Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Thực hiện chính sách quản lý tài sản công từ thực tiễn cục văn thư và lưu trữ nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.77 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM PHƢƠNG BẮC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TỪ
THỰC TIỄN CỤC VĂN THƢ VÀ LƢU TRỮ NHÀ NƢỚC

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu: “Thực hiện Chính sách quản lý tài sản công từ thực
tiễn Cục Văn thƣ và Lƣu trữ nhà nƣớc” của Luận văn này là kết quả của sự nỗ
lực cố gắng, tìm tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận
tình của người hướng dẫn khoa học GS.TS. Võ Khánh Vinh. Tôi xin cam đoan,
kết quả nghiên cứu của tôi hoàn toàn là kết quả của cuộc điều tra, khảo sát mà tôi
đã tiến hành nghiên cứu tại Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. Trong luận văn
nghiên cứu này không hề có bất kỳ sự sao chép nào mà không có trích dẫn nguồn,
tác giả.
Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin


chịu toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Học viên

Phạm Phƣơng Bắc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……….…………………………………………………………....…..1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG………………………………………...............…7
1.1. Chính sách quản lý tài sản công ở nước ta hiện nay………………………...7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện chính sách quản lý tài sản
công…………………………………………………………………………….14
1.3. Những nội dung cơ bản của thực hiện chính sách quản lý tài sản công..…17
1.4. Các giai đoạn (các bước) của việc thực hiện chính sách quản lý tài sản
công……………………………………………………………………….....…22
1.5. Các nhân tố tác động đến thực hiện chính sách quản lý tài sản công…...…24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TÀI
SẢN CÔNG TẠI CỤC VĂN THƢ VÀ LƢU TRỮ NHÀ NƢỚC………….27
2.1. Khái quát về Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước…………………………..27
2.2. Thực trạng tác động của các nhân tố đến thực hiện chính sách quản lý tài
sản công tại Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước...………………………………28
2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách quản lý tài sản công tại Cục Văn
thư và Lưu trữ nhà nước………………………………………………………. 30
2.4. Kết quả thực hiện chính sách quản lý tài sản công tại Cục Văn thư và Lưu
trữ nhà nước.........................................................................................................32
2.5. Đánh giá kết quả về thực hiện chính sách quản lý tài sản công tại Cục Văn
thư và Lưu trữ nhà nước......................................................................................41
Chƣơng 3: TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TÀI

SẢN CÔNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY………………………………….…..45
3.1. Quan điểm, định hướng tăng cường thực hiện chính sách quản lý tài sản
công ở nước ta hiện nay.......................................................................................45
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách quản lý tài sản công ở nước
ta hiện nay………………………………………………………………………48
KẾT LUẬN……………………………………………………………………65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………… 67


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NSNN

:

Ngân sách Nhà nước

TCS

:

Tài sản công

TSNN

:

Tài sản Nhà nước

TSLV


:

Tài sản làm việc

PTĐL

:

Phương tiện đi lại

CQHC

:

Cơ quan hành chính

HCSN

:

Hành chính sự nghiệp

ĐVSN

:

Đơn vị sự nghiệp

CBCC


:

Cán bộ công chức

BTC

:

Bộ Tài chính


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Báo cáo kết quả điều tra khảo sát trụ sở làm việc tại các ĐVSN thuộc
Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước
Bảng 2: Báo cáo kết quả điều tra khảo sát tài sản là phương tiện đi lại tại các
ĐVSN thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử hình thành, tổ chức và phát triển của các nước trên thế giới đã
khẳng định rằng: Tài sản công là nguồn lực nội sinh của đất nước, là yếu tố cơ
bản của quá trình sản xuất và quản lý xã hội, là nguồn lực tài chính tiềm năng
cho đầu tư phát triển phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nền kinh
tế Việt Nam đang từng bước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Vì vậy, tài sản
công là vốn liếng nhằm phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho kinh tế nhà
nước giữ vai trò trọng yếu, góp phần nâng cao đời sống nhân dân để thực hiện
hoá những mục tiêu đặt ra. Dù không tham gia trực tiếp vào sản xuất nhưng tài
sản công có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Ở các quốc gia

phát triển, quản lý tốt tài sản công cũng được coi là một trong các tiêu chí để
đánh giá chất lượng quản lý nói chung của nhà nước.
Thực tế thời gian qua, quản lý tài sản công luôn là vấn đề thời sự của Chính
phủ, Quốc hội. Việc thiếu chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản công và
hiệu quả của cơ quan hành chính nhà nước đang là vấn đề được Chính phủ và
các cơ quan hữu trách quan tâm. Tình trạng các cơ quan hành chính sự nghiệp
và các đơn vị thuộc khu vực công sử dụng vượt tiêu chuẩn định mức gây lãng
phí, cho thuê mượn tài sản không đúng quy định, tự ý sắp xếp, xử lý làm thất
thoát tài sản công….đang đặt ra yêu cầu phải thống kê quản lý hiệu quả lượng
tài sản này. Trong tổng thể tài sản công nói chung, trụ sở làm việc - bao gồm
nhà làm việc, bộ phận phụ trợ và khuôn viên đất - là tài sản công có giá trị nhất
và chiếm trên 70% tổng giá trị tài sản công. Công tác quản lý trụ sở làm việc
hiện nay không thực sự hiệu quả, thiếu một cơ sở khoa học cả về lý thuyết và
thực tế trong quản lý và sử dụng khối tài sản có giá trị lớn nhất này. Nhiều đơn
vị cơ quan nhà nước rất khó khăn trong tìm kiếm, sắp xếp công sở làm việc,
nhưng cũng không ít các cơ quan nhà nước khác cho thuê trụ sở làm việc và

1


quyền sử dụng đất được giao quản lý. Đây là biểu hiện rõ ràng nhất về bất cập,
vướng mắc trong quản lý tài sản công. Ngoài ra công tác thống kê theo dõi, sử
dụng, sắp xếp chưa được làm tốt và thường xuyên, trong khi ngân sách nhà nước
có hạn đã đặt ra yêu cầu lựa chọn tối ưu cho sử dụng tài sản công là trụ sở làm
việc của cơ quan nhà nước.
Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước là cơ quan thuộc Bộ Nội vụ, thực hiện
chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về văn thư,
lưu trữ trong phạm vi cả nước; quản lý tài liệu lưu trữ quốc gia và thực hiện các
dịch vụ công về văn thư, lưu trữ theo quy định của pháp luật.
Tổ chức bộ máy của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước gồm 16 cơ quan,

đơn vị trực thuộc, trong đó có 6 đơn vị giúp việc và 10 cơ quan hành chính sự
nghiệp được phân bổ từ Bắc vào Nam. Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
thuộc Cục đã được nhà nước rất quan tâm đầu tư. Với đặc thù là bảo quản khối
tài liệu quốc gia, các Kho lưu trữ chuyên dụng được trang bị các thiết bị hiện đại
bậc nhất khu vực Đông Nam Á. Các trang thiết bị chuyên dụng bao gồm: Hệ
thống điều hòa không khí trung tâm và cục bộ, hệ thống phòng cháy chữa cháy,
chống đột nhập, hệ thống camera quan sát, hệ thống giám sát nhiệt độ, độ ẩm, hệ
thống thiết bị bảo quản: giá Compaq, giá lưu trữ, tủ bảo quản khổ lớn, hệ thống
thiết bị sao lưu giữ liệu, số hóa tài liệu…Ngoài ra, còn có các tài sản là nhà, đất,
cơ sở vật chất phục vụ công việc hàng ngày của hơn 600 công chức, viên chức
của Cục.
Để các hệ thống chuẩn mực về quản lý tài sản công của Cục Văn thư và
Lưu trữ nhà nước đem lại hiệu quả trong thời gian tới, việc tìm hiểu, áp dụng các
văn bản pháp luật về quản lý tài sản trên đi vào thực tế, các nguyên nhân còn tồn
tại trong việc quản lý tài sản công có tính chất đặc thù của Cục Văn thư và Lưu
trữ nhà nước hiện nay là hết sức cần thiết. Việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện
công tác quản lý tài sản công của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong điều kiện Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được
triển khai từ năm 2009. Với ý nghĩa đó, Tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện
2


chính sách quản lý tài sản công từ thực tiễn Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước”
cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tài sản công có vai trò quan trọng và luôn là vấn đề được xã hội hết sức quan
tâm. Cho đến nay, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về việc quản lý TSC dưới
nhiều cách tiếp cận khác nhau nên có nhiều quan điểm, cách đánh giá khác nhau.
Từ năm 1995 đến nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về cơ chế quản lý
TSC ở Việt Nam:

- Hai công trình luận văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Mạnh Hùng về TSC
và sử dụng TSC ở Việt Nam hiện nay; năm 2005, tác giả La Văn Thịnh nghiên
cứu về sử dụng tài sản công tại các khu vực HCSN ở Việt Nam, thực trạng và
giải pháp. Với hệ thống số liệu khá phong phú, các tác giả đã đánh giá tình hình
quản lý TSC trong khu vực HCSN ở Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2005, từ
đó đề ra giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả, tiết kiệm TSC trong khu vực
HCSN đến năm 2010. Nhưng hiện nay việc phân cấp quản lý nhà nước về TSC
trong khu vực HCSN nhằm cải cách thủ tục hành chính, phát huy tính tự chủ,
xác định rõ trách nhiệm của người quản lý, người trực tiếp sử dụng TSC, của
chính quyền các cấp trong quản lý TSC đang đặt ra như một vấn đề cấp thiết.
Tuy nhiên, tại các công trình nêu trên chưa nghiên cứu sâu vấn đề này.
- Năm 2009, luận án “Cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành
HCSN ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đã khắc phục được những
tồn tại của luận văn trước đó. Tác giả đã nêu rõ thực trạng cơ chế quản lý tài sản
công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở nước ta từ năm 1995 đến năm 2008
và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực
hành chính sự nghiệp trong thời gian tới (2009-2020).
Từ đó đến nay, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về TSC gắn với thực tế
các tác giả hiện đang làm việc. Như đã nói ở phần trên, Cục Văn thư và Lưu trữ
nhà nước có nhiệm vụ trọng tâm là bảo quản khối tài liệu quan trọng của quốc

3


gia, việc quản lý sử dụng TSC phải đảm bảo tính hiệu quả, hiệu suất nhưng vẫn
đảm bảo được nhiệm vụ trọng tâm về bảo quản an toàn tài liệu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách quản lý TSC, luận văn đề xuất và luận giải một số quan điểm, giải

pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của chính sách quản lý TSC tại Cục
Văn thư và Lưu trữ nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống lại cơ sở lý thuyết về quản lý tài sản công và chính sách quản lý
tài sản công;
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý tài sản công tại Cục Văn thư
và Lưu trữ nhà nước để chỉ rõ những kết quả tích cực và tồn tại trong quản lý.
- Đề xuất những giải pháp mới nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài sản
công nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng của TSC.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong các cơ quan hành chính nhà nước cũng như các đơn vị HCSN, TSC
gồm trụ sở làm việc, phương tiện vận tải, máy móc, trang thiết bị và các phương
tiện làm việc khác. Luận văn nghiên cứu toàn bộ các TSC trên gắn với thực trạng
Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước với đặc thù về nhiệm vụ, chuyên môn. Đặc biệt
là một số đơn vị HCSN thuộc Cục còn quản lý các di tích như Biệt điện Trần Lệ
Xuân do Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV tại Đà Lạt quản lý. Ngoài ra, tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I và IV còn bảo quản khối tài liệu đã được công nhận là di sản tư
liệu thế giới với Châu bản Triều Nguyễn và Mộc bản Triều Nguyễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để có thể đi sâu phân tích và đề xuất giải pháp sát thực, luận văn sẽ nghiên cứu
việc thực hiện chính sách quản lý TSC tại Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.

4


4.3. Thời gian nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách quản lý TSC của Cục Văn thư
và Lưu trữ nhà nước từ năm 2005 đến 2014.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận nghiên cứu chính sách qua tiếp cận đa
ngành, liên ngành khoa học xã hội và phương pháp nghiên cứu chính sách công.
Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch
định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của
các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn
của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành chính
sách quản lý tài sản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống
kê và so sánh được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các
nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, Nghị
Quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các tài liệu,
công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn
thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề thực hiện
chính sách quản lý tài sản công ở nước ta nói chung và thực tế Cục Văn thư và
Lưu trữ nhà nước nói riêng. Đồng thời, thu thập thông tin từ các tài liệu của các
tổ chức và học giả trong nước liên quan đến đề tài trong thời gian qua.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là phương pháp được dùng
khá phổ biến trong nghiên cứu xã hội học, đó là phương pháp đối thoại trực tiếp
với đối tượng nhằm thu thập thông tin. Ngoài các thông tin thu thập được qua
các số liệu thứ cấp và kết quả xử lý thông tin bằng phương pháp điều tra bảng
hỏi, tác giả đã thực hiện thêm phương pháp phỏng vấn đối với một số đối tượng
để làm rõ thêm thông tin mà các phương pháp thu thập thông tin nêu trên chưa
đáp ứng được.
5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận

- Góp phần bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận chung về thực hiện
chính sách công nói chung và chính sách quản lý tài sản công nói riêng.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách quản lý tài sản công.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Từ mục đích đặt ra cho luận văn ở trên, việc nghiên cứu sẽ thực sự có ý
nghĩa trong việc quản lý, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về mọi mặt, lấy
việc đổi mới quản lý TSC là mục tiêu trọng tâm làm thay đổi cách thức, mô hình
quản lý hiệu quả sử dụng nguồn lực của nhà nước tại Cục Văn thư và Lưu trữ
nhà nước.
Kỳ vọng của luận văn là những giải pháp đưa ra được cơ quan nhà nước và
Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước áp dụng sẽ làm thay đổi căn bản theo hướng
tích cực đảm bảo các tiêu chí chung của chuẩn mực quản lý chi tiêu công và
minh bạch, trách nhiệm trong quản lý nhà nước khi đã được phân cấp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách quản lý tài sản
công
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách quản lý tài sản công tại Cục
Văn thư và Lưu trữ nhà nước
Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách quản lý tài sản công ở nước ta
hiện nay.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG

1.1. Chính sách quản lý tài sản công ở nƣớc ta hiện nay
Tài sản công được hiểu là những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước. Nói rộng
ra chúng thuộc sở hữu của toàn dân. Do vậy quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản
công được coi là nghĩa vụ và trách nhiệm không chỉ đối với Chính phủ mà đối với
tất cả các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị và nhân dân.
Nguồn gốc hình thành tài sản công chủ yếu từ Ngân sách nhà nước và tài
nguyên quốc gia. Tài sản công bao gồm: Tài sản quốc gia do Chính phủ sở hữu,
tài sản do các cấp địa phương quản lý, tài sản nhà nước do doanh nghiệp nhà
nước quản lý, tài sản do các cơ quan hành chính sự nghiệp quản lý, tài sản do
các dự án viện trợ vay nợ hình thành, tài sản nhà nước trong các tổ chức chính
trị - xã hội... Hiện nay, nước ta chưa có số liệu thống kê nào xác định được toàn
bộ giá trị cũng như số lượng tài sản công trên toàn quốc để quản lý và theo dõi.
Chính sách công
Bản chất chính sách công nhằm duy trì tình trạng của xã hội hoặc giải
quyết “các vấn đề xã hội”, đáp ứng nhu cầu của người dân, trong đó “là các vấn
đề kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội” theo mục tiêu tổng thể đã vạch ra từ
trước. Do vậy, “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ
thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng
chính trị cầm quyền” [17]
Chính sách quản lý Tài sản công
Nguồn lực của một quốc gia là có hạn, việc sử dụng nguồn lực tối ưu là
cơ sở hình thành các lý thuyết kinh tế học. Một quốc gia muốn tồn tại và phát
triển phải có chiến lược quản lý tốt tài sản quốc gia. Tỷ trọng tài sản công trong
7


tổng số tài sản quốc gia lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào quan hệ sản xuất đặc trưng
của các hình thái kinh tế - xã hội ở các giai đoạn lịch sử của mỗi nước.
Ở Pháp, “Tài sản quốc gia được hiểu là toàn bộ tài sản và quyền hạn đối

với động sản và bất động sản thuộc về Nhà nước” (Điều L.1 Bộ luật Tài sản nhà
nước năm 1998).
Ở Việt Nam, Điều 53, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng tài nguyên thiên
nhiên khai thác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công, sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Điều 200, Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước như
sau: "Tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên,
rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông, hồ, nguồn nước, tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng
trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc
các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định". Tiếp đó, tại
các Điều 239, 240, 241, 246, 254 và 644 của Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005, Điều 76- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
Điều 17- Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Điều 35- Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 2004, đã quy định cụ thể các tài sản khác thuộc sở hữu nhà
nước do pháp luật quy định bao gồm: Các tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, vật chứng trong vụ án hình sự bị tịch thu sung quỹ Nhà nước; vật bị chôn
dấu, chìm đắm được tìm thấy, vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở
hữu, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước
theo quy định của pháp luật, di sản không người thừa kế hoặc có nhưng không
được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, tài sản do tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước biếu tặng Chính phủ hoặc tổ chức Nhà nước. Từ những căn cứ pháp
luật hiện hành, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tài sản công như sau:
8


Tài sản công là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà
nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước theo quy định của pháp

luật như: đất đai, rừng tự nhiên, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng
đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.
Tài sản công trong cơ quan hành chính sự nghiệp là những tài sản mà Nhà
nước giao cho cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công, các đơn vị lực
lượng vũ trang (của Nhà nước), tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức khác (gọi chung là cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp) trực tiếp quản
lý, sử dụng phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Tài sản công - Tài sản nhà nước khu vực hành chính bao gồm: Đất đai (đất
sử dụng làm trụ sở làm việc, đất xây dựng cơ sở hoạt động vì mục đích công);
nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất đai (nhà làm việc, nhà kho; nhà,
công trình đảm bảo cho các hoạt động sự nghiệp...); các tài sản khác gắn liền với
đất đai; các phương tiện giao thông vận tải (ô tô, xe máy, tàu, thuyền...); các
máy móc, trang thiêt bị, phương tiện làm việc và các tài sản khác.
Những tài sản trên đây là cơ sở vật chất cần thiết để tiến hành các hoạt
động quản lý nhà nước. Các cơ quan hành chính chỉ có quyền quản lý, sử dụng
các tài sản này để thực hiện nhiệm vụ được giao, không có quyền sở hữu. Việc
sử dụng tài sản phải đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do Nhà
nước quy định; không được sử dụng vào mục đích cá nhân, kinh doanh và mục
đích khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước chúng ta có thể rút
ra khái niệm: “Chính sách quản lý tài sản công là chính sách công, là một tập
hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước về tài sản nhằm lựa chọn
các mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề về tài
sản theo mục tiêu Nhà nước đề ra”.
Theo báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trong thời gian qua, các cơ
quan có thẩm quyền đã ban hành được tương đối đầy đủ văn bản pháp luật về
9


quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và nhờ đó, công tác quản lý, sử dụng tài sản

nhà nước đã từng bước đi vào nề nếp, kỷ cương, công khai và có hiệu quả. Nhà
nước đã thực hiện kiểm kê nắm được tổng quan về số lượng, giá trị và cơ cấu
phân bố sử dụng tài sản nhà nước trong khu vực hành chính sự nghiệp và tài sản
nhà nước trong các doanh nghiệp. Nhà nước cũng đã đã thực hiện được phân
cấp rõ hơn một bước nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài sản nhà nước giữa Chính
phủ và chính quyền địa phương các cấp, giữa các cơ quan có chức năng quản lý
chuyên ngành về tài sản nhà nước với các cơ quan, đơn vị được giao quản lý gắn
với sử dụng tài sản nhà nước; đồng thời xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm
của từng cấp trong quản lý, trách nhiệm của từng đơn vị trong sử dụng tài sản.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của tài sản nhà nước trong nền kinh tế cũng
như đảm bảo điều kiện phục vụ hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, Chính
phủ và các Bộ, địa phương đã quan tâm chỉ đạo công tác quản lý tài sản nhà
nước; nhờ đó, đã đạt được những kết quả quan trọng, cụ thể:
Một là, đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật
giúp cho việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước từng bước đi vào nề nếp, kỷ cương,
kỷ luật, công khai minh bạch và có hiệu quả, được thể hiện trên các mặt sau:
- Để thực hiện quản lý TSC, từ năm 1995 đến nay, Nhà nước đã sử dụng
nhiều công cụ quản lý, trong đó phải kể đến, Nhà nước đã ban hành hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật về chế độ quản lý TSC như: Luật đất đai, Luật
Ngân sách Nhà nước; Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí... Nghị định số
14/1998/NĐ-CP ngày 6/3/1998 của CP về quản lý tài sản nhà nước; Nghị định
số 137/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định việc phân cấp quản lý nhà nước
đối với tài sản nhà nước tại CQHC, ĐVSN công lập, tài sản được xác lập quyền
sở hữu của Nhà nước; Quyết định số 202/2006/QĐ-TTg ngày 31/8/2006 của
TTCP về việc ban hành Quy chế quản lý tài sản nhà nước tại ĐVSN công lập.
Đặc biệt, tại kỳ họp thứ ba quốc hội Khoá XII, Quốc hội đã thông qua Luật quản
lý và sử dụng tài sản nhà nước. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để thực hiện thống
10



