Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HIỆU QUẢ sử DỤNG đất NÔNG NGHIỆP ở TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.18 KB, 102 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chính trị Quốc gia
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hiệu quả sử dụng đất
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Khoa học, kỹ thuật - công nghệ
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
CTQG
CNH, HĐH
HQSDĐ
HĐND
HTX
KH,KT-CN
KT-XH
Nxb
UBND

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT


1.1.
1.2.

NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH NAM ĐỊNH
Nông nghiệp và đất sử dụng trong nông nghiệp
Quan niệm, tiêu chí đánh giá và những nhân tố tác động

11
11

đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Nam Định

18


Chương 2

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
30

2.1.

NGHIỆP Ở TỈNH NAM ĐỊNH
Tổng quan về tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở

30

2.2.

tỉnh Nam Định

Thành tựu, hạn chế về hiệu quả sử dụng đất nông

33

2.3.

nghiệp ở tỉnh Nam Định
Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực trạng hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Nam Định cần

54

Chương 3

phải giải quyết
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

63

3.1.

SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH NAM ĐỊNH
Quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở

63

3.2.

tỉnh Nam Định
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở

tỉnh Nam Định

70
85
87
92

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng là nguồn tài nguyên vô
cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt để tạo ra lương thực, thực phẩm
cung cấp cho đời sống của con người, nguồn thức ăn cho chăn nuôi; cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Song,
trước sức ép của gia tăng dân số, sự phát triển công nghiệp, đô thị hóa và xây
dựng cơ sở hạ tầng làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị giảm dần.
Thực tế cho thấy, việc khai thác quá mức các vùng đất đai màu mỡ, thậm chí
phải sử dụng cả những vùng đất không thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu về
lương thực, thực phẩm và các hoạt động khác làm cho tài nguyên đất ngày
càng bị suy giảm về số lượng và chất lượng. Đồng thời, đất đai đã và đang
chịu tác động ô nhiễm, thoái hóa và hủy hoại của con người, khó có khả năng
khôi phục, nhiều nơi đã mất khả năng sản xuất.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định nông
nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề mang tính chiến lược cơ bản, lâu dài
trong hoạch định, tổ chức thực hiện các chính sách vĩ mô, các chương trình,
dự án phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Quán triệt đường lối, quan

điểm của Đảng, những năm qua, ở Nam Định phong trào chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi đã góp phần nâng cao HQSDĐ nông nghiệp. Nhiều mô
hình sản xuất tập trung đem lại hiệu quả kinh tế cao được hình thành và nhân
rộng như: các vùng nuôi trồng thủy sản, vùng lúa nhân dân, vùng chuyên
trồng rau màu, vùng trồng cây lâu năm... đã góp phần tạo việc làm, nâng cao
thu nhập cho lao động nông thôn. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của Nam
Định còn một số hạn chế đó là, diện tích đất nông nghiệp bình quân thấp, quy
mô nhỏ, sản xuất còn thủ công, cơ sở hạ tầng còn chưa đồng bộ. Trong sản
xuất nông nghiệp còn chưa gắn kết giữa sản xuất với thị trường, cảnh quan
môi trường dễ bị phá vỡ... Vì vậy, cần phải có những nghiên cứu cụ thể cho
3


từng vùng nhằm tìm ra tính hợp lý, hiệu quả phù hợp với môi trường phát
triển KT-XH, giúp tỉnh có hướng đi đúng trong phát triển nền kinh tế nông
nghiệp bền vững là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở
tỉnh Nam Định” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về nông nghiệp, về đất và
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trong phát triển KT-XH ở các góc
độ tiếp cận và phạm vi khác nhau. Song, liên quan trực tiếp đến đề tài luận
văn có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn
- Trần Xuân Châu (2002), Đẩy nhanh phát triển nông nghiệp hàng
hoá ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia. Đề tài nghiên cứu trên đã đề cập và luận giải một cách tương đối có hệ
thống vai trò của sản xuất nông nghiệp, người nông dân và kinh tế nông thôn
trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và phát triển KT-XH, củng cố quốc
phòng, an ninh đất nước. Đề tài đi sâu vào việc phân tích sự vận động, biến

đổi sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn dưới góc độ quan hệ sản xuất
hoặc lực lượng sản xuất. Đồng thời, đề tài cũng đề cập đến chính sách vĩ mô
liên quan đến quyền sử dụng, quản lý đất nông nghiệp, tập trung ruộng đất;
đào tạo phát triển nguồn nhân lực, huy động và sử dụng vốn, liên kết hợp tác
trong sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn… Nhiều kiến nghị
do tác giả luận án tiến sĩ đề xuất đã được nghiên cứu, sử dụng làm luận cứ
khoa học cho việc hoạch định chính sách KT-XH ở các cấp, các ngành, địa
phương khác nhau.
- Vũ Văn Phúc (2003), Đổi mới hợp tác xã và nhu cầu hợp tác của
người lao động hiện nay ở nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Sách tham khảo trên đã đi sâu phân tích mô hình tổ chức kinh tế nông
4


nghiệp và sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới các chính sách KT-XH; đặc biệt
là chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, kinh tế nông thôn và đời sống người nông dân phát triển ổn định, bền
vững. Bên cạnh đó, tác giả của công trình trên cũng chỉ ra được những tồn tại,
yếu kém; những khó khăn trở ngại của nông nghiệp nước ta trong điều kiện
mở cửa, hội nhập, phát triển kinh tế thị trường. Trên cở sở đó, tác giả đã đưa
ra đề xuất có tính then chốt nhằm nâng cao HQSDĐ, phát triển nền nông
nghiệp mang tính hàng hóa lớn, bền vững.
- Nguyễn Ngọc Bình (2007), Đất và những kiến thức sử dụng đất cho
nông dân, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. Trong công trình khoa học này, tác giả
Nguyễn Ngọc Bình đã trình bày những kiến thức cơ bản về đất, như: khái niệm
về đất, các thành phần cấu tạo và tính chất của đất. Trên cơ sở đó, tác giả đã
cung cấp những kiến thức cơ bản để sử dụng đất có hiệu quả và bền vững, như:
phải phân loại đất thích hợp với từng loại cây trồng; áp dụng các biện pháp kỹ
thuật canh tác. Tác giả cũng đã trình bày các biện pháp để độ phì nhiêu của đất
được bảo toàn và bền vững cả về kinh tế, xã hội. Cuốn sách này giúp chúng ta

hiểu sâu hơn về đất, làm cơ sở cho việc lựa chọn cây trồng phù hợp với từng loại
hình đất, biết cách cải tạo đất để nâng cao độ phì của đất, thiết thực góp phần
nâng cao HQSD đất nông nghiệp.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về đất nông nghiệp và hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp
- Đào Thế Anh (2004), Nghiên cứu thực tiễn và đề xuất chính sách
khuyến khích dồn điền đổi thửa nâng cao hiệu quả sử dụng đất ở Đồng bằng
sông Hồng, Nxb nông nghiệp, Hà Nội. Tác giả cho rằng: Đất đai là nguồn tài
nguyên, tài sản quan trọng của quốc gia, do đó, việc phân bổ, sử dụng phải hết
sức hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích cả trước mắt và lâu dài,
bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước là
vấn đề xuyên suốt trong hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
5


nước ta. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng chỉ rõ công tác quản lý, sử dụng tài
nguyên, đất đai vẫn còn những yếu kém, lãng phí, bất cập, nhất là tình trạng vi
phạm pháp luật trong khai thác tài nguyên khoáng sản nên phải nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất.
- Vũ Thị Bình và Quyền Đình Hà (2003), “Thực trạng công tác chuyển
đổi ruộng đất và hiệu quả sử dụng đất của nông hộ ở một số địa phương vùng
Đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Khoa học đất số 18, 2003. Từ thực trạng
công tác chuyển đổi ruộng đất ở một số địa phương vùng Đồng bằng sông
Hồng, tác giả đề xuất các giải pháp giúp người lao động đầu tư thâm canh,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến kỹ thuật. Thực
hiện cơ giới hoá nông nghiệp để giải phóng sức lao động, điều chỉnh lao động
nông nghiệp sang làm thủ công nghiệp và dịch vụ khác. Từng bước hoàn
chỉnh và hình thành các trang trại nông nghiệp trên cơ sở tích tụ ruộng đất.
- Vũ Thị Bình (2004), Tác động của việc chuyển đổi ruộng đất tới công
tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở một số địa phương vùng Đồng bằng

sông Hồng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học và quản lý đất đai và thị trường bất
động sản, thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2004. Công tác quản lý và sử
dụng đất nông nghiệp dưới tác động của việc chuyển đổi ruộng đất là vấn đề
trọng tâm được hội thảo bàn luận. Dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu, tác
giả đã luận giải sâu sắc việc chuyển đổi ruộng đất và tác động của nó tới công
tác quản lý cũng như sử dụng đất nông nghiệp đến hệ thống giao thông thuỷ
lợi nội đồng, cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp và tác động của
nó đến sự hình thành các trang trại sản xuất nông nghiệp ở một số địa
phương vùng Đồng bằng sông Hồng.
- Nguyễn Đình Bộ (2010), Đánh giá thực trạng sử dụng đất và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng bền
vững ở tỉnh Hải Dương, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp
6


Hà Nội. Công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vai trò đặc biệt quan trọng
của đất đai; thực trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở một số địa
phương. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý, sử
dụng tài nguyên đất hiệu quả nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp bền
vững. Tập trung làm rõ một số vấn đề về HQSDĐ và đánh giá HQSDĐ nông
nghiệp. Trong đó, đáng chú ý là tác giả đã nêu lên những đặc điểm và
phương pháp đánh giá HQSDĐ nông nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng và hệ
thống các tiêu chí đánh giá HQSDĐ nông nghiệp. Phần đánh giá thực trạng,
tác giả đã phân tích khá chi tiết về hiệu quả kinh tế và xã hội đối với từng
loại hình đất, từng vùng sản xuất. Trên cơ sở đó, tác giả nêu ra một số quan
điểm, định hướng và giải pháp để nâng cao HQSDĐ nông nghiệp. Theo tác
giả, quan điểm sử dụng đất nông nghiệp phải theo hướng đa dạng hóa sản
phẩm, phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Hệ thống giải pháp phải
được tiến hành đồng bộ, trong đó cần quan tâm giải pháp về nguồn nhân lực,
các chính sách tác động đến HQSDĐ, giải pháp về vốn, thị trường sản phẩm,

chuyển giao khoa học - công nghệ, đầu tư, hạ tầng cơ sở.
Mặc dù các luận văn, luận án nói trên không trực tiếp nghiên cứu các
vấn đề về HQSDĐ nông nghiệp ở tỉnh Nam Định, nhưng đã cung cấp cho tác
giả luận những kiến thức chung về đất nông nghiệp, về hiệu quả nói chung,
hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp nói riêng và về các giải pháp nhằm
nâng cao HQSDĐ nông nghiệp. Vì vậy, đây là các tài liệu tham khảo rất có
giá trị đối với tác giả luận văn. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu của tác giả luận
văn không trùng lặp với các luận văn, luận án đã công bố.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp ở tỉnh Nam Định
Lâm Minh Cừ (2008), Tác động của chính sách đất đai đến việc sử
dụng đất nông nghiệp và đề xuất phương án sử dụng đất nông nghiệp đến
7


năm 2015 tại tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Trường Đại học
Nông nghiệp, Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả Lâm Minh
Cừ tập trung làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về các chính sách đất đai tác
động đến việc sử dụng đất nông nghiệp; từ đó giải quyết vấn đề cần quan tâm
hàng đầu là nâng cao HQSDĐ nông nghiệp. Tác giả đã phân tích thực trạng
chính sách đất nông nghiệp của tỉnh Nam Định; chỉ ra những vấn đề nảy sinh
trong quá trình thực hiện chính sách đất nông nghiệp hiện nay cần quan tâm
tập trung giải quyết; đề xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ
yếu để sử dụng đất nông nghiệp đạt hiệu quả cao nhất. Trong đó, vấn đề đất
nông nghiệp được chuyển đổi phù hợp với mục đích của người sản xuất, phù
hợp với thị trường và điều kiện sinh thái cụ thể từng địa phương là vấn đề
quan tâm hàng đầu để góp phần tăng sản lượng lương thực. Tác giả cũng đưa
ra kiến nghị nhà nước cần tiếp tục đổi mới chính sách ruộng đất, tạo điều kiện
cho việc sử dụng đất ngày càng hiệu quả hơn và có chính sách cho nông dân
vay vốn để phát triển sản xuất.

Nguyễn Đức Mạnh (2011), Đánh giá hiệu quả và định hướng sử dụng
đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa huyện Trực Ninh, tỉnh Nam
Định, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội;
Trần Thị Mận (2011), Đánh giá thực trạng và định hướng sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ nông
nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội; Phạm Thị Phin (2012), Nghiên
cứu sử dụng bền vững đất nông nghiệp huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định,
Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội; Phạm Anh
Tuấn (2014), Đáng giá tiềm năng đất đai và đề xuất giải pháp sử dụng đất
nông nghiệp bền vững huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, Luận án Tiến sĩ,
Trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội. Các tác giả của luận văn, luận án trên đã
làm rõ cơ sở lý luận chung về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng,
8


cũng như HQSDĐ nông nghiệp trên địa bàn các huyện của tỉnh Nam Định,
đánh giá thực trạng hiệu quả KT-XH của đất đai. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa
ra quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm nâng cao HQSDĐ nông nghiệp
bền vững trên địa bàn các huyện của tỉnh Nam Định.
Một số nội dung đề cập đến vấn đề giao đất, sử dụng đất... nhưng chưa
có công trình nào đề cập đến vấn đề HQSDĐ nông nghiệp ở tỉnh Nam Định
tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về HQSDĐ nông nghiệp ở tỉnh
Nam Định; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao HQSDĐ
nông nghiệp ở Tỉnh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải một số vấn đề chung về đất nông nghiệp và HQSDĐ nông
nghiệp; quan niệm, tiêu chí và các yếu tố chi phối đến sử dụng đất nông

nghiệp trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Phân tích thực trạng HQSDĐ nông nghiệp ở tỉnh Nam Định thời gian
qua, xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao HQSDĐ nông nghiệp ở tỉnh
Nam Định thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp dưới góc độ Kinh tế Chính trị
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu HQSDĐ nông
nghiệp ở tỉnh Nam Định, với chủ thể sử dụng đất là người được giao quyền sử
dụng đất nông nghiệp; có tính đến chủ thể sở hữu nhà nước và đại diện chủ sở
9


hữu đất là HĐND, UBND các cấp ở tỉnh Nam Định khi bàn những nhân tố tác
động và giải pháp nâng cao HQSDĐ nông nghiệp.
- Phạm vi về không gian: Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Nam Định
- Phạm vi về thời gian: Thời gian từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Tác giả đứng trên lập trường duy vật để luận
giải cơ sở lý luận sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp và đánh giá, xem xét các
hiện tượng, các vấn đề thực tiễn của quá trình sử dụng hiệu quả đất nông
nghiệp ở tỉnh Nam Định.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế
chính trị Mác-Lênin (trừu tượng hóa khoa học) làm phương pháp nghiên
cứu chủ đạo. Kết hợp với các phương pháp khác như thu thập số liệu,

thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và phương pháp chuyên gia để thực
hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định
những chính sách, biện pháp nâng cao HQSDĐ nông nghiệp của tỉnh Nam
Định và một số địa phương khác có đặc điểm tương đồng với Nam Định.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ nghiên cứu giảng dạy ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH NAM ĐỊNH
1.1. Nông nghiệp và đất sử dụng trong nông nghiệp
1.1.1. Nông nghiệp và đặc điểm của nông nghiệp
* Nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp
trong nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế đơn
thuần, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng
sinh học - cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo quy luật sinh học nhất định
con người không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong
của chúng, mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật để có những giải
pháp tác động thích hợp với chúng. Mặt khác, quan trọng hơn là phải làm cho
người sản xuất có sự quan tâm thỏa đáng lợi ích của họ với sử dụng quá trình
sinh học đó nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng hơn.

