Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác khoảng sản ở tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.12 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

PHẠM THỊ NGA

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thái Nguyên - 2012

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thái Nguyên là tỉnh có tiềm năng khoáng sản với trữ lượng lớn. Hiện
có trên 250 mỏ và điểm quặng (trong đó có 176 mỏ, điểm quặng đã được
công bố trong sổ mỏ và trên 74 mỏ, điểm quặng mới phát hiện, đang được
khảo sát, thăm dò đánh giá chất lượng, trữ lượng), gồm 24 loại khoáng sản
rắn, thuộc 05 nhóm: Nhiên liệu khoáng, khoáng sản kim loại, khoáng chất
công nghiệp, khoáng sản làm vật liệu xây dựng và nước khoáng. Trong đó có
một số khoáng sản có trữ lượng lớn như: Wonfram khoảng trên 100 triệu tấn,
Than khoảng 80 triệu tấn, Sắt khoảng 40 triệu tấn, Titan khoảng 8 triệu tấn;
Chì-Kẽm khoảng 0,5 triệu tấn, Đá vôi khoảng 200 triệu tấn). Với nguồn tài
nguyên phong phú, dồi dào, ngành Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng
sản có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho


sự phát triển Kinh tế - xã hội của tỉnh. Tổng giá trị của ngành Công nghiệp
khai thác và chế biến khoáng sản chiếm tỷ trọng đáng kể, khoảng 40% tổng
giá trị sản lượng công nghiệp của toàn tỉnh. Cho đến nay, tỉnh Thái Nguyên
đã hoàn thành quy hoạch khai thác và sử dụng khoáng sản đến năm 2020, làm
cơ sở để phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, luyện kim, vật liệu xây dựng
trở thành mũi nhọn trong phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên diễn ra hết sức phức tạp, thể hiện ở việc cấp giấy phép thăm
dò, khai thác khoáng sản còn nhiều bất cập, chồng chéo, tình trạng thăm dò,
khai thác khoáng sản trái phép, tranh chấp mỏ, tàn phá môi trường đang diễn
ra khá phổ biến.... Một số biện pháp, giải pháp quản lý trong đề án chưa được
thực hiện hoặc thực hiện chậm so với kế hoạch, hiệu quả thấp như: Việc thanh

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

2

tra, kiểm tra công tác công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ở
các đơn vị cấp huyện, xã để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép.
Một thực tế không thể phủ nhận rằng, không dễ dàng kết hợp hài hoà
giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng
một cách hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với nước ta, khi mà nền
kinh tế về cơ bản vẫn phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc khai
thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, nhất là đối với các
nguồn tài nguyên khoáng sản không tái tạo là một nhân tố quan trọng góp
phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước nói
chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Xác định được tầm quan trọng của tài
nguyên khoáng sản, vấn đề quản lý và khai thác khoáng sản là một trong

những vấn đề quan trọng, cấp bách hiện nay, nếu quản lý và khai thác một cách có
hiệu quả sẽ góp phần vào mục tiêu chung là xây dựng và phát triển đất nước.
Xuất phát từ thực tế khách quan đó, tôi lựa chọn đề tài: “Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh
Thái Nguyên".
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài thực hiện nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác
khoáng sản trên địa bản tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống cơ sở lý luận về tài nguyên khoáng sản, quản lý hoạt động
khoáng sản và hiệu quả hoạt động khoáng sản. Trên cơ sở tham khảo thực tiễn
hoạt động quản lý khoáng sản của các nước trên thế giới để đúc rút bài học
kinh nghiệm quản lý hoạt động khoáng sản cho tỉnh Thái Nguyên.
- Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

3

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và khai
thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
công tác quản lý Nhà nước về khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên trong tình hình hiện nay.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản trên địa bản tỉnh Thái Nguyện
trong tình hình hiện nay.
- Địa bản nghiên cứu: Luận văn lựa chọn địa bàn nghiên cứu trên toàn
tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: 4 năm (2008 – 2011)
4. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1 – Tổng quan quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản
Chương 2 – Phương pháp nghiên cứu
Chương 3 – Thực trạng công tác quản lý nhà nước về khai thác khoáng
sản của tỉnh Thái Nguyên
Chương 4 – Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
1.1. Quản lý nhà nƣớc về khai thác khoáng sản
1.1.1. Khái niệm về tài nguyên khoáng sản
a. Tài nguyên
Theo nghĩa rộng tài nguyên gồm tất cả các nguồn vật liệu, năng lượng,
thông tin có trên Trái đất và trong vũ trụ mà con người có thể sử dụng phục
vụ cuộc sống và sự phát triển của nhân loại.

Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai, được
hình thành, tồn tại trong tự nhiên và tất cả những gì thuộc về thiên nhiên mà
con người có thể khai thác, sử dụng thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của
mình.
Tài nguyên thường được phân thành tài nguyên thiên nhiên gắn liên với
các nhân tố thiên nhiên và tài nguyên con người gắn liên với nhân tố con
người và xã hội. Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất hữu dụng phục vụ cho
sự tồn tại và phát triển cuộc sống con người và thế giới động vật. Tài nguyên
thiên nhiên là một phần của các thành phần môi trường như rừng cây, đất đai,
nguồn nước, khoáng sản, cùng tất cả các loài động thực vật khác.
Tài nguyên thiên gồm: Tài nguyên vĩnh viễn như năng lượng mặt trời,
đây là một nguồn đến từ nguồn chính không bao giờ hết; Tài nguyên không
phục hồi tồn tại trong kho dự trữ được xác định trong những chỗ thay đổi
trong vỏ trái đất mà mỗi loài được cung cấp cho quá trình tự nhiên hoặc được
cung cấp rất lâu mà chúng được dùng. Theo quan điểm kinh tế, các tài nguyên
trên được xem như cạn kiệt nếu khai thác không hợp lý; Tài nguyên có thể
phục hồi là nguyên tài nguyên có thể cạn kiệt trong thời gian ngắn nếu được
sử dụng nhưng sẽ được thay thế qua một quá trình lâu dài [9].

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

5

Theo bản chất tự nhiên thì tài nguyên bao gồm:
Tài nguyên khoáng sản: là nguồn liệu tự nhiên có nguồn gốc vô cơ hoặc
hữu cơ và phần lớn nằm trong lòng đất. Quá trình hình thành loại tài nguyên
này có liên quan mật thiết đến lịch sử phát triển của vỏ trái đất trong một thời
gian dài hàng nghìn năm, có khi hàng trăm triệu năm.

Tài nguyên năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ hai
nguồn chủ yếu là năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất. Năng lượng
mặt trời tồn tại ở dạng chính là bức xạ mặt trời, năng lượng sinh học, năng
lượng chuyển động của khí quyển và thủy quyển, năng lượng hóa thạch; Năng
lượng lòng đất biểu hiện ở các nguồn địa nhiệt, lửa và năng lượng phóng xạ.
Tài nguyên đất là một hỗn hợp phức tạp bao gồm các hợp chất vô cơ,
các mảnh vụn hữu cơ đã và đang bị phân ra, nước, không khí và vô số các vi
sinh vật đang sinh sống trong đó. Đồng thời, đất còn là môi trường sống của
con người và hầu hết sinh vật trên cạn, là nền móng cho toàn bộ các công
trình xây dựng phục vụ hoạt động kinh tế và xã hội.
Tài nguyên nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tất cả các
sinh vật trên trái đất. Nước là nguồn cung cấp thực phẩm và nguyên liệu công
nghiệp. Nước rất cần cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, cho sinh hoạt
của con người. Nước còn được coi là một khoáng sản đặc biệt vì nó tàng trữ
một nguồn năng lượng lớn và lại hòa tan nhiều vật chất có thể khai thác phục
vụ cho nhu cầu nhiều mặt của con người.
Tài nguyên rừng là một hệ sinh thái phong phú nhất có trên mặt đất. Ở
đó, các loài thực vật đóng vai trò như một nhà máy khổng lồ cung cấp các
chất hữu cơ, cung cấp oxy và điều hòa khí hậu. Rừng cò là một guồng máy tự
điều chỉnh lưu lượng nước rất hiệu quả trên trái đất. Như vậy, rừng có ý nghĩa
trong sự phát triển kinh tế xã hội, sinh thái và môi trường.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

6

Tài nguyên biển là một tài nguyên vô tận mà trời phú cho con người.
Các nguồn lợi hải sản quan trọng phải kể đến là cá, tôm, cua, rong biển...