nhất về quản lý TSC; Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước đánh dấu một bước
phát triển mới của công tác quản lý TSC trong điều kiện phát triển và hội nhập
ngày càng sâu rộng của nền kinh tế nước ta với thế giới. Luật được xây dựng
trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm hoạt động của công tác quản lý TSC, phù
hợp hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam, quán triệt và thể chế hoá đường
lối, chủ trương của Đảng về quản lý TSC, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm
quản lý TSC của các nước trên thế giới như: Úc, Pháp, Canada, Trung Quốc...
Luật ra đời thể hiện quyết tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong việc lập lại
kỷ cương quản lý TSC phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí nguồn lực công. Luật đã
quy định những nguyên tắc cơ bản về cơ chế quản lý, sử dụng TSC: như đầu tư
xây dựng mới, mua sắm, cải tạo, điều chuyển, thu hồi, bán, chuyển đổi hình thức
sở hữu, thanh xử lý TSC; đảm bảo sự thống nhất quản lý của cơ quan tài chính
về TSC cũng như các nguồn thu và các khoản chi phát sinh khi xử lý các tài sản
nhằm khai thác nguồn thu và tiết kiệm chi cho NSNN. Đồng thời quy định thẩm
quyền trách nhiệm của các Bộ, ngành, UBND các cấp, cơ quan tài chính các
cấp; các CQHC, ĐVSN trong việc quản lý, sử dụng TSC. Đặc biệt cơ chế quản
lý TSC đã được tách bạch giữa CQHC với ĐVSN. Trên cơ sở đó Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 52/2009/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
- Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn
đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, tiêu chuẩn mua sắm phương tiện đi lại và các
trang thiết bị phục vụ cho các cán bộ, công chức, viên chức. Đây là các căn cứ
quan trọng để xây dựng và bố trí dự toán ngân sách cho đầu tư, mua sắm và
kiểm soát chi tiêu, đảm bảo công bằng, hiệu quả, công khai, minh bạch. Thực tế
cho thấy, sau khi các tiêu chuẩn, định mức, chế độ sử dụng tài sản nhà nước
được ban hành thì việc mua sắm tài sản vượt tiêu chuẩn, định mức, sử dụng tài

11



sản nhà nước lãng phí đã giảm đáng kể, tình trạng lạm dụng tài sản nhà nước
vào việc riêng cũng đã dần được khắc phục.
- Về quản lý đất đai: Quốc hội đã ban hành Luật Đất đai năm 1993 và được
sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998, 2001, đến năm 2003 Quốc hội đã ban hành
Luật Đất đai mới để thay thế cho Luật Đất đai năm 1993. Theo đó, Chính phủ đã
ban hành nhiều Nghị định quy định cụ thể về thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất,
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư…
- Về quản lý tài nguyên, tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản dự trữ quốc gia và
tài sản nhà nước tại doanh nghiệp: Đây là lĩnh vực mới, trong quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới thì vấn đề quản lý các
nguồn vật chất này, kiểm soát để khai thác có hiệu quả đang ngày càng trở nên
quan trọng và cấp thiết, đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng các văn bản quy
phạm pháp luật. Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong những năm vừa qua,
Chính phủ đã trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Luật
Khoáng sản, Luật Đê điều, Luật Dầu khí, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật
Di sản văn hoá, Luật Đường sắt, Luật Doanh nghiệp, Luật Tài nguyên nước,
Pháp lệnh về Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Pháp lệnh Dự trữ quốc
gia… Theo đó đã xác lập được các nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong quản lý,
sử dụng tài sản nhà nước ở những lĩnh vực này.
Hai là, Nhà nước đã thực hiện kiểm kê nắm được tổng quan về số lượng,
giá trị và cơ cấu phân bố sử dụng tài sản nhà nước trong khu vực hành chính sự
nghiệp và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp. Các Bộ và địa phương đã
bước đầu kiểm soát được việc sử dụng tài sản nhà nước, hạn chế dần việc sử
dụng tài sản không đúng mục đích, lãng phí, thất thoát.
Cơ chế quản lý tài sản nhà nước đang từng bước được hình thành theo tinh
thần đổi mới, gắn với thị trường. Theo đó, các hoạt động mua, bán tài sản nhà
nước, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất dần theo sát giá thị
trường, cơ chế này cho phép huy động được một bộ phận quan trọng nguồn lực
12



tiềm năng cho đầu tư phát triển; đồng thời góp phần ngăn chặn tiêu cực, chống thất
thoát lãng phí. Bên cạnh đó còn từng bước thực hiện công khai hoá việc sử dụng tài
sản nhà nước, tạo lập cơ sở, môi trường pháp lý căn bản cho việc thực hiện nhiệm
vụ quản lý Nhà nước về tài sản. Đây là những nội dung rất cơ bản để Nhà nước
thực hiện quản lý đầu tư, xây dựng mới, cải tạo, mua sắm, điều chuyển, thu hồi,
bán, chuyển đổi hình thức sở hữu và thanh xử lý tài sản nhà nước.
Ba là, Xuất phát từ thực tế sử dụng tài sản nhà nước trong những năm qua,
đặc biệt là nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước còn nhiều lãng phí, Chính phủ đã chỉ
đạo thực hiện sắp xếp lại nhà, đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó
đúc rút kinh nghiệm để triển khai ra áp dụng trên phạm vi cả nước. Theo chính
sách này, toàn bộ trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh được bố trí, sắp xếp lại theo nguyên tắc: Di dời các cơ sở sản xuất kinh
doanh gây ô nhiễm môi trường ra các khu công nghiệp, khu kinh tế. Cơ quan,
đơn vị được chủ động sắp xếp lại nhà, đất được giao theo đúng chức năng,
nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của địa phương; số nhà, đất dôi
dư được phép bán, chuyển nhượng hoặc chuyển mục đích sử dụng, từ đó đã tạo
ra nguồn tài chính mới để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc hoặc
được sử dụng để đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh mới, đầu tư chiều
sâu, tăng thêm năng lực sản xuất kinh doanh; giành quỹ đất có lợi thế thương
mại cho hoạt động kinh doanh, thương mại, dịch vụ, du lịch; đồng thời giành
quỹ đất để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như trường học, bệnh viện và
các công trình phúc lợi quan trọng khác của địa phương… góp phần chỉnh trang
quy hoạch lại đô thị theo hướng hiện đại. Kết quả ban đầu cho thấy chính sách
này mang lại kết quả quan trọng cả về kinh tế và xã hội.
Bốn là, Quản lý tài sản nhà nước từ chỗ thụ động với công tác lập và chấp
hành ngân sách nhà nước thì nay đã chủ động gắn với công tác lập và chấp hành
ngân sách nhà nước, việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước được căn cứ
trên cơ sở nhu cầu đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản phục vụ hoạt động của các

13


cơ quan, đơn vị. Đồng thời, tài sản nhà nước bước đầu đã gắn giá trị với hiện
vật, đảm bảo phù hợp với quá trình đầu tư xây dựng mới, mua sắm và sử dụng
tài sản.
Năm là, Thực hiện phân cấp rõ ràng nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với tài
sản nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; giữa các cơ
quan có chức năng quản lý Nhà nước về tài sản và các cơ quan, đơn vị trực tiếp
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; đồng thời xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của từng cấp trong quản lý, trách nhiệm của từng đơn vị trong sử dụng tài
sản đảm bảo cho việc sử dụng tài sản nhà nước đi dần vào nề nếp, kỷ cương và
minh bạch.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện chính sách quản lý tài
sản công
1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách: Thực hiện chính sách là một khâu
cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu
nhất định. Thực hiện chính sách là khâu, là bước đặc biệt quan trọng trong chu
trình chính sách, có nhiệm vụ thực hiện hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc
sống [31].
Khái niệm thực hiện chính sách quản lý tài sản công: Thực hiện chính sách
quản lý tài sản công là một khâu cấu thành chu trình chính sách quản lý tài sản,
là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của Nhà nước - là chủ sở hữu của mọi tài
sản công với các đối tượng quản lý - là các cơ quan hành chính nhà nước, các
đơn vị sự nghiệp công, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức kinh
tế, các tổ chức đoàn thể khác trực tiếp quản lý, sử dụng nhằm đặt được mục tiêu
mà nhà nước đề ra.
Nhà nước là chủ sở hữu của mọi tài sản công, song Nhà nước không phải là
người trực tiếp sử dụng toàn bộ tài sản công. Tài sản công được Nhà nước giao

cho các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công, các đơn vị lực
14


lượng vụ trang nhân dân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể khác trực tiếp
quản lý, sử dụng. Như vậy, quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng tài sản có sự
tách rời. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản công của mình, Nhà nước phải thực
hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với tài sản công. Thực tế cho thấy, sự phát
triển khác nhau của mỗi nền kinh tế gắn với hệ thống quản lý nhà nước ở mức độ
chặt chẽ linh hoạt và khoa học khác nhau, không những thế tài sản nhà nước có khả
năng sinh lợi và được sử dụng hiệu quả khác nhau. Một cách tiếp cận nhanh nhất
khi tìm hiểu về hiệu quả quản lý của một quốc gia đó chính là cách thức tổ chức,
khai thác, hiện trạng sử dụng tài sản công tại các cơ quan hành chính Nhà nước khi
chúng ta đến làm việc hay tiếp cận các cơ quan hành chính này.
1.2.2. Đặc điểm của việc thực hiện chính sách quản lý tài sản
Thực hiện chính sách quản lý tài sản là bước thực hiện hóa chính sách quản
lý tài sản vào các cơ quan hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp, các tổ
chức, bao gồm những đặc điểm sau:
- Về mục đích sử dụng: Thực hiện chính sách quản lý tài sản trong hoạt
động của các CQHC, ĐVSN và các tổ chức phục vụ lợi ích chung của đất nước,
của nhân dân.
- Về chế độ quản lý: Nhà nước là chủ thể quản lý TSC, ở tầm vĩ mô TSC
được quản lý thống nhất theo pháp luật của nhà nước, ở tầm vi mô TSC được Nhà
nước giao cho các CQHC, ĐVSN và các tổ chức quản lý, sử dụng theo quy định,
chế độ của Nhà nước. CQHC, ĐVSN và các tổ chức được giao nhiệm vụ trực tiếp
quản lý, sử dụng TSC lại không phải là người có quyền sở hữu tài sản; Do đó, nếu
không quản lý chặt chẽ dẫn đến việc sử dụng TSC lãng phí, thất thoát.
- TSC rất đa dạng và phong phú, được phân bố rộng trên phạm vi cả nước;
mỗi loại tài sản có tính năng, công dụng khác nhau và được sử dụng vào các
mục đích khác nhau, được đánh giá hiệu quả theo những tiêu thức khác nhau;

TSC nhiều về số lượng, lớn về giá trị và mỗi loại tài sản lại có giá trị sử dụng
khác nhau, thời hạn sử dụng khác nhau…TSC có loại không có khả năng tái tạo
15


được phải bảo tồn để phát triển; do đó việc quản lý đối với mỗi loại tài sản cũng
có những đặc điểm khác nhau.
1.2.3. Vai trò của thực hiện chính sách quản lý tài sản công
Tài sản công là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế
chung, để làm cho dân giàu, nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân dân nên vai
trò của tài sản công trong cơ quan hành chính nhà nước cũng bao hàm những vai
trò chung của tài sản công đối với quốc gia trên các phương diện kinh tế, văn
hoá, xã hội, giáo dục... Việc tổ chức thực hiện chính sách quản lý tài sản có vị trí
đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hóa chính sách vào đời sống xã hội.
Thứ nhất: Nếu chính sách quản lý tài sản công không được đưa vào thực
hiện nó sẽ trở thành vô nghĩa.
Bất cứ một chính sách nào khi ban hành nếu không được thực hiện sẽ trở
thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa mà còn ảnh hưởng đến
uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà nước).
Thứ hai: Tổ chức thực hiện chính sách quản lý tài sản công không tiến hành
tốt dễ dẫn dến thiếu tin tưởng, thậm chí có sự chống đối của nhân dân đối với Nhà
nước.
Chính sách khi đưa vào thực hiện mà không được thực hiện đúng sẽ dẫn
đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước, gây bất
lợi về mặt chính trị và xã hội, gây khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác
quản lý.
Thứ ba: Thực hiện chính sách quản lý tài sản công giúp bổ sung hoàn thiện
chính sách của Nhà nước.
Qua việc thực hiện chính sách với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần
điều chỉnh, bổ sung những vướng mắc góp phần hoàn thiện chính sách.

Thứ tư: Việc phân tích, đánh giá chính sách quản lý tài sản ở mức độ tốt
hay xấu chỉ có thể đầy đủ, có sức thuyết phục sau khi thực hiện chính sách.

16


Thứ năm: Qua thực hiện chính sách quản lý tài sản công mới biết được
chính sách có phù hợp hay không phù hợp, vào cuộc sống hay không đi vào
cuộc sống.
Thứ sáu: Đưa hệ thống pháp luật về quản lý tài sản công vào thực tiễn là
quá trình phức tạp, đầy biến động chịu tác động của hàng loạt các yếu tố, thúc
đẩy hoặc cản trở việc thực thi.
Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách là thước đo, là cơ sở
đánh giá một cách chính xác, khách quan chất lượng và hiệu quả của chính sách.
Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy biến
động, chịu sự tác động của nhiều yếu tố giúp các nhà hoạch định và tổ chức thực
hiện chính sách có kinh nghiệm để đề ra được các giải pháp hữu hiệu trong thực
hiện chính sách.
1.3. Nội dung cơ bản của thực hiện chính sách quản lý tài sản công
Chính sách quản lý tài sản công gồm có các bộ phận hợp thành quan trọng
là: những đường hướng, hành động hay còn gọi là những quan điểm, định
hướng, mục tiêu và biện pháp thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo của việc
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước cả về nhân lực và vật lực, thực hiện theo định
hướng phát triển đã xác định. Đây là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình
chính sách từ khởi động, phân tích, soạn thảo ban hành, thực thi và đánh giá
chính sách.
1.3.1. Thực hiện chính sách quản lý quá trình hình thành tài sản công
Công tác quản lý tài sản công đều nhằm hướng tới tính hiệu quả, hiệu quả
được xem xét ở mỗi khâu, mỗi công đoạn và từng công việc được giao. Quản lý
tài sản công được thực hiện theo những tiêu chí nhất định nhằm quản lý chặt chẽ

hiệu quả theo đúng chính sách chế độ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và đảm
bảo tiết kiệm...Trong thực tế để có thể đạt được yêu cầu chung về lý luận cũng
như thực tiễn có nhiều tiêu chí khác nhau để đánh giá hiệu quả quản lý như:
Quản lý theo quy phạm pháp luật, theo kế hoạch, theo phân cấp, theo tiêu chuẩn
17


định lượng trong quản lý. Vì vậy, công tác đầu tiên của quy trình quản lý này là
quản lý quá trình hình thành tài sản nhà nước.
Như vậy, thực hiện quản lý quá trình hình thành tài sản công là khâu mở
đầu, quan trọng nhất quyết định cho các khâu tiếp theo. Tài sản công nếu được
hình thành có cơ sở khoa học và thiết thực sẽ được quản lý và khai thác sau này
hiệu quả. Đồng thời thông qua quá trình hình thành tài sản sẽ đánh giá được tính
cấp thiết, thực trạng quản lý và ngân sách của mỗi cơ quan quản lý tài sản công
sau này.
1.3.2. Thực hiện chính sách quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài
sản công
Tài sản công của cơ quan hành chính không tạo ra lợi nhuận, phục vụ trực
tiếp cho quản lý hành chính của nhà nước, vì vậy việc đánh giá hiệu quả khai
thác tài sản chính là mức độ hoàn thành công việc và định mức sử dụng hợp lý
trong công việc. Những tài sản cần thiết và có điều kiện quản lý theo tiêu chuẩn,
định mức sử dụng thì phải xây dựng tiêu chuẩn, định mức sử dụng và thực hiện
quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng; đồng thời, tất cả các tài sản phải có
chế độ quản lý, sử dụng; trong đó, chú ý đến việc đăng ký sử dụng tài sản, xây
dựng quy chế quản lý từng loại tài sản. Đặt ra định mức sử dụng là nghiệp vụ
hết sức khoa học và phức tạp quyết định hiệu quả cho quản lý, khai thác.
Tiếp đến trong công tác quản lý là việc điều chuyển tài sản từ đơn vị này
qua đơn vị khác, điều chuyển giữa các ngành, các cấp, tức là điều chuyển từ nơi
thừa sang nơi thiếu hoặc có tài sản đối với đơn vị này thì không còn sử dụng
được nhưng đối với đơn vị khác lại vẫn có thể sử dụng được; Chế độ quản lý