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số
nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có
ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn
nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và
ngành thủy sản.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Trong nông nghiệp cũng có hai loại chính là nông nghiệp thuần
nông và nông nghiệp chuyên sâu. Nông nghiệp thuần nông (nông nghiệp
sinh nhai) là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có đầu vào hạn chế, sản phẩm
đầu ra chủ yếu phục vụ cho chính gia đình của mỗi người nông dân,
11


không có sự cơ giới hóa trong nông nghiệp sinh nhai. Nông nghiệp
chuyên sâu là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được chuyên môn hóa trong
tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, gồm cả việc sử dụng máy móc trong
trồng trọt, chăn nuôi, hoặc trong quá trình chế biến sản phẩm nông
nghiệp. Nông nghiệp chuyên sâu có nguồn đầu vào sản xuất lớn, bao gồm
cả việc sử dụng hóa chất diệt sâu, diệt cỏ, phân bón, chọn lọc, lai tạo
giống, nghiên cứu các giống mới và mức độ cơ giới hóa cao. Sản phẩm
đầu ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại, làm hàng hóa bán ra trên
thị trường hay xuất khẩu.
Ngành nông nghiệp có hai nhiệm vụ lớn là trực tiếp đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia và đảm bảo tối đa nguyên liệu cho công nghiệp, tăng
khối lượng nông sản cho xuất khẩu. Xã hội càng phát triển, đời sống của con
người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực,
thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.
Thực tiễn lịch sử cho thấy chỉ có thể phát triển kinh tế một cách nhanh

chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh lương thực. Nếu không đảm bảo
an ninh lương thực thì khó có sự ổn định và thiếu cơ sở đảm bảo cho sự phát
triển kinh tế.
Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu
vào cho công nghiệp và khu vực thành thị; là thị trường tiêu thụ lớn của công
nghiệp; là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn; có vai trò to lớn, là cơ
sở trong sự phát triển bền vững của môi trường. Tóm lại, trong nền kinh tế thị
trường, vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển bao gồm hai loại đóng
góp. Đó là, thị trường - cung cấp sản phẩm cho thị trường trong và ngoài
nước, sản phẩm tiêu dùng cho các khu vực khác; thứ hai là sự đóng góp về
nhân tố diễn ra khi có sự chuyển dịch các nguồn lực (lao động, vốn…) từ
nông nghiệp sang khu vực khác.
12


* Đặc điểm của nông nghiệp
Một là, sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn,
phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt.
Đặc điểm trên cho thấy ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu mỗi
vùng khác nhau; lịch sử hình thành, quá trình khai phá và sử dụng các loại đất
cũng khác nhau thì ở đó diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không giống
nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng…
trên từng địa bàn gắn rất chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử dụng đất. Do
điều kiện đất đai, khí hậu không giống nhau giữa các vùng đã làm cho nông
nghiệp mang tính khu vực rất rõ nét. Vì vậy, quá trình chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp cần phải chú ý các vấn đề kinh tế, kỹ thật như: Tiến hành điều tra để
qui hoạch bố trí sản xuất các cây trồng, vật nuôi cho phù hợp; xây dựng
phương hướng sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật phải phù hợp với
đặc điểm và yêu cầu sản xuất nông nghiệp; hệ thống các chính sách kinh tế

phù hợp với điều kiện từng vùng, từng khu vực nhất định.
Hai là, trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không
thể thay thế được.
Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất. Trong nông
nghiệp, đất đai có nội dung kinh tế khác, nó là tư liệu sản xuất chủ yếu không
thể thay thế được. Ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích, con người không thể
tăng thêm theo ý muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất ruộng đất là chưa có giới
hạn, nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất nhằm thỏa
mãn nhu cầu tăng lên của loài người về nông sản phẩm. Chính vì thế trong quá
trình sử dụng phải biết quí trọng ruộng đất, sử dụng tiết kiệm, hạn chế việc
chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng cơ bản, tìm mọi biện pháp để cải tạo và
bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản
phẩm trên mỗi đơn vị diện tích với chi phí thấp nhất trên đơn vị sản phẩm.
13


Ba là, đối tượng sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống - cây trồng và vật nuôi.
Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo qui luật sinh học nhất
định. Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện
thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật
nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng và vật nuôi với tư
cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong nông nghiệp bằng cách
sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất sau. Để chất lượng
giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, bồi
dưỡng các giống hiện có, nhập nội những giống tốt, tiến hành lai tạo để tạo ra
những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt thích hợp với điều kiện
từng vùng và từng địa phương.
Bốn là, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Đây là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì một
mặt quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình tái sản xuất kinh tế xoắn xuýt

với quá trình sản xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen
kẽ vào nhau, song lại không hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ
cao trong nông nghiệp. Mặt khác, do sự biến thiên về điều kiện thời tiết, khí
hậu, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với điều kiện đó, dẫn đến
những vụ mùa khác nhau. Như vậy, tính thời vụ có tác động rất quan trọng
đối với nông dân. Tạo hóa đã cung cấp nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu cho
nông nghiệp, như: ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, không khí…. Lợi thế tự nhiên
đã ưu đãi rất lớn cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản xuất ra
những nông sản với chi phí thấp, chất lượng. Để khai thác và lợi dụng nhiều
nhất tặng vật của thiên nhiên đối với nông nghiệp đòi hỏi phải thực hiện
nghiêm khắc những khâu công việc ở thời vụ nhất như thời vụ gieo trồng, bón
phân, làm cỏ, tưới tiêu… Việc thực hiện kịp thời mùa vụ cũng dẫn đến tình
trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao động hợp
lý, cung ứng vật tư - kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc, phát triển
ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn.
14


1.1.2. Sử dụng đất trong nông nghiệp
Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản
xuất chủ yếu và đặc biệt của sản xuất nông nghiệp, là một trong những yếu tố
quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam
cho rằng “Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc
được” và đất được hiểu theo nghĩa rộng như sau: “Đất đai là một diện tích cụ
thể của bề mặt trái đất bao gồm các cấu thành của môi trường sinh thái ngay
bên trên và dưới bề mặt đó như: khí hậu thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình, mặt
nước (hồ, sông suối…), các dạng trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và
khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật, trạng thái định cư của con người,
những kết quả nghiên cứu trong quá khứ và hiện tại để lại” [39, tr.16].

Theo Từ điển Bách khoa Nông nghiệp: “Đất là vật hình thành tự nhiên,
gồm những tầng lớp liên quan nhau cho phát triển sinh học, được tạo thành do
kết quả biến đổi các lớp mặt của thạch quyển vỏ Trái đất, dưới tác động của
nước, không khí, sinh vật” [44, tr.170]. Như vậy, đất đai là một khoảng không
gian có giới hạn gồm khí hậu, lớp đất bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện
tích mặt nước, nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất. Trên bề mặt đất đai
là sự kết hợp giữa các yếu tố thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn, thảm thực vật
cùng với các thành phần khác có vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với
hoạt động sản xuất và cuộc sống của xã hội loài người.
Theo Từ điển Bách khoa Nông nghiệp (1991) “Đất nông nghiệp là các loại
đất được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp: trồng trọt các loại cây hằng năm hay
lâu năm, trồng cỏ cho chăn nuôi. Các mặt nước để nuôi trồng thủy sản” [44, tr.171].
Với cách tiếp cận đó, chúng ta có thể hiểu đất nông nghiệp là đất được
sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc sử dụng vào mục đích nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp. Ngành nông nghiệp hoạt động chủ yếu trên địa bàn
15


nông thôn. Khi nói đất nông nghiệp, người ta nói đất sử dụng chủ yếu vào
sản xuất của các ngành nông nghiệp, vì thực tế có trường hợp đất đai được
sử dụng vào mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất
đai được sử dụng chủ yếu cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi
là đất nông nghiệp, nếu không sẽ là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng
vào mục đích nào là chính).
Theo điều 10 Luật Đất đai Việt Nam năm 2013, căn cứ vào mục đích
sử dụng, đất đai được phân thành 3 loại (nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất
phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng). Theo đó, nhóm đất nông
nghiệp là “đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp
như trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng

phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối; đất
nông nghiệp khác sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục
vụ mục đích trồng trọt, xây dựng chuồng trại chăn nuôi hoặc nghiên cứu thí
nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi, đất ươm tạo cây giống, con giống và đất
trồng hoa, cây cảnh” [27, tr.20]. Như vậy, đất nông nghiệp bao gồm: Đất sản
xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và
các loại đất nông nghiệp khác, cụ thể:
Đất sản xuất nông nghiệp bao gồm đất trồng cây hàng năm và đất trồng
cây lâu năm; Đất lâm nghiệp bao gồm đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ,
đất rừng đặc dụng; Đất nuôi trồng thủy sản là đất được sử dụng chuyên vào
mục đích nuôi trồng thủy sản nước lợ, nước mặn và nước ngọt; Đất làm muối
là ruộng muối để sử dụng vào mục đích sản xuất muối; Đất nông nghiệp khác
là đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục vụ mục đích
trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực tiếp trên đất; xây dựng
chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp
luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho mục đích học
tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa,
16


cây cảnh. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, do đặc điểm địa hình, vị
trí địa lý của Nam Định không có rừng sản xuất, nên đất nông nghiệp ở Nam
Định không có loại hình đất rừng sản xuất trong đất lâm nghiệp có rừng.
Như vậy, đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất,
nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản,
làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng; bao gồm đất sản xuất nông
nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất nông
nghiệp khác. Ngoài tên gọi đất nông nghiệp, đất sử dụng vào nông nghiệp
còn được gọi là ruộng đất.
Sử dụng đất nông nghiệp là hệ thống các biện pháp của người được giao

quyền sử dụng đất thực hiện để tác động vào đất nông nghiệp nhằm đạt được các
lợi ích về kinh tế và xã hội. Do đất đai có hạn; vừa là sản vật của tự nhiên, vừa là
sản vật của lao động; vừa là tư liệu lao động, vừa là đối tượng lao động, nên quá
trình sử dụng đất nông nghiệp cũng là quá trình tác động của con người vào giới
tự nhiên. Do vậy, quá trình sử dụng đất nông nghiệp đòi hỏi người được giao
quyền sử dụng đất phải tuân theo những nguyên tắc nhất định như sau:
Một là, đất nông nghiệp phải được sử dụng đầy đủ, hợp lý. Điều này có
nghĩa là toàn bộ diện tích đất nông nghiệp cần được sử dụng hết vào sản xuất,
với việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm của từng loại
đất, nhằm nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi.
Hai là, đất nông nghiệp phải được sử dụng đạt hiệu quả cao. Đây là kết
quả của việc sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai. Việc xác định HQSDĐ nông
nghiệp được tính toán qua nhiều chỉ tiêu, như: năng suất cây trồng, sản lượng,
giá trị, lợi nhuận... thu được trên một đơn vị diện tích; hệ số sử dụng đất, v.v.
Ba là, đất nông nghiệp phải được quản lý và sử dụng một cách bền
vững. Sự bền vững ở đây là sự bền vững cả về số lượng và chất lượng, có
nghĩa là đất nông nghiệp phải được bảo tồn không chỉ đáp ứng được nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ tương lai.
17


