tiết bình thường thì
cho học sinh viết phấn rắn để các nét chữ của các em rõ ràng, đẹp, giúp giáo viên dễ
uốn nắn. Khăn lau bảng phải sạch, đủ ẩm giúp các em lau bảng được sạch sẽ đỡ mất
vệ sinh đảm bảo sức khoẻ cho học sinh.Vở tập viết cần được giữ gìn sạch sẽ, không
quăn mép, không giây bẩn. Bút chì cần giữ gìn cẩn thận không vót nhọn quá, không
tù quá để khi viết rõ nét chữ, nên sử dụng chì loại 2B. Bút mực nên sử dụng loại bút
ngòi có độ nét vừa phải không nhỏ quá như bút kim tinh hoặc không to quá như bút
mài, vì học sinh lớp một chưa có kĩ năng sử dụng bút mực. Một yếu tố đặc biệt quan
trọng khi học sinh viết bài phải đảm bảo giữ gìn vở sạch sẽ. Để giữ gìn được vở sạch

sẽ thì học sinh phải đảm bảo vệ sinh cá nhân tốt đặc biệt là đôi bàn tay. Để đạt được
yêu cầu này thì giáo viên phải thường xuyên kiểm tra vệ sinh tay cho các em trước
khi viết bài.
Thực hiện đúng quy định khi viết chữ :
- Tư thế ngồi viết : Lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở
25- 30cm cầm bút bằng tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê
13



×