việc sửa chữa tài sản v.v... nhằm đảm bảo cho việc sử dụng tài sản tiết kiệm và
có hiệu quả phục vụ thực hiện nhiệm vụ của đơn vị; đó là yêu cầu cao nhất của
quá trình quản lý, sử dụng tài sản thuộc khu vực hành chính sự nghiệp. Ở tất cả
các quốc gia đều lấy việc quản lý tài sản công để phục vụ cho cơ quan nhà nước
nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ Nhà nước giao làm mục tiêu hàng đầu. Những
18


phân tích trên đây cũng chính là nội dung cơ bản cho quản lý trụ sở làm việc của
cơ quan hành chính một cách chuẩn mực và khoa học.
Đối với đất đai và các nguồn tài nguyên quốc gia khác; việc khai thác, sử
dụng được thực hiện theo pháp luật do Nhà nước quy định. Cơ quan được Nhà
nước giao khai thác, sử dụng có trách nhiệm tổ chức khai thác, sử dụng theo
đúng quy định của pháp luật. Cơ quan quản lý chuyên ngành sẽ thực hiện sự
quản lý của Nhà nước để đảm bảo việc khai thác, sử dụng đất đai và các tài
nguồn tài nguyên khoáng sản khác phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và pháp
luật. Quá trình khai thác sử dụng cũng đồng thời nảy sinh các quan hệ kinh tế tài chính giữa người được khai thác, sử dụng tài nguyên với Nhà nước và giữa
họ với nhau. Do đó, Nhà nước phải thực hiện quản lý quá trình khai thác, sử
dụng đất đai, tài nguyên với hai nội dung chủ yếu: Thực hiện quản lý về mặt vật
chất - tài sản; khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên phải theo quy hoạch, kế
hoạch và tuân thủ quy trình kỹ thuật nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định; quản lý về mặt tài chính trong quá trình khai thác, sử dụng đất
đai, tài nguyên là việc thực hiện quản lý tài chính trong mua, bán, cho thuê, góp
vốn, khai thác tài nguyên khác...Đó chính là nội dung quản lý tài sản công là đất
đai, tài nguyên khác.
1.3.3. Thực hiện chính sách quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản
công (thanh lý, chuyển giao)
Sau quá trình khai thác sử dụng tại cơ quan nhà nước, xét thấy tài sản công
không cần thiết hay không thể phục vụ cho công việc của cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan quản lý chuyên môn sẽ tiến hành thủ tục kết thúc quá trình sử

dụng. Trừ một số tài sản có thời gian sử dụng vĩnh viễn hoặc có thời gian sử
dụng dài hàng trăm năm trở lên, số còn lại đều là tài sản có thời hạn sử dụng
nhất định. Tuy nhiên, có tài sản kết thúc sử dụng trên phương diện tài sản công
nhưng nó vẫn còn giá trị sử dụng, vẫn được xã hội cần sử dụng ví dụ: như đất
đai, bất động sản, phương tiện vận tải và một số loại máy móc, trang thiết bị làm
19


việc, phục vụ nghiên cứu khoa học; có tài sản còn có giá trị thu hồi.... Do đó,
một tài sản công khi kết thúc quá trình sử dụng phải được quản lý chặt chẽ để
tránh lãng phí, thất thoát tài sản. Khi kết thúc sử dụng tài sản phải thực hiện
đánh giá hiện trạng tài sản cả về vật chất và giá trị tài sản; thực hiện kiểm kê,
xác định giá trị hiện tại của tài sản; lập phương án xử lý khác nhau. Vấn đề định
giá để bán thanh lý tài sản chính là yếu tố nhạy cảm quyết định hiệu quả của quá
trình này.
Đối với tài sản cơ quan hành chính nhà nước nếu chia ra làm động sản và
bất động sản, phương pháp nhà nước thường sử dụng là bán thanh lý hay điều
chuyển. Đối với bán thanh lý thường xây dựng quy chế cụ thể tuỳ theo pháp luật
chung của từng quốc gia. Nhà nước có thể đưa ra đấu giá công khai hay chỉ định
giá bán và đối tượng nếu là đối tượng chính sách, mức giá bán khởi điểm để đấu
giá hay ấn định thường dựa trên thị trường và tham chiếu biểu giá chung nhưng
thấp hơn một tỷ lệ % nhất định. Còn phương pháp điều chuyển đòi hỏi công tác
quản lý tổng thể, xác định lại giá trị và đăng ký lại sở hữu hay sử dụng. Nhìn
chung tài sản công có giá trị sử dụng dài hạn tại các nước thường được điều
chuyển để đảm bảo hợp lý và tiết kiệm. Quy chế, nguyên tắc điều chuyển cũng
được phân cấp và quản lý riêng cho từng nhóm tài sản theo đặc điểm và tiêu
thức nhất định.
1.3.4 Chủ thể thực hiện chính sách quản lý tài sản công
Tham gia thực hiện chính sách quản lý tài sản công dù theo mô hình quản
lý hay kinh tế nào đi nữa cũng cần có cơ quan đại diện cho quản lý nhà nước, cơ

quan trực tiếp sử dụng khai thác và vai trò của nhà nước (thường là Bộ Tài
chính, Chính phủ, Quốc hội) để đưa ra hành lang pháp lý cho cơ quan quản lý và
sử dụng thực hiện trong quản lý tài sản công.
- Trước hết là vai trò của nhà nước (cơ quan Trung ương): Quốc hội ban
hành các văn bản Luật, Pháp lệnh về quản lý Tài sản công để Chính phủ thực
hiện. Thực hiện vai trò giám sát Chính phủ trong quản lý Tài sản công.
20


×