1.2. Quan niệm, tiêu chí đánh giá và những nhân tố tác động đến
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Nam Định
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Nam Định
* Khái niệm về hiệu quả
Theo từ điển Kinh tế học “Hiệu quả (efficiency) là mối quan hệ giữa
các đầu vào nhân tố khan hiếm và sản lượng hàng hóa và dịch vụ. Mối quan hệ
này có thể tính bằng hiện vật (hiệu quả kỹ thuật) hoặc giá trị (hiệu quả kinh tế).
Khái niệm hiệu quả còn được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá xem thị trường
phân bổ nguồn lực tốt đến mức nào” [45, tr.241]. Trong đó, hiệu quả kinh tế

(economic efficiency) là phương diện của quá trình sản xuất cho biết kết hợp
các đầu vào nhân tố cho phép tối thiểu hóa chi phí để sản xuất ra một mức sản
lượng nhất định; Hiệu quả kỹ thuật (technical efficiency) là phương diện của
quá trình sản xuất. Nó biểu thị dưới dạng hiện vật cách kết hợp các đầu vào
nhân tố tốt nhất để sản xuất ra một mức sản lượng nhất định [45, tr.242].
Theo Giáo trình Hiệu quả và Quản lý dự án nhà nước, “Hiệu quả là
thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt
động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những
điều kiện nhất định” [41, tr.5]. Vì vậy, kết quả mà chủ thể nhận được theo
hướng mục tiêu hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí bỏ ra bao nhiêu thì
càng có lợi bấy nhiêu. Đây là cơ sở, là chỉ tiêu để phân tích, đánh giá và lựa
chọn các phương án hành động nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Nếu ký hiệu: K là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các
đơn vị khác nhau; C là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau; E là
hiệu quả. Ta có công thức hiệu quả chung là:
E=K–C

(1)

Hiệu quả tuyệt đối

E=K/C

(2)

Hiệu quả tương đối

Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối là hai hình thức biểu hiện mối
quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng
18



hiệu số giữa kết quả và chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỉ số
giữa kết quả và chi phí.
Hiệu quả là một phạm trù rất rộng, phản ánh những lợi ích đạt được từ
hoạt động của chủ thể. Để có thể hiểu được bản chất của nó cần phân biệt rõ
giữa hiệu quả và kết quả. Kết quả là những chỉ tiêu mà chủ thể thu được trong
hoạt động của mình. Bất cứ một hành động nào của con người đều đạt tới một
kết quả nào đó, cho dù là kết quả tốt hay xấu. Trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, kết quả cần đạt được bao nhiêu cũng là mục tiêu cần thiết của mỗi đơn
vị kinh tế. Kết quả đó có thể cân đo đong đếm như sản phẩm tiêu thụ, doanh
thu, lợi nhuận… và cũng có thể là các đại lượng phản ánh mặt chất lượng
hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín, chất lượng sản phẩm. Nhưng đối
với các đơn vị kinh tế, kết quả đó không cho thấy trình độ quản lý, trình độ sử
dụng các yếu tố đầu vào mà phải thông qua khái niệm hiệu quả.
Hiệu quả, kết quả, chi phí là khái niệm, yếu tố có liên quan với nhau
hợp thành những tiêu chí xem xét hoạt động sản xuất kinh doanh của một đơn
vị hay một chủ thể nào đó trong thời gian, điều kiện cụ thể. Xét thuần túy về
mặt toán học, hiệu quả (H) tỷ lệ thuận với kết quả đạt được (K) và tỷ lệ
nghịch với chi phí (C). Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận trong xem
xét, đánh giá hiệu quả hoạt động, các chủ thể phải quan tâm đến chi phí, kết
quả đạt được, hiệu quả sản xuất kinh doanh… Đồng thời phải luôn tìm những
phương án tối ưu để đạt hiệu quả cao nhất trong các hoạt động đó.
Như vậy, hiệu quả là một phạm trù khoa học phản ánh quan hệ so
sánh giữa kết quả đạt được và chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó trong
một thời gian nhất định.
Hiện nay, trong chiến lược phát triển kinh tế các quốc gia đều quan tâm
đến hiệu quả. Song, do các nguồn lực ngày càng bị khai thác quá mức và trở
lên cạn kiệt, tác động xấu đến quá trình phát triển kinh tế ở các giai đoạn tiếp
theo. Bởi vậy, nhiều quốc gia đã đặt ra chiến lược phát triển bền vững, giải

