Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Đề cương ôn thi ATLĐ có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.89 KB, 32 trang )

Câu 1: Nêu mục đích , ý nghĩa, tích chất công tác an toàn và vệ sinh lao động?
a. Mục đích
Mục tiêu của sản xuất là tạo ra của cải vật chất. Tuy nhiên, trong sản xuất lại có thể nảy sinh các yếu tố nguy hiểm, ảnh
hưởng tới sức khỏe và tính mạng con người. Từ phương thức sản xuất giản đơn (săn bắt và hái lượm) cho tới phương thức
sản xuất hiện đại (tự động hóa), các yếu tố nguy hiểm vẫn luôn tiềm ẩn và có thể gây tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
bất kỳ lúc nào đối với người làm việc.
Vì vậy, mục đích của công tác an toàn và vệ sinh lao động là: thông qua các biện pháp về khoa học, kỹ thuật, tổ chức, kinh tế
và xã hội nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong sản xuất; Tạo ra điều kiện lao động thuận lợi và ngày
càng được cải thiện tốt hơn để ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hạn chế ốm đau hoặc sự suy giảm sức khỏe
của người lao động; Đảm bảo an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động; Trực tiếp góp phần bảo vệ và phát
triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động.
b. Ý nghĩa
- An toàn và vệ sinh lao động có thể phản ánh một phần nào đó bản chất của chế độ xã hội thông qua hệ thống pháp luật,
chế độ chính sách, tiêu chuẩn, quy phạm,...v.v. Kết quả của việc thực hiện các văