VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ THUÝ
CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN XÃ HỒNG
MINH, HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số :
60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HÀ THỊ THƯ
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: “Công tác xã hội cá nhân đối với
phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn xã Hồng Minh, huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Hà Thị Thư và những kết quả nghiên cứu
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực.
Hà Nội, ngày
tháng
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Thuý
năm 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH ................................ 10
1.1. Đặc điểm về phụ nữ bị bạo lực gia đình .................................................... 10
1.2. Lý luận về công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia
đình....................................................................................................................21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội cá nhân với phụ nữ bị bạo lực
gia đình .............................................................................................................. 26
1.4. Cơ sở pháp lý của hoạt động công tác xã hội cá nhân với phụ nữ bị bạo lực
gia đình .............................................................................................................. 30
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI XÃ HỒNG MINH, HUYỆN PHÚ
XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................. 34
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội tại địa
bàn nghiên cứu .................................................................................................. 34
2.2. Thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại địa phương ...................... 36
2.3. Thực trạng hoạt động công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia
đình....................................................................................................................45
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động công tác xã hội cá nhân
đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình .................................................................... 58
Chương 3: ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ
NHÂN VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI
CÁ NHÂN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN
XÃ HỒNG MINH, HUYỆN PHÚ XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI........... 63
3.1. Ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân....................................... 63
3.2. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo
lực gia đình ........................................................................................................ 71
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLGĐ
Bạo lực gia đình
CTXH
Công tác xã hội
NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
PCBLGĐ
Phòng chống bạo lực gia đình
TC
Thân chủ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên biểu
STT
Trang
1
Biểu 2.1: Các hình thức BLGĐ đối với phụ nữ
36
2
Biểu 2.2: Nghề nghiệp của phụ nữ bị BLGĐ
38
3
Biểu 2.3: Ảnh hưởng của BLGĐ đối với phụ nữ
43
4
Biểu 2.4: Phản ứng của phụ nữ trước hành vi BLGĐ
45
5
Biểu 2.5 : Sự tham gia can thiệp của NVCTXH
46
6
Biểu 2.6 : Mức độ can thiệp của nhân viên CTXH
47
7
Biểu 2.7 : Các hình thức tham vấn của NVXH
53
8
Biểu 2.8 : Các dịch vụ liên quan đến kinh tế và vốn tín dụng
57
9
Biểu 2.9 : Các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH cá nhân với phụ
nữ bị BLGĐ
58
Tên bảng
1
Bảng 2.1: Nguyên nhân của BLGĐ đối với phụ nữ
39
2
Bảng 2.2 : Các biện pháp can thiệp của NVXH
46
3
Bảng 2.3: Mục đích tham vấn của NVXH
49
4
Bảng 2.4: Mức độ tham vấn của NVXH
50
5
Bảng 2.5 : Kết nối nguồn lực hỗ trợ phụ nữ bị BLGĐ
52
6
Bảng 2.6: Giáo dục các kỹ năng cho phụ nữ bị BLGĐ
54
7
Bảng 2.7 : Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
56
8
Bảng 2.8: Dịch vụ hỗ trợ việc làm
57
9
Bảng 3.1 : Đánh giá nhu cầu của chị Nguyễn Thị B
67
10
Bảng 3.2: Kế hoạch can thiệp
69
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi con người được sinh ra và lớn lên và được
chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống. Gia đình có vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển của mỗi cá nhân và của cả xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói
“Rất quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới tạo nên được xã
hội,xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt”.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, trước những biến đổi to lớn trong
nhiều lĩnh vực, phương diện của xã hội, gia đình Việt Nam hiện nay cũng đang có
nhiều những chuyển biến đáng kể. Sự thay đổi từ cấu trúc gia đình truyền thống
sang kiểu gia đình hiện đại đã đưa đến nhiều vấn đề mới, nhiều thách thức mới đặt
ra cho sự phát triển của gia đình, làm nảy sinh rất nhiều vấn đề gây ảnh hưởng trực
tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và cho toàn xã hội. Một trong số đó
là vấn đề bạo lực gia đình (BLGĐ).
Bạo lực gia đình hiện nay đã trở thành vấn đề quan tâm của nhiều quốc gia,
bởi nó xảy ra ở nhiều nơi, thể hiện dưới nhiều hình thức và không phân biệt sự khác
nhau về giai cấp, chủng tộc, tôn giáo hay màu da. Nó phá vỡ sự yên ấm của các gia
đình, hủy hoại môi trường sống và giáo dục tốt đẹp, làm mất đi những giá trị đạo
đức nhân văn cao đẹp của con người bởi nạn nhân của Bạo lực gia đình không ai
khác thường là phụ nữ và trẻ em – những đối tượng yếu thế trong xã hội.
Ở Việt Nam, tình trạng Bạo lực gia đình đối với phụ nữ diễn ra khá phổ biến,
Bạo lực gia đình đã trở thành một vấn đề nóng được bàn luận sôi nổi trên các diễn
đàn. Nó không còn là một vấn đề mới mẻ nhưng vẫn luôn rất thời sự bởi những biến
tướng và hậu quả do nó gây ra cho xã hội với nhiều mức độ khác nhau, ảnh hưởng
trực tiếp đến nhân cách, danh dự, nhân phẩm và quá trình phát triển của mỗi cá
nhân, gián tiếp tạo nên mầm mống các tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác cho xã
hội. Chưa bao giờ những thông tin về Bạo lực gia đình trên các phương tiện thông
tin đại chúng lại bùng nổ cả về quy mô và mức độ như những năm gần đây. Thực tế
đó đã khiến cho Bạo lực gia đình luôn là đề tài có sức hút mạnh mẽ đối với các nhà
hoạch định chính sách, các nhà hoạt động xã hội, các nhà nghiên cứu .
1
Công tác xã hội đối với nạn nhân bị Bạo lực gia đình nói chung và phụ nữ bị
BLGĐ nói riêng là vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Đa phần các nghiên cứu
chủ yếu tập trung vào hoạt động tham vấn cho phụ nữ về mặt tâm lý sau khi họ bị
Bạo lực gia đình, trong khi đó việc nghiên cứu một cách toàn diện các hỗ trợ của
Công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị Bạo lực gia đình nhìn chung còn khiêm
tốn, thậm chí là chưa có.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ
bị bạo lực gia đình từ thực tiễn xã Hồng Minh,huyện Phú Xuyên, thành phố Hà
Nội” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trong những năm gần đây bạo lực gia đình đã trở thành một vấn đề nóng thu
hút được nhiều sự quan tâm của toàn xã hội. Không chỉ riêng giới chuyên môn mà
các nhà truyền thông, báo chí cũng đã tốn không ít giấy mực khi bàn đến vấn đề này.