quyết hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
19


Trong đó, hiệu quả kinh tế là phạm trù so sánh thể hiện mối tương
quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được; kết quả kinh tế là một yếu tố
quan trọng được sử dụng để xác định hiệu quả. Thực tế cho thấy, các hoạt
động sản xuất kinh doanh của từng tổ chức cũng như của cả nền kinh tế
quốc dân, kết quả được tính bằng khối lượng sản phẩm hàng hóa, giá trị sản
lượng hàng hóa, doanh thu bán hàng… nhưng kết quả này chỉ phản ánh quy
mô hoạt động kinh tế mà chưa phản ánh được trình độ tổ chức sản xuất của
một đơn vị hoặc một nền kinh tế; chưa trả lời được các câu hỏi được tạo ra
bằng cách nào? Bằng phương tiện gì? Chi phí bao nhiêu? Hiệu quả kinh tế
liên quan đến các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Về
nội dung hiệu quả kinh tế được xác định bao gồm các yếu tố đầu vào, đây
là chi phí trung gian, chi phí sản xuất, chi phí lao động và dịch vụ, chi phí
vốn đầu tư và đất đai… Xác định các yếu tố đầu ra biểu hiện ở các mục
tiêu đạt được của từng chủ thể sản xuất doanh nghiệp và phải phù hợp với
mục tiêu chung của nền kinh tế quốc dân. Hàng hóa sản xuất ra phải trao
đổi trên thị trường với kết quả đạt được như khối lượng sản phẩm, giá trị
sản xuất, giá trị gia tăng, lợi nhuận…
Hiệu quả xã hội là sự phản ánh trình độ sử dụng những nguồn lực để đạt
được mục tiêu xã hội nhất định. “Hiệu quả xã hội là hiệu quả mà chủ thể nhận
được trong việc thực hiện các mục tiêu KT - XH” [41, tr.7]. Các mục tiêu xã
hội được biểu hiện như giải quyết công ăn việc làm; tình trạng thất nghiệp và
khả năng giảm thất nghiệp; nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần
cho người lao động; khả năng nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân
trên cơ sở giải quyết tốt các quan hệ phân phối; chăm sóc sức khỏe và chất
lượng dân số; vấn đề môi trường sinh thái. Khi xem xét hiệu quả xã hội người
ta thường tính đến mức tương quan giữa các kết quả đạt được về mặt xã hội

như cải thiện điều kiện lao động, nâng cao đời sống văn hoá và tinh thần, giải
quyết công ăn việc làm… với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Vì vậy, để

20


đánh giá hiệu quả xã hội đòi hỏi phải có quan điểm khách quan, toàn diện, tiếp
cận vấn đề trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định gắn với thực tiễn
trong mối quan hệ với sự phát triển chung của các chủ thể.
Như vậy, trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, là năng suất.
Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao động nói chung,
hiệu quả lao động là năng suất lao động được đánh giá bằng số lượng thời
gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản
phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Kết quả, mà là kết quả hữu
ích là một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người, được biểu
hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn
tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con người mà ta phải xem xét kết
quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra bao nhiêu? Có đưa lại kết quả
hữu ích hay không? Chính vì vậy khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà phải đánh giá chất
lượng hoạt động tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất
kinh doanh là nội dung của đánh giá hiệu quả.
* Quan niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Nam Định
Từ những lý luận chung về hiệu quả và đất sử dụng trong nông
nghiệp, ta xem xét hiệu quả trong lĩnh vực sử dụng đất thì hiệu quả là chỉ
tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong hoạt động kinh tế. Thể
hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng tiền, đồng thời về mặt
xã hội là thể hiện hiệu quả của lực lượng lao động được sử dụng trong cả
quá trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm để khai thác đất.
Theo đó, tác giả cho rằng: Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh

Nam Định là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả đạt
được với chi phí đầu tư sản xuất kinh doanh của chủ thể sử dụng đất nông
nghiệp trong thời gian nhất định nhằm khai thác tối đa tiềm năng đất nông

21


nghiệp, góp phần phát triển kinh tế- xã hội các địa phương trên địa bàn tỉnh
Nam Định
Nội dung cơ bản của quan niệm này được hiểu như sau:
Một là, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là một phạm trù kinh tế.
Phạm trù kinh tế là những lĩnh vực, những phạm vi của kinh tế đó là những
vấn đề sản xuất hàng hóa, phân phối hàng hóa, buôn bán hàng hóa, lợi
nhuận của sự buôn bán hàng hóa đó trong xã hội, nói tóm lại đó là những
vấn đề sản xuất hàng hóa, kinh doanh hàng hóa, lợi nhuận của sự kinh
doanh đó. Hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp là một phạm trù
phản ánh chất lượng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, biểu hiện của sự
tập trung phát triển theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực
và sự chi phí các nguồn lực trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp.
Hai là, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phản ánh quan hệ so sánh
giữa kết quả đạt được với chi phí đầu tư sản xuất kinh doanh của chủ thể sử
dụng đất nông nghiệp trong thời gian nhất định, kết quả đạt được của quá
trình sử dụng đất nông nghiệp là kết quả hữu ích, được tính trên phương diện
kinh tế và xã hội, là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được về
mặt kinh tế và xã hội so với lượng chi phí bỏ ra trong quá trình sử dụng đất
nông nghiệp để có những kết quả nói trên. Kết quả đạt được là phần giá trị thu
được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của nguồn lực
đầu vào. Trong đó, kết quả về kinh tế có thể đo đếm bằng khối lượng sản
phẩm, giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, doanh thu, lợi nhuận trên một đơn vị
diện tích nhất định. Kết quả xem xét về mặt xã hội trong quá trình sử dụng đất

nông nghiệp chính là kết quả những tác động của việc sử dụng đất nông
nghiệp đến các vấn đề xã hội, như: Giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng
cao trình độ dân trí của nông dân, môi trường. Từ những vấn đề trên có thể
kết luận rằng: bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế sử dụng đất là với một
diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều

22


nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
HQSDĐ nông nghiệp được xác định trong không gian và thời gian cụ
thể (diện tích, mùa vụ hay một năm). Do vậy, HQSDĐ nông nghiệp còn được
thể hiện ở việc tận dụng tối đa diện tích đất nông nghiệp hiện có, không để đất
bỏ hoang và ở việc tăng hệ số sử dụng đất, tăng vòng quay sử dụng đất đạt hiệu
quả nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp, góp
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, đường lối phát triển KT-XH.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở
tỉnh Nam Định
Xuất phát từ tính chất đặc thù của sản xuất nông nghiệp (tuân theo
những quy luật sinh học và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết)
tác giả cho rằng, đối với hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Nam Định,
tiêu chí đánh giá được xác định trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất nông nghiệp
Một là, kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra.
Kết quả đó thường được xem xét dưới các chỉ tiêu: kết quả thu được trên một
đơn vị diện tích cụ thể (một ha, một sào); kết quả thu được trên một đồng chi
phí, một lao động đầu tư vào sản xuất. Khi đánh giá về hiệu quả kinh tế sử
dụng đất nông nghiệp, người ta thường quan tâm đến một số chỉ tiêu sau: Giá
trị gia tăng và hiệu quả kinh tế thông qua sử dụng đa dạng các loại hình đất

nông nghiệp; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên những diện tích kém
hiệu quả góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên một ha đất nông nghiệp, nâng
cao mức tăng trưởng của ngành nông nghiệp; hiệu quả đồng vốn và giá trị ngày
công lao động thông qua mở rộng xen canh, luân canh, số vòng quay trung
bình của đất tăng; ứng dụng khoa học, kỹ thuật - công nghệ, đẩy mạnh cơ giới
hóa trong sản xuất nông nghiệp góp phần cải thiện điều kiện làm việc, rút ngắn

23


thời gian làm đất, gieo cấy thu hoạch, tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
cho người nông dân tại Nam Định; chuyển nền nông nghiệp truyền thống sang
sản xuất hàng hóa thông qua tập trung ruộng đất làm cho số lượng sản phẩm
thu được trên một đơn vị diện tích tăng
Hai là, sử dụng đất phải đảm bảo tiết kiệm chi phí các yếu tố đầu vào.
Chi phí bỏ ra là những chi phí mà người sử dụng đất bỏ ra trong quá trình sản
xuất nông nghiệp, bao gồm: Chi phí lao động sống và lao động quá khứ.
Những chi phí thường được tính đến là: chi phí lao động và dịch vụ; chi phí:
giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực
vật, khấu hao nông cụ (máy móc), chuồng trại, xăng dầu, điện, nước... Mức
sinh lời trên vốn đầu tư, thu nhập bình quân tính bằng tiền trên một diện tích
canh tác (số tiền/ha/năm).
Thứ hai, hiệu quả xã hội của việc sử dụng đất nông nghiệp
Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế
và thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người. Việc lượng hoá các chỉ
tiêu biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn, nên hiệu quả xã hội chủ
yếu thể hiện ở các chỉ tiêu định tính, như: Xoá đói giảm nghèo, định canh, định
cư, công bằng xã hội, nâng cao mức sống của người dân, nâng cao trình độ dân
trí của người dân, môi trường v.v. Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất nông
nghiệp phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được về mặt xã hội mà việc

sử dụng diện tích đất nông nghiệp đó mang lại so với các chi phí bỏ ra. Vấn đề
môi trường của việc sử dụng đất nông nghiệp là mức độ ảnh hưởng đến môi
trường do quá trình sử dụng đất nông nghiệp sản sinh ra dưới các tác động vật
lý, hóa học, sinh học, v.v. mức độ ô nhiễm môi trường (nước, không khí, đất)
do quá trình sử dụng đất nông nghiệp và ở mức độ giảm (tăng) độ phì nhiêu
của đất nông nghiệp.
Tóm lại, đánh giá HQSDĐ nông nghiệp phải quan tâm tới hiệu quả kinh
tế và hiệu quả xã hội; trong đó, hiệu quả kinh tế là trọng tâm, vì không có hiệu

24


quả kinh tế thì không có điều kiện nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội. Ngược
lại, không có hiệu quả xã hội thì hiệu quả kinh tế sẽ không bền vững.
1.2.3. Những nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp ở tỉnh Nam Định
Nghiên cứu, đánh giá các yếu tố chi phối đến sử dụng đất là rất cần
thiết, giúp các cơ quan chức năng đưa ra được những đánh giá phù hợp với
từng loại đất, vùng đất; trên cơ sở đó, đề xuất những phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao HQSDĐ. HQSDĐ nông nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố, bao gồm các yếu tố khách quan và chủ quan về điều kiện tự nhiên,
KT-XH, luật pháp, cơ chế, chính sách về sử dụng đất nông nghiệp v.v.
Một là, vị trí địa lý của tỉnh Nam Định.
Vị trí địa lý tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng đất đai
nói chung và HQSDĐ nông nghiệp nói riêng, quy định mục đích sử dụng đất.
Bởi, việc sử dụng đất nông nghiệp của mỗi quốc gia, địa phương phải phù
hợp với địa hình (bằng phẳng, rừng đồi núi), sông ngòi, hồ ao, biển đảo v.v.
Tỉnh Nam Định nằm trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cách thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải
Phòng khoảng 90 km, đó là hai thị trường lớn để giao lưu, tiêu thụ hàng hóa,

trao đổi kỹ thuật công nghệ, thông tin và kinh nghiệm quản lý kinh doanh..
Phía Bắc giáp với tỉnh Hà Nam, Phía Đông giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây giáp
tỉnh Ninh Bình, phía Nam giáp với biển Đông. Với vị trí địa lý kinh tế thuận
lợi, Nam Định giữ vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH khu
vực nam Đồng bằng sông Hồng và cả nước đó là điều kiện quan trọng để
Nam Định phát triển kinh tế năng động, đa dạng và hòa nhập với việc phát
triển KT-XH, khoa học kỹ thuật trong nước và quốc tế... nên Nam Định có
nhiều lợi thế so sánh tỉnh, mở ra khả năng phát triển trong tương lai.
Hai là, quy mô và cấu tạo tự nhiên môi trường đất đai của tỉnh Nam
Định.
25


×