Tài nguyên khí hậu, cảnh quan bao gồm các yếu tố về thời tiết, khí hậu
và địa hình cảnh quan. Địa hình cảnh quan là một dạng tài nguyên mới với đất
đại, rừng xanh, động thực vật, nước và không khí hợp thành nguồn tài nguyên
môi trường thống nhất. Nó không những là nền tảng để phát triển công nghiệp
du lịch mà còn đem lại sự hưởng thụ về tinh thần và tâm lí cho con người, duy
trì trạng thái cân bằng, cung cấp nguồn nguyên liệu sản xuất. [10]
b. Khoáng sản
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: “Khoáng sản là những
thành tạo khoáng vật trong vỏ trái đất có thể sử dụng trong nền kinh tế quốc
dân”. [20].
Luật Khoáng sản năm 2010 quy định: “Khoáng sản là khoáng vật,
khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại
trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải
của mỏ”. [6].
Khoáng sản cũng có thể được hiểu là nguồn nguyên liệu tự nhiên có
trong nguồn gốc vô cơ hoặc hữu cơ, tuyệt đại bộ phận nằm trong lòng trái đất
và quá trình hình thành có liên quan mật thiết đến quá trình lịch sử phát triển
của vỏ trái đất trong thời gian dài từ hàng ngàn năm đến hàng chục năm, hàng
triệu năm. [4].
Như vậy, dù được hiểu bằng khái niệm nào thì khoáng sản đều là tích tụ
vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất trong vỏ trái đất mà ở trong đó
điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra các nguyên tố có ích, sử
dụng trực tiếp chúng phục vụ nền kinh tế quốc dân hoặc trong đời sống hàng
ngày.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

7


Khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể khai thác
lại cũng là khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một
khu vực gọi là mỏ khoáng sản.
Khoáng sản có ý nghĩa rất lớn và quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương và mỗi vùng. Khoáng sản là
nguồn vật chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải cho con người.
Khoáng sản được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
Theo nguồn gốc có khoáng sản nội sinh (sinh ra trong lòng đất) và
khoáng sản ngoại sinh (sinh ra trên bề mặt trái đất).
Theo dạng tồn tại thì có khoáng sản rắn, khoáng sản lỏng và khoáng sản khí.
Theo thành phần hóa học có khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim
và khoáng sản cháy.
Trong hoạt động khoáng sản có hai hoạt động chính là thăm dò khoáng
sản và hoạt động khai thác khoáng sản.
Thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng
khoáng sản và các thông tin khác phục vụ khai thác khoáng sản.
Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản bao gồm:
xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có
liên quan.
Khai thác tận thu khoáng sản là hoạt động khai thác khoáng sản còn lại
ở bãi thải của mỏ đã có quyết định đóng cửa.
c. Đặc điểm về tài nguyên khoáng sản Việt Nam
Hiện nay, các nhà địa chất đã phát hiện trên đất nước ta có gần 5.000
mỏ và điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Những loại khoáng
sản trữ lượng lớn đáng kể là dầu khí (tính về sản lượng khai thác hàng năm,
Việt Nam đứng thứ ba ở Đông Nam Á sau Indonesia và Malaisia), than
khoáng, urani, địa nhiệt, quặng nhôm, đất hiếm, titan, wolfram, crôm, sắt,

Số hóa bởi trung tâm học liệu


/>

8

mangan, đồng, vàng, bạc, nickel, thiếc... Ngoài các loại khoáng sản kể trên, từ
năm 1987 nước ta đã phát hiện nhóm đã quý ruby, saphia, peridot... với trữ
lượng không lớn. Riêng ruby ở Yên Bái và Nghệ An được thế giới đánh giá
có chất lượng cao đạt chất lượng quốc tế, tương đương với ruby nổi tiếng của
Myanmar [19]
Nếu so sánh tiềm năng khoáng sản Việt Nam với các nước trong khu
vực Đông Nam Á và trên thế giới thì có thể xếp nước ta vào hàng các nước có
tiềm năng khoáng sản đáng kể.
Đặc điểm đáng chú ý về tài nguyên khoáng sản của nước ta: Thứ nhất,
Nước ta không có tiềm năng lớn về các khoáng sản năng lượng. Dầu khí chỉ
đảm bảo khai thác được khoảng 30 năm nữa, do vậy cần tăng cường tìm kiếm
thăm dò. Than biến chất cao với trữ lượng đã được đánh giá đạt hàng tỷ tấn
cần phải khai thác sâu hàng trăm mét và hơn nữa mới bảo đảm nhu cầu phát
triển kinh tế của đất nước. Than biến chất thấp ở dưới sâu đồng bằng Sông
Hồng tuy dự báo có tài nguyên đến vài trăm tỷ tấn nhưng độ sâu hàng ngàn
mét dưới lòng đất, điều kiện khai thác cực kỳ khó khăn và phức tạp cả về
công nghệ, an ninh xã hội và môi trường. Tiềm nang Urani và địa nhiệt không
đáng kể và chưa được thăm dò để đánh giá trữ lượng cụ thể. Thứ hai, Nước ta
có nhiều khoáng kim loại nhưng trữ lượng không nhiều. Rất nhiều khoáng sản
kim loại (vàng, bạc, đồng, thiếc, kẽm, chì...) thế giới rất cần trong khi trữ
lượng lại có hạn, chỉ khai thác mấy chục năm là cạn kiệt nên không đảm bảo
tiêu dùng trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế. Một số ít khoáng sản như
Bauxit, đất hiếm, ilmenit có trữ lượng lớn nhưng các khoáng sản này trên thế
giới các quốc gia khác cũng có trữ lượng tương đương hoặc lớn hơn nước ta.
Trữ lượng Bauxit trên thế giới là 27 tỉ tấn với sản lượng khai thác hàng năm