Nhiều công trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo chuyên ngành đã được diễn ra ở cả
trong nước và quốc tế. Mỗi công trình nghiên cứu lại đưa đến những cách tiếp cận khác
nhau khi bàn về vấn đề BLGĐ, đóng góp vào cái nhìn chung cho lĩnh vực này.
Trong số các nghiên cứu của nước ngoài, phải kể đến đóng góp của nhà nữ
quyền Dobash với cuốn sách “Violence Against Wives” (Tạm dịch: là bạo lực
chống lại những người vợ - 1979) là một trong những công trình nghiên cứu nổi
tiếng về BLGĐ. Nghiên cứu được tiến hành ở Scotland bao gồm những cuộc phỏng
vấn sâu và phỏng vấn không chính thức 137 phụ nữ đang lánh nạn vì bạo lực của
người chồng. Trong số đó, có tới 84% các trường hợp phụ nữ bị tấn công lần đầu
tiên trong 3 năm đầu của hôn nhân. Dobash đã chỉ ra nguyên nhân chính của các vụ
bạo lực trong hôn nhân là do uy quyền của người chồng và sự phụ thuộc của người
phụ nữ vào đàn ông. Uy quyền của người chồng thường được khơi tỏa bởi sự ghen
tuông, tình dục, con cái, tiền nong, say rượu …. Dobash cũng chỉ ra rằng phụ nữ bị
bạo lực thường có xu hướng quay lại với người chồng bạo lực vì bị phụ thuộc về
kinh tế và lo lắng về sự thiếu vắng vai trò của người bố đối với con cái của họ. Chính
từ những lo lắng đó nên khi xảy ra bạo lực, những người phụ nữ thường không muốn
2
đi trình báo cảnh sát hoặc cơ quan chức năng. Do vậy, họ thường không nhận được sự
hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng hay các dịch vụ phúc lợi [28, Tr. 23].
Báo cáo về “Nghiên cứu sâu về bạo hành với phụ nữ” được Tổng thư ký
LHQ trình bày tại kỳ họp lần thứ 61 của Đại hội đồng LHQ là một tài liệu quan
trọng thể hiện rõ tình hình bạo lực đối với phụ nữ đang diễn ra ở 71 quốc gia trong
phạm vi nghiên cứu. Báo cáo đã chỉ ra các yếu tố dẫn đến bạo lực đối với phụ nữ ở
các quốc gia trong phạm vi nghiên cứu là việc sử dụng bạo lực để giải quyết những
mâu thuẫn và xung đột, quan điểm “riêng tư”, sự thờ ơ của các cấp ban ngành và
một số yếu tố nguy cơ ở cấp độ cá nhân, gia đình và cộng đồng khác. Báo cáo đã
phản ánh một cách khái quát về tình hình bạo lực với phụ nữ trên Thế giới, cùng các
hình thức biểu hiện, các chỉ số và hậu quả của nó. Báo cáo cũng chỉ ra những hoạt
động có triển vọng nhằm giải quyết vấn nạn này như: chú trọng vào pháp luật và
cung cấp các dịch vụ phòng ngừa. Bên cạnh đó, báo cáo cũng chỉ ra những thách
thức, khó khăn không nhỏ cho nhân loại trong công tác phòng chống, ngăn chặn bạo
lực đối với phụ nữ như: nguồn lực mỗi quốc gia khác nhau, thiếu hụt ngân quỹ,
thiếu sự xử phạt, thiếu sự đánh giá hay các cách tiếp cận toàn diện [2, tr. 33].
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Ở Việt Nam, cũng có rất nhiều những đóng góp của nhiều tác giả nghiên cứu
trong lĩnh vực này. Chuyên gia nghiên cứu về Giới và Gia đình – GS.TS Lê Thị
Quý là người đã có nhiều công trình nghiên cứu về BLGĐ. Có thể kể đến như bài
viết “Bạo lực gia đình ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Khoa học và Phụ nữ . Trong
bài viết, tác giả đã chỉ ra năm nguyên nhân chính của nạn BLGĐ là: nguyên nhân
kinh tế, nguyên nhân nhận thức, nguyên nhân văn hóa – xã hội, nguyên nhân sức
khỏe, nguyên nhân từ phía những người phụ nữ, và một nguyên nhân sâu xa nhất là
sự bất bình đẳng trong quan hệ giới [17, tr. 45].
Công trình nghiên cứu “Bạo lực trên cơ sở giới” (1999) của TS Vũ Mạnh
Lợi, Vũ Tuấn Huy, Nguyễn Hữu Minh – thuộc Viện nghiên cứu Gia đình và Giới
tiến hành ở ba thành phố: Hà Nội, Huế, TP HCM. Trong nghiên cứu các tác giả đã đi
sâu tìm hiểu về thái độ của cộng đồng và các thiết chế xã hội về bạo lực trên cơ sở giới,
tìm hiểu phản ứng của các cá nhân, luật pháp và các thiết chế đối với nạn BLGĐ.
3
Trong nghiên cứu các tác giả cũng cho thấy tình trạng bạo lực gia đình đang có chiều
hướng gia tăng tại ba thành phố trong địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là trong những gia
đình mà người phụ nữ đang thực hiện và khẳng định vai trò kinh tế hộ [8, tr. 65].
Năm 2001, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành thực hiện đề tài:“Bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam” tại ba tỉnh: Thái Bình, Lạng Sơn và Tiền
Giang. Đề tài tiến hành tìm hiểu nhận thức, thái độ của người dân và các cán bộ thi
hành pháp luật của các tổ chức đoàn thể xã hội tại địa phương. Đề tài cũng đã chỉ ra
được những nguyên nhân và hậu quả của nạn BLGĐ đối với phụ nữ và phản ứng
của nạn nhân trước những hành vi bạo lực [23, tr. 55].
Nhóm tác giả Nguyễn Hữu Minh, Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thị Mai Hoa, Trần
Thị Cẩm Nhung thuộc Viện Gia đình và Giới cùng nghiên cứu “Bạo lực của chồng
đối với vợ ở Việt Nam trong những năm gần đây” (2006) đã đưa ra nhận định: chủ
thể gây ra BLGĐ là người chồng, người bạn đời hoặc chồng cũ. Nghiên cứu cũng chỉ
ra những khác nhau trong hình thức bạo lực gia đình giữa hai khu vực là thành thị và
nông thôn. Theo đó, ở nông thôn thường diễn ra hình thức bạo lực về thể chất, còn ở
thành thị thường là hình thức bạo lực về tinh thần và tình dục. Qua nghiên cứu, các tác
giả cũng đưa ra những khuyến nghị nhằm giải quyết vấn đề BLGĐ như: cần nâng cao
nhận thức của các cấp lãnh đạo về BLGĐ đối với phụ nữ, đồng thời cần tiến hành
nghiên cứu toàn diện về bạo lực trong gia đình nhằm tìm hiểu sâu nguyên nhân, hậu
quả của vấn đề để có những can thiệp kịp thời và hợp lý [7, tr. 28].
Năm 2007, với tác phẩm “Bạo lực gia đình – một sự sai lệch giá trị” của hai
tác giả GS.TS Lê Thị Quý và Đặng Vũ Cảnh Linh đã một lần nữa cho thấy được
tính cấp thiết của những đề tài nghiên cứu về vấn đề bạo lực gia đình. Bên cạnh
những lý luận chung về BLGĐ, hai nhà nghiên cứu còn đưa ra những nhận xét, mô
tả, phân tích rất chi tiết một số nghiên cứu can thiệp trong thực tiễn về BLGĐ và
một số dự án phòng chống BLGĐ ở Việt Nam tại các địa bàn: Hà Nội, Phú Thọ,
Thái Bình, Huế. Nhiều mô hình phòng chống BLGĐ đã được đưa ra phân tích như mô
hình truyền thông; mô hình can thiệp và cứu giúp nạn nhân; mô hình tư vấn, hỗ trợ về
tâm lý giáo dục; mô hình can thiệp tại cộng đồng. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả, hạn
4
chế của một số mô hình đã thực hiện tại địa phương, các tác giả đã rút ra nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu cho công tác phòng chống BLGĐ ở nước ta [17, tr. 72].
Năm 2008, ở nhiều địa phương trên cả nước đã diễn ra nhiều cuộc hội thảo bàn
về vấn đề BLGĐ nhằm tìm ra các biện pháp ngăn chặn, xóa bỏ vấn nạn này. Trong
hội thảo bàn về biện pháp phòng chống BLGĐ tổ chức tại TP HCM, bác sỹ Nguyễn
Minh Tiến – một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý trị liệu đã có bài tham luận:
“Làm việc với thân chủ có vấn đề bạo hành trong gia đình”. Bài tham luận đã phản
ánh thực trạng BLGĐ ở Việt Nam và nêu lên những chuyển biến, những thuận lợi
và hạn chế trong công tác phòng chống BLGĐ trong những năm vừa qua. Từ đó, tác
giả đã đưa ra những dấu hiệu nhận biết, các biện pháp hỗ trợ nạn nhân một cách tức
thời cũng như về lâu dài [22, tr. 63].
Như vậy, có thể thấy theo dòng lịch sử vấn đề về BLGĐ và Phòng chống
BLGĐ đã và đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả.
Song có lẽ, cho đến nay, BLGĐ vẫn đang là một vấn đề nóng được xã hội quan tâm
bởi những biến đổi ngày càng phức tạp của nó đang diễn ra trong thực tiễn đời sống
hàng ngày. Còn rất nhiều những công trình nghiên cứu với quy mô khác nhau về
vấn đề BLGĐ đã được các tác giả thực hiện với mong muốn sẽ góp phần đưa đến
một cái nhìn đa sắc cạnh về vấn đề BLGĐ tại các địa phương trên cả nước. Các
nghiên cứu đã phần nào phản ánh được thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của
BLGĐ cũng như đã đưa ra được các kết luận, khuyến nghị có ý nghĩa cho công tác
phòng chống BLGĐ ở VN.
Tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên
cứu về hoạt động công tác xã hội đối với nạn nhân bị bao lực gia đình. Luận văn
thạc sỹ của Nguyễn Thị Mai Phương với đề tài “Công tác xã hội đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình từ thực tiễn xã Y Can, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái” đã Nghiên cứu
lý luận và thực trạng công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Y Can
trên địa bàn huyện Trấn Yên, ứng dụng hoạt động công tác xã hội nhóm nhằm trợ giúp
đối tượng là phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Y Can, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Phương Thảo với đề tài “ Công tác xã hội
đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
5
Bình” đã tìm hiểu thực trạng các hoạt động trợ giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình như
tuyên truyền phổ biến pháp luật, hoạt động hòa giải cấp cơ sở, hoạt động bảo vệ phụ
nữ bị bạo lực gia đình và chỉ ra những hạn chế của các hoạt động trợ giúp ấy .
Những tài liệu đã được công bố nói trên luôn là những tài liệu tham khảo quan
trọng trong việc nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn :”Công tác xã hội cá nhân đối
với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn thực tiễn xã Hồng Minh,huyện Phú Xuyên
,thành phố Hà Nội”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực
gia đình, các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó; từ đó áp dụng tiến trình phương
pháp công tác xã hội cá nhân để đề xuất biện pháp thúc đẩy công tác xã hội cá nhân
đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo
lực gia đình.
Phân tích và đánh giá thực trạng công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình từ thực tiễn xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình từ thực tiễn xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
Tiến hành ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình tại xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực gia đình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn xã
Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội
4.2. Phạm vi nghiên cứu
6
- Phạm vi về đối tượng: nghiên cứu công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình, cụ thể đó là các hoạt động: hoạt động can thiệp xử lý khủng hoảng,
hoạt động quản lý ca, hoạt động phòng ngừa tái bị bạo lực, hoạt động kết nối với
các dịch vụ công tác xã hội.
- Phạm vi về khách thể: Đề tài nghiên cứu trên 2 nhóm khách thể chính đó là:
+ Phụ nữ bị bạo lực: 35 người
+ Cán bộ làm việc với phụ nữ bị bạo lực: 15 người
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
trong đó:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng: Đề tài xem xét hoạt động CTXH đối
với nạn nhân bị bạo lực gia đình trong mối quan hệ với các yếu tố môi trường và hệ
thống xung quanh, đặt vấn đề trong một tổng thể. Những vấn đề liên quan đến nạn
nhân bị BLGĐ và các phương pháp thực hiện CTXH chuyên nghiệp được phân tích
theo các tương quan để đưa ra một kết luận khách quan, toàn diện.
- Phương pháp luận duy vật lịch sử: Đối tượng nghiên cứu được đánh giá,
phân tích theo một trục thời gian, mang tính lịch sử rõ nét. Qua đó, các vấn đề và
yếu tố liên quan trong đề tài nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu theo các thời kỳ
lịch sử, đảm bảo tính xác thực và toàn vẹn trong trình bày kết quả nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu
Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu và các tài
liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này được áp dụng
phân tích các tài liệu như: Báo cáo về tình hình văn hóa, kinh tế, xã hội của xã Hồng
Minh, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, mẫu thu thập thông tin có sẵn của
huyện và xã cùng với các báo cáo chuyên ngành của Công an, Tư pháp, Văn hóa
Thông tin, các văn bản quy định, hương ước thực hiện xây dựng nông thôn mới…
* Phương pháp quan sát
7
Phương pháp quan sát, chụp ảnh trong quá trình thu thập thông tin nhằm đánh
giá mức độ tin cậy của thông tin đã thu thập bằng việc quan sát hành vi, cử chỉ, thái
độ của người được phỏng vấn, cơ sở vật chất nhà văn hóa, trung tâm học tập cộng
đồng phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần....
*Phương pháp phỏng vấn theo bảng hỏi
Là phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập một
bảng hỏi cho nhóm đối tượng trong một khu vực nhất định ở một không gian, thời
gian nhất định.
Trong đề tài có xây dựng một bảng hỏi là tổ hợp các câu hỏi về thực trạng các
hoạt động xã hội liên quan đến việc phòng chống BLGĐ, việc hỗ trợ các nạn nhân
về mặt kinh tế, pháp luật, chăm sóc sức khỏe tại xã Hồng Minh. Sử dụng phương
pháp điều tra chọn mẫu với 35 phụ nữ đang có chồng từ 18 tới 55 tuổi tại địa bàn
giúp có được những thông tin mang tính chính xác và thực tế nhất. Dữ liệu từ
phương pháp này sẽ đem lại kết quả chính cho nghiên cứu.
* Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu
và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và nhận thức
của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ của người ấy.
Phỏng vấn sâu được tiến hành với cán bộ huyện/xã bao gồm: Cán bộ lãnh đạo
chính quyền, các ban ngành đoàn thể như: Chủ tịch/phó Ủy ban nhân dân, Tư pháp,
Công an, Văn hóa thông tin, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,… Nghiên cứu cũng thực
hiện phỏng vấn sâu những người bị bạo lực và người gây ra bạo lực và các thành
viên gia đình (con cái hoặc ông/bà, anh/chị/em) nhằm tìm hiểu sâu những vấn đề
mà nội dung nghiên cứu mong muốn thực hiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một số lý luận liên quan tới vấn đề
nghiên cứu như: Bạo lực gia đình là gì? Phụ nữ bị bạo lực gia đình là gì? Các hoạt
động công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình và các yếu tố ảnh hưởng.
8
Đề tài thể hiện được vai trò của công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp
nạn nhân bị bạo lực gia đình đặc biệt là phụ nữ, từ đó mọi người nhận rõ được tầm
quan trọng của nhân viên công tác xã hội hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài xây dựng nhằm nghiên cứu thực trạng hoạt động công tác xã hội cá nhân
với phụ nữ bị bạo lực gia đình, phát hiện các vấn đề trong thực trạng nhằm đưa ra các
giải pháp, kiến nghị cho vấn đề bạo lực gia đình tại xã Hồng Minh, huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội.
7. Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu của luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia làm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia
đình từ thực tiễn xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình và đề xuất một số biện pháp hỗ trợ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực
gia đình.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Đặc điểm về phụ nữ bị bạo lực gia đình
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm gia đình
Giữa các ngành khoa học, các nhà khoa học khác nhau cũng có nhiều quan
điểm khác nhau về gia đình. Có quan niệm cho gia đình là “tế bào xã hội”, gia đình
là “thiết chế xã hội”, "là “nhóm xã hội”, là “tổ chức cơ bản của xã hội”…
Trong tác phẩm “Cấu trúc xã hội” (1949) G.P. Murdock cho rằng “Gia đình là
một nhóm xã hội có đặc trưng là cùng cư trú, hợp tác và tái sản xuất kinh tế (người lớn
và của cả hai giới), và ít nhất trong đó có quan hệ tình dục với nhau, được xã hội tán
thành, một hoặc nhiều con cái (do họ đẻ ra hoặc do họ nhận con nuôi)” [12, tr. 21].
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam (năm 2002) định nghĩa “Gia đình là thiết
chế xã hội dựa trên cơ sở kết hợp những thành viên khác giới, thông qua hôn nhân
để thực hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn hóa….Gia đình là một phạm trù
lịch sử thay đổi cùng sụ phát triển của lịch sử” [6, tr. 17].
Dưới góc độ Luật pháp, theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam “Gia đình
là tập hợp những gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau” [18, tr. 25]
* Khái niệm bạo lực gia đình
Bạo lực ngày càng được quan tâm nhiều hơn bởi bản chất của nó gắn liền với
tội phạm, người gây ra bạo lực không phân biệt giới tính, lứa tuổi hay dân tộc và
nạn nhân của bạo lực cũng không có mối liên hệ tới những phạm trù trên. Tức là ai
cũng có thể gây ra bạo lực và ai cũng có thể là nạn nhân của bạo lực. Bạo lực không
chỉ ảnh hưởng tới riêng nạn nhân mà còn là gây nên những hệ lụy tiêu cực tới cộng
đồng rộng lớn, làm mất an toàn xã hội khi hiện tượng khủng bố hay giết người hàng
loạt ngày càng gia tăng.
Nhận thức được sự nghiêm trọng của bạo lực, năm 1995 Liên Hợp Quốc đã
đưa ra quan niệm: “Bạo lực là việc cố ý sử dụng vũ lực hay quyền lực để đe dọa,
10
tước đoạt đối với một người, một nhóm người để gây ra chấn thương về thể xác, tổn
hại về mặt tâm lý, thậm chí còn dẫn đến tử vong” [1, tr. 42].
Xét trong mối quan hệ thì “BLGĐ là tình trạng bạo lực xảy ra với các thành
viên trong một gia đình. Không đơn thuần coi BLGĐ chỉ xảy ra giữa người chồng
và vợ mà còn là bạo lực giữa cha mẹ và con cái, giữa những đứa con với nhau…”
(tríchWikimedia.com).
Xét dưới môi trường gây ra bạo lực, BLGĐ và bạo lực xã hội khác nhau ở môi
trường gây ra bạo lực. Bạo lực xã hội diễn ra trên quy mô lớn và với những người
không quen biết, còn BLGĐ xảy ra với những người thân trong gia đình, những
người gắn kết bởi quan hệ huyết thống và hôn nhân.BLGĐ liên quan tới trạng thái
cảm xúc của mỗi cá nhân, nhưng dù trong trường hợp nào thì nó cũng là sự lệch
chuẩn xã hội.
Nhìn nhận về vấn đề BLGĐ, trong Đại hội của Hội đồng Liên Hợp Quốc
tháng 12/1993, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về BLGĐ như sau: “Bất kỳ
hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến
những tổn hại về thân thể, tình dục, tâm lý…sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách
tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư.”