khoảng 200 triệu tấn. Đất hiếm trên thế giới đạt 99 triệu tấn, nhu cầu hàng
năm chỉ khoảng 125.000 tấn. Trữ lượng Titan trên thế giới đạt hơn 2 tỷ tấn,

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

9

hàng năm thế giới tiêu thụ hơn 6 triệu tấn titan và dự báo khoảng 128 năm
nữa thế giới sẽ khai thác hết. Thứ ba, Nước ta có nhiều khoáng chất công
nghiệp và vật liệu xây dựng phục vụ tốt cho phát triển kinh tế đất nước và có
thể xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này không có giá trị kinh tế cao.
Thứ tư, Các loại khoáng sản quý có giá trị kinh tế cao như đá quý, ruby, kim
cương...chưa xác định rõ trữ lượng, các loại đá quý khác cũng chưa được
khảo sát và phát hiện.
Tóm lại, nước ta có nhiều khoáng sản nhưng trữ lượng hầu hết chưa đủ
lớn. Một số khoáng sản như Bauxit, đất hiếm, ilmenit có trữ lượng tầm cỡ thế
giới nhưng trên thế giới nhiều quốc gia cũng có những loại khoáng sản này. Điều
đó có nghĩa là loại khoáng sản thế giới cần nhiều thì trữ lượng của nước ta lại
nhỏ, loại khoáng sản nước ta có nhiều thì thế giới lại không cần nhiều hoặc
không có nhu cầu. Điều này cần phải quan tâm nghiên cứu đánh giá khách quan
để xác định chiến lược lược sử dụng tài nguyên khoáng sản đúng đắn, hợp lý,
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [19].
1.1.2. Vai trò của tài nguyên khoáng sản trong phát triển kinh tế - xã hội
Tài nguyên khoáng sản là một yếu tố nguồn lực quan trọng của quá
trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên, đất
đai thì sẽ không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy
nhiên, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là
điều kiện cần và đủ. Trên thực tế, nếu công nghệ là cố định thì lưu lượng tài

nguyên sẽ là mức hạn chế tuyệt đối về sản xuất vật chất trong ngành công
nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên liệu đầu vào như nhôm, thép... Tài
nguyên khoáng sản chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi biết khai thác và sử
dụng một cách hiệu quả. Thực tế đã có nhiều quốc gia mặc dù có trữ lượng tài
nguyên phong phú, đa dạng, điều kiện thuận lợi song vẫn là nước ngoài và

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>

10

kém phát triển. Ngược lại nhiều quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản nhưng
lại trở thành nước phát triển như Nhật Bản, Anh, Pháp...
Có thể nói, tài nguyên thiên nhiên khoáng sản là yếu tố thúc đẩy sản
xuất phát triển, các nước đang phát triển thường quan tâm đến việc xuất khẩu
sản phẩm thô, đó những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài
nguyên thiên nhiên của đất nước, chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng là cơ sở để phát triển các ngành sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng,
công nghiệp vật liệu xây dựng...
Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định.
Đối với hầu hết các nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian
khổ liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi về tài nguyên thiên
nhiên nên có thể rút ngắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản
phẩm thô để bán hoặc để đa dạng nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu
cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Như trên chúng ta thấy, nguồn tài
nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai thác,
công nghiệp chế biến và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế khác,

góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Sự giàu có về tài nguyên,
đặc biệt về năng lược giúp cho một quốc gia ít lệ thuộc hơn vào các quốc gia
khác và có thể tăng trưởng một cách ổn định, độc lập khi thị trường tài
nguyên thế giới rơi vào tình thái bất ổn [20].
1.1.3. Quản lý Nhà nước về khai thác khoáng sản [8], [14]
1.1.3.1. Sự hình thành và phát triển của luật khoáng sản
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân được Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9/11/1946, đây là đạo luật
cơ bản của Nhà nước, đạo luật gốc làm cơ sở cho việc ban hành các đạo luật

Số hóa bởi trung tâm học liệu

/>


×