Quan điểm của Việt Nam về BLGĐ được thể hiện trong Luật Phòng chống
BLGĐ đã được thông qua ngày 1/7/2008. Khoản 2, điều 1, chương I của Luật này
đã nêu rõ: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác
trong gia đình.”.[19, tr. 40]
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu: “BLGĐ là những hành vi bạo
lực, cưỡng bức hoặc đe dọa gây ra những tổn thương về thể chất, tâm lý, tình dục
hay kinh tế xảy ra giữa các thành viên trong một gia đình gây nên những hậu quả
nghiêm trọng đối với nạn nhân và môi trường xung quanh.”
Các hành vi BLGĐ với phụ nữ được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau, có
4 nhóm hành vi bạo lực chủ yếu bao gồm bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần, bạo
lực tình dục và bạo lực kinh tế.
- Bạo lực thể chất
Là những hành vi ngược đãi, đánh đập hoặc sỉ nhục của một hoặc nhiều thành
viên trong gia đình làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khỏe, tâm thần, tính mạng
11
của một hay nhiều thành viên khác. Bạo lực gia đình xảy ra giữa những người có
quan hệ đặc biệt (vợ chồng, con dâu, con rể) hoặc ruột thịt (ông bà, cha mẹ, con
cháu, anh chị em, họ hàng) có thể trong cùng một mái nhà hoặc mái nhà khác. [19,
tr.43,44]
- Bạo lực tinh thần
Là những lời nói, thái độ, hành vi ngược đãi hoặc sỉ nhục của một hoặc nhiều
thành viên trong gia đình làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khỏe, tâm thần của một
hay nhiều thành viên khác. Bạo lực tinh thần cũng còn là sự áp đặt, chỉ đạo hoặc xâm
phạm tới nguyện vọng, ý thích, thị hiếu riêng của mỗi người.[19, tr.44]
- Bạo lực tình dục
Là những hành vi cưỡng ép hoặc dùng bạo lực để thỏa mãn tình dục của một
người hoặc một nhóm người đối với một người hoặc một nhóm người khác. Hành
vi này có thể diễn ra một lần hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần và diễn ra cả trong quan hệ
vợ chồng hoặc bạn tình. Bạo lực tình dục còn bao hàm cả việc cưỡng ép vợ sinh
nhiều con hoặc đẻ con trai.Bạo lực tình dục là một dạng đặc biệt trong quan hệ giới
tại gia đình. Nó vừa có thể diễn ra kín đáo, âm thầm vừa có thể diễn ra công khai
nhưng nhìn chung cả đạo đức và pháp luật đều khó có thể can thiệp.[19, tr.44]
- Bạo lực kinh tế
Là việc dùng sức mạnh để đe dọa, áp đặt hoặc lừa mị nhằm bóc lột lao động,
chiếm giữ và kiểm soát tài chính của một hoặc một nhóm người với một hoặc một
nhóm người khác trong gia đình. Dạng bạo lực này đưa đến sự phân công lao động và
hưởng thụ bất hợp lý giữa các thành viên trong gia đình.
* Khái niệm phụ nữ bị bạo lực gia đình
Trong rất nhiều cuộc nghiên cứu về BLGĐ đều chỉ ra rằng bạo lực xảy ra chủ yếu
với người già, phụ nữ và trẻ em, những người yếu thế trong gia đình.
Hiện nay chúng ta chưa có những nghiên cứu quy mô và chuyên biệt về “BLGĐ
với phụ nữ”. Qua tìm hiểu các tài liệu, tác giả khái quát rằng “BLGĐ đối với phụ nữ là
tất cả những hành vi gây hại, tổn thương cho phụ nữ về thân thể, tâm lý hay tình dục
được gây ra bởi những thành viên khác trong gia đình”
BLGĐ với phụ nữ dù ở hình thức và mức độ nào thì cũng gây ra cho người phụ
nữ những thương tổn nặng nề và đều là những hành vi cần phải lên án và ngăn chặn.
12
Theo Khoản 1, Điều 5 của Luật PCBLGĐ, nạn nhân bị BLGĐ có những quyền
sau đây:
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng,
nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
- Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo
vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;
- Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
- Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác
theo quy định của Luật này;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình
1.1.2.1 Nguyên nhân của Bạo lực gia đình
Tình trạng BLGĐ ở Việt Nam đã tồn tại từ rất lâu, dưới từng thời kỳ, nó có
những biểu hiện khác nhau. Có thể thấy rằng, BLGD là hệ qủa của một loạt những
yếu tố tác động khác nhau, từ những yếu tố mang tính khách quan như điều kiện
kinh tế, các vấn đề xã hội đến những yếu tố chủ quan như nhận thức của con người.
Sự phân chia nguyên nhân dưới đây cũng chỉ mang tính tương đối bởi những yếu tố
trên có những mối liên hệ tới nhau.
*Yếu tố nhận thức
Yếu tố nhận thức này xuất phát từ cả hai phía, người nam giới cũng như những
người phụ nữ - Những người gây ra bạo lực và những nạn nhân của bạo lực. Những
hạn chế về nhận thức về quyền con người, luật pháp, về bình đẳng giới, những quna
niệm giáo dục theo tư tưởng phong kiến…tất cả khiến cho chuyện BLGĐ trở thành
điều mà một bộ phận lớn người dân cho là điều bình thường . Bà Cao Thị Hồng
Vân, Trưởng ban Xã hội và Gia đình, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam nói: “Nguyên
nhân sâu xa nhất dẫn đến bạo lực là tư tưởng trọng nam khinh nữ, gia trưởng
phong kiến vẫn đang tồn tại phổ biến trong các tầng lớp nhân dân”. (Nguồn:
vietbao.com )
Trong một số nghiên cứu gần đây, người ta cũng chỉ ra rằng, Việt Nam chịu
ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “trọng nam kinh nữ” của Nho giáo. Trong tư tưởng nay,
vai trò, sự tồn tại của người nam giới được đề cao đồng thời hạ thấp vai trò của
người phụ nữ. Chính những tư tưởng này đã tạo nên thói gia trưởng độc đoán cho
13
những người đàn ông trong gia đình và là một trong những nguyên nhân gây lên
BLGĐ. Không khó để bắt gặp những câu nói, “dạy con từ thủa còn thơ, dậy vợ từ
thủa bơ vơ mới về” hay “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Phương
pháp giáo dục gia đình này vô tình chung đã bao che cho những hành động trái với
đạo lý, trái với pháp luật của những ông chồng gia trưởng.
Sự thiếu hiểu biết này không chỉ xảy ra với các ông chồng và ngay cả những
người phụ nữ trong gia đình. Người phụ nữ thường thiếu tự tin, tự nhận trách nhiệm
về mình, không dám tham gia vào các quyết định trong gia đình, tự hạ thấp những
giá trị của bản thân, càng gây nên tính ích kỷ của những ông chồng. Những nghiên
cứu chỉ ra rằng, nhiều người vợ cảm thấy mình bị đánh là đúng, do mình không
chăm sóc chồng chu đáo, do mình không sinh được con trai…và việc có bị mắng
nhiếc, bị đánh hàng ngày cũng là do “cái số mình nó khổ” mà không nghĩ rằng mình
đang là nạn nhân của BLGĐ.
*Yếu tố kinh tế
Kinh tế khó khăn là một trong những nguyên nhân của BLGĐ. “Đói nghèo gây
ra bạo lực”. Điều này đúng. Đói nghèo không phải trực tiếp sinh ra bạo lực nhưng là
môi trường thuận lợi cho bạo lực nảy mần và phát triển. Theo thống kê thì 90% mâu
thuẫn gia đình xuất phát từ kinh tế khó khăn.
Ngày nay, kinh tế ổn định mới chính là nền tảng cho sự phát triển của gia đình.
Không còn quan niệm, một mái nhà tranh, hai trái tim vàng nữa, mà kinh tế mới
chính là điều kiện tối cần hiết cho một gia đình hạnh phúc. Không được đáp ứng
những yêu cầu cần thiết này, người ta khó có thể duy trì những mối quan hệ tốt đẹp.
Giờ đây, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của nền kinh tế thị
trường, đời sống con người cải thiện hơn nhưng cũng nảy sinh nhiều nhu cầu hơn,
và trong điều kiện mới, máy móc thay thế con người, những lao động thủ công bị
thất nghiệp, nghèo đói gia tăng. Không có thu nhập nhưng chi phí sinh hoạt lại ngày
càng tăng cao. Những áp lực mà ngày nào con người cũng phải đói mặt khiến cho
không khí gia đình luôn căng thẳng, sự ức chế thường xuyên nên những hành vi bạo
lực giữa các thành viên trong gia đình là điều khó tránh khỏi.
* Các yếu tố khác
Một nguyên nhân phổ biến trong các yếu tố này là do người chống mắc vào
các tệ nạn xã hội mà phổ biến nhất là uống rượu. Khi uống rượu người chồng không
14
làm chủ được hành vi của mình, hoặc cũng có những người mượn rượu để gây ra
những hành động bạo lực với vợ mình. Nhiều cuộc nghiên cứu có đề cập tới nguyên
nhân chồng đánh vợ là do uống rượu. Điều tra về bình đẳng giới năm 2006-2007, tỷ
lệ những người phụ nữ có chồng nghiện rượu thường bị đánh hơn những người còn
lại. Ngoài ra, người chồng khi vướng vào những tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện
hút thì người vợ luôn phải hứng chịu những trận đòn roi vô cớ từ người chồng
Một nguyên nhân khác cũng xuất phát từ những người phụ nữ. Bên cạnh
những yếu tố về nhận thức của người phụ nữ như đã đề cập tới ở trên như việc
người phụ nữ cam chịu, chấp nhận thì một nguyên nhân nữa khiến cho người phụ
nữ trở thành nạn nhân của BLGĐ đó chính là cách ứng xử của họ trong gia đình.
Nói đúng hơn là người vợ thiếu những kỹ năng ứng xử trong gia đình, nuôi dạy con
không phù hợp hay thiếu tế nhị trong giao tiếp khi gia đình xảy ra mâu
thuẫn…Cũng có nhiều trường hợp người chồng đánh vợ khi người vợ không đảm
bảo thiên chức của mình khi họ hoàn toàn có khả năng, hay những trường hợp do
người vợ ngoại tình, ăn chơi không phù hợp với điều kiện kinh tế, truyền thống gia
đình chồng cũng là những nguyên nhân khiến cho người chồng có những hành vi
bạo lực với người phụ nữ.
Bên cạnh đó còn phải đề cập tới những yếu tố về mặt luật pháp và thái độ của
cộng đồng với BLGĐ. Khi pháp luật và xã hội còn chưa nhận thức đúng đắn và đầy
đủ về vấn đề này thì người chồng vẫn cho đó là việc làm không phạm pháp, người
dân xung quanh vẫn coi đó là chuyện nội bộ của mỗi gia đình, nên không có ai can
thiệp cùng với việc thiếu những dịch vụ hỗ trợ nạn nhân nên người phụ nữ vẫn hàng
ngày cam chịu những hành vi bạo hành từ người chồng của mình.
1.1.2.2 Hậu quả của Bạo lực gia đình
Với tính chất nghiêm trọng, BLGĐ gây nên những hậu quả nặng nề và mức độ
ảnh hưởng của nó là rất lớn, nó không chỉ với nạn nhân bị bạo lực mà còn với
những thành viên khác trong gia đình, cộng đồng xung quanh và toàn xã hội.
* Hậu quả của Bạo lực gia đình với người phụ nữ
Với những phụ nữ bị BLGĐ, họ phải chịu những tổn thương nghiêm trọng và
toàn diện về mọi mặt: thể chất, tinh thần, kinh tế…mà hậu quả cao nhất là họ có thể
bị giết bởi chính người chồng hay các thành viên trong gia đình mình. Khi người
phụ nữ bị bạo hành, sức khỏe của họ bị giảm sút, tinh thần hoảng loạn, thất vọng
15
chán nản. Bên cạnh những tổn thương trên thân thể còn có thể nhận thấy những hậu
quả về mặt tâm lý như: hoảng loạn, chán nản, thất vọng, xấu hổ, mất tự chủ…
Với hình thức bạo lực tinh thần, dù khó có thể nhận thấy nhưng không thể phủ
nhận những hậu quả tiêu cực sâu sắc ảnh hưởng tới người phụ nữ. Những lời mắng
chửi, xúc phạm nặng nề kiến cho người vợ cảm thấy phẫn uất, tình trạng này kéo
dài khiến nhiều người đã tìm tới cái chết. Với những nạn nhân thường xuyên bị cô
lập với bên ngoài, bị khống chế, họ sẽ dần dần mất tự chủ, mất chính kiến, không có
khả năng tham gia, hay quyết định. Họ luôn tuân theo những mệnh lệnh của người
chồng dù đó là những việc nhỏ nhất hay những việc quan tới cá nhân mỗi con
người. Một số nạn nhân trở nên tê liệt đi ý chí, họ không dám kêu gọi sự giúp đỡ từ
bên ngoài, chấp nhận chung sống với bạo lực bởi “Sống lâu trong cái khổ, nên quen
khổ rồi”.
Với người phụ nữ phải chịu bạo lực tình dục cũng phải chịu những tổn thương
sâu sắc. Với suy nghĩ rằng, vấn đề tình dục là chuyện riêng giữa hai vợ chồng, đa
phần người phụ nữ đều âm thầm chịu đựng để rồi phải chịu những hậu quả nặng nề.
Hầu hết là bị khủng hoảng, nhiều người bị mắc HIV và những bệnh lây qua đường
tình dục từ chính người chồng của mình. Theo số liệu của Bộ Y tế, 70% số phụ nữ
bị lây nhiễm HIV từ chồng. Chính bạo lực tình dục đã làm tăng nguy cơ lây nhiễm
HIV của phụ nữ qua việc cưỡng ép tình dục, không cho phụ nữ sử dụng bao cao su,
chồng đi quan hệ "bên ngoài" rồi về lây bệnh cho vợ.
Đồng thời với những hậu quả trực tiếp, BLGĐ còn gây ra những ảnh hưởng
khác tới người phụ nữ, BLGĐ là rào cản, cản trở sự phát triển của phụ nữ. Việc cản
trở này thể hiện ở nhiều góc độ, cản trở trong sự phát triển nhận thức, thăng tiến
trong công việc… Những người phụ nữ thường xuyên bị cô lập sẽ tụt hậu hơn rất
nhiều so với thế giới bên ngoài. Những người phụ nữ thường xuyên làm việc trong
trạng thái căng thẳng, lo sợ thì không thể đạt hiệu quả công việc cao từ đó ảnh
hưởng tới sức lao động, khả năng đóng góp của họ vào xã hội, cũng như cản trở sự
thăng tiến của họ. Như vậy, BLGĐ cản trở sự phát triển của người phụ nữ
Nhìn chung, dù bất cứ một hình thức bạo lực nào cũng đều gây ra cho người
phụ nữ những hậu quả nặng nề. Tình trạng lo sợ, suy sụp, chán nản, xấu hổ là
những biểu hiện của người phụ nữ bị bạo hành, có những người lạm dụng rượu, ma
túy hay có những hành vi không bình thường, bị rối loạn thần kinh và cao nhất là có
16
hành vi tự tử. Bạo lực với người phụ nữ dù với hình thức và mức độ nào cũng để lại
cho người phụ nữ những sự tổn thương.
*BLGĐ ảnh hưởng tiêu cực tới những thành viên khác trong gia đình.
Trước hết, BLGĐ là nguyên nhân chủ yếu của sự tan vỡ gia đình. Theo thống
kê, từ 01/01/2006 đến 31/12/2008 các toà án địa phương trong cả nước đã thụ lý,
giải quyết sơ thẩm cho 352.047 vụ việc thuộc lĩnh vực hôn nhân gia đình, trong đó
có 39.730 vụ ly hôn do BLGĐ, chiếm 51,3% tổng số vụ ly hôn. (Nguồn: Báo Pháp
luật-đời sống, số tháng 5/2009)
BLGĐ gây nên bầu không khí căng thẳng và nguy hiểm cho tất cả thành viên
trong gia đình, làm ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, sức khoẻ thể chất và tinh
thần cũng như sự an toàn cho họ. Dù không là nạn nhân trực tiếp nhưng BLGĐ gây
nên những ảnh hưởng tiêu cực tới những thành viên khác trong gia đình. Thể hiện
rõ nhất là với người cao tuổi, trẻ em-những người yếu thế trong gia đình.
Với trẻ em, những chủ nhân tương lai của gia đình, của xã hội, BLGĐ gây ra
cho các em những ảnh hưởng rõ nét và lâu dài. Trẻ em sống trong gia đình có bạo
lực thường không được chăm sóc đầy đủ về cả thể chất và tinh thần. Sự phát triển
nhận thức, nhân cách không bằng những trẻ sống trong môi trường gia đình bình
thường và được giáo dục đầy đủ. Báo cáo của cuộc điều tra về gia đình Việt Nam
do Bộ Văn Hoá Thể thao và Du lịch kết hợp với UNICEF năm 2008. Có 85% trẻ
khi được hỏi đều cảm thấy buồn, lo lắng khi phải sống trong môi trường bạo lực,
20% trẻ cảm thấy sợ hãi, 5,5% trẻ muốn bỏ nhà đi, 8,5% xa lánh cha mẹ và 4,2%
không còn kính trọng cha mẹ nữa. (Nguồn: Thông tin về bạo lực giới, chuyên san số
1-CSAGA/CMRC-năm 2009-sđd trang 34). Rất nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, trẻ
em nam thường có xu hướng lặp lại hành vi bạo lực của bố khi lớn lên và khi lập
gia đình, còn trẻ em nữ thường nhút nhát hơn so với trẻ em khác do thường xuyên
chứng kiến cảnh mẹ bị đánh đập.
Như vậy, hậu quả của BLGĐ với phụ nữ không chỉ là chuyện giữa hai vợ
chồng, giữa bố và mẹ mà nó ảnh hưởng gián tiếp tới những thành viên khác trong
gia đình.
*Bạo lực gia đình và những hậu quả với xã hội
17
BLGĐ không chỉ là vấn đề của mỗi gia đình mà nó là vấn đề của toàn xã hội.
Bạo hành trong gia đình gây mất trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng tới những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm ra tăng những tệ nạn xã hội.
Đứng dưới góc độ kinh tế, BLGĐ khiến cho cá nhân không thể đóng góp vào
sự phát triển xã hội trong khi chi phí xã hội lại phải chi trả cho những tổn thương
mà BLGĐ gây ra. BLGĐ chất thêm gánh nặng cho hệ thống bảo trợ xã hội. BLGĐ
đặt ra yeu cầu phải xây dựng những cơ sở hỗ trợ cho phụ nữ bị bạo hành như nhà
tạm lánh. Những cơ sở này không chỉ tồn tại một thời gian ngắn mà có tính chất lâu
dài đồng thời phải có những hoạt động chăm sóc, hỗ trợ phục hồ cho họ. Như vây,
rõ ràng là BLGĐ gây thêm gánh nặng cho hệ thống bảo trợ xã hội, với những nước
nghèo và những nước đang phát triển thì đây thực sự là một vấn đề lớn.
Với góc độ xã hội, BLGĐ ảnh hưởng tới những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tình nghĩa vợ chồng, tình cảm gia đình bị phá vỡ; nhân cách, đạo đức con người
bị huỷ hoại. Gia đình là tế bào của xã hội, nếu tế bào không khỏe thì xã hội không
thể nào phát triển tốt đẹp. Bởi vậy việc ngăn chặn BLGĐ không chỉ còn là vấn đề
của mỗi gia đình mà cần thiết phải là hành động chung của cả xã hội nhằm ngăn
chặn những tác động tiêu cực của BLGĐ.
1.1.3. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực gia đình
Phụ nữ bị BLGĐ là một trong những người chịu ảnh hưởng của BLGĐ lớn
nhất. Dù BLGĐ ở bất cứ hình thức nào thì họ cũng bị ảnh hưởng về thể chất, tinh
thần hay xã hội khiến cho họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, trong lao động
và quan hệ xã hội. Những đặc điểm về tâm lý cũng như thể chất của đối tượng luôn
ảnh hưởng đến hoạt động trợ giúp họ.
*Đặc điểm tâm lý
BLGĐ thường để lại những dư âm tới nạn nhân BLGĐ và hậu quả của nó
thường dai dẳng hơn nhiều so với ảnh hưởng về thể chất. Nạn nhân BLGĐ thường
chịu ảnh hưởng tâm lý như cảm giác sợ sệt, lo lắng, đặc biệt với phụ nữ, họ không
chỉ sợ cho bản thân mà còn luôn lo sợ cho tính mạng của con mình.Nạn nhân bị
BLGĐ thường hạ thấp giá trị của mình, cảm thấy như mình có tội lỗi và xấu hổ
trước những người khác.Có những nạn nhân BLGĐ bị tổn thương tâm lý trầm trọng
tới mức họ có những rối loạn tâm lý như trầm uất, hoang tưởng.Họ sẽ trở nên phụ
thuộc nhiều hơn vào người có hành vi BLGĐ và từ đó khiến họ ngày một thụ động,
18
không dám đưa ra ý kiến, đề xuất hay quyết định trong gia đình họ, thậm chí là
không dám nói điều này ra với ai, kể cả những người thân của mình.
Bởi vậy nên việc họ chịu tiếp xúc và cởi mở chia sẻ vấn đề là rất khó. Muốn
trợ giúp các nạn nhân bị bạo hành thì chính bản thân họ phải mong muốn và có nhu
cầu được trợ giúp.
*Đặc điểm thể chất
Những hành vi BLGĐ như đánh đập, ném, sử dụng hung khí để hành hạ khiến
nạn nhân BLGĐ có thể bị giảm khả năng về ăn, ngủ, nghỉ. Bị tổn thương thực thể từ
nhẹ như bầm tím, xây xước, chảy máu. Tới nặng hơn như bị thương tật làm giảm
hoặc mất khả năng lao động thậm chí là tử vong.
Phụ nữ bị ép buộc tình dục còn bị ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản như mang
thai ngoài ý muốn, bị các bệnh hay biến chứng sản khó, bệnh lây nhiễm qua đường
tình dục.
Do có những đặc điểm về thể chất, tâm lý như vậy nên việc tiếp cận, thu thập
thông tin của đối tượng rất khó. Điều này cũng gây ảnh hưởng đến kết quả của quá
trình trợ giúp đối tượng.Nếu đối tượng có nghị lực, hay mạnh dạn thì việc hỗ trợ sẽ
dễ dàng hơn.Nhưng nếu đối tượng ỷ lại, phụ thuộc và thiếu ý chí thì buộc sức làm
việc của NVCTXH phải tăng lên và cũng gây khó khăn cho việc trợ giúp.Tuy nhiên
với nguyên tắc là luôn chấp nhận thân chủ nên dù có gặp trở ngại hay khó khăn
trong việc tiếp cận cũng như trợ giúp thì NVCTXH vẫn luôn phải cố gắng để có thể
hoàn thành nhiệm vụ của mình.Đặc điểm của đối tượng là một yếu tố quan trọng
quyết định đến hoạt động CTXH, sự tích cực của đối tượng sẽ khiến quá trình trợ
giúp suôn sẻ hơn. Qua đó cũng thấy được tầm quan trọng của việc tuyên truyền
nâng cao nhận thức cho phụ nữ bị BLGĐ.
*Nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực gia đình
Abraham Maslow (1908-1970), nhà tâm lý học người Mĩ đã xây dựng học
thuyết phát triển về nhu cầu con người vào những năm 50 của thế kỷ XX.
Hệ thống cấp bậc nhu cầu của Maslow thường được thể hiện dưới dạng một
hình kim tự tháp, các nhu cầu ở bậc thấp (nhu cầu cho sự tồn tại) thì xếp phía dưới,
trong khi những nhu cầu cho sự phát triển, sự hoàn thiện cá nhân được coi là quan
trọng hơn, giá trị hơn, chúng được xếp ở các thang bậc trên cao của kim tự tháp.
19
Nhu cầu thể chất : Đây là những nhu cầu sinh học. Chúng bao gồm nhu cầu
khí thở, thực phẩm, nước, và cơ thể có nhiệt độ tương đối ổn định. Đây là những
nhu cầu mạnh mẽ nhất, bởi vì nếu một người bị tước đoạt tất cả các nhu cầu trên, thì
nhu cầu về thể chất sẽ là cái đầu tiên con người tìm kiếm để sống còn. Tuy nhiên
khi nghiên cứu về những phụ nữ bị bạo lực gia đình họ không được đáp ứng đầy đủ
cả những nhu cầu được cho là cơ bản nhất của con người và kéo theo đó là sự
không được đáp ứng những nhu cầu cao hơn.
Nhu cầu an toàn: Mỗi cá nhân đều mong muốn mình được an toàn, mong
muốn có một cuộc sống bình yên và hạnh phúc. Họ cần cần có cảm giác an toàn về
thân thể, được hưởng các dịch vụ y tế và xã hội. Khi cá nhân cảm thấy bất ổn họ có
thể tìm đến sự an toàn về mặt tinh thần. Đối với phụ nữ là nạn nhân của BLGĐ, đây
chính là nhu cầu hết sức cấp thiết. Khi họ phải chịu những đòn roi, đe dọa, lạm
dụng…từ chính những người thân yêu trong gia đình của mình, họ cần được an toàn
và đảm bảo an toàn. Như vậy, việc giúp đỡ các những phụ nữ bị bạo lực gia đình
vượt qua những khó khăn, những áp lực về tâm lý, giúp họ có được cảm giác an
toàn là một nhu cầu cần được ưu tiên đáp ứng.
Nhu cầu tình cảm,tình thương yêu: Khi nhu cầu về an toàn và sinh học được
đáp ứng, cái nhu cầu kế tiếp tiếp là nhu cầu tình cảm, tình yêu và được nhìn nhận
xuất hiện. Maslow nói rằng con người luôn tìm cách vượt qua cảm giác cô đơn và
xa lánh. Điều này liên quan đến cả tình cảm cho và nhận tình yêu, và ý thức thuộc
về lẫn nhau. Phụ nữ bị BLGĐ là đối tượng chịu nhiều tổn thương về thể chất và tinh
thần, bởi hơn ai hết, họ bị chính những người họ yêu thương bạo hành. Nhân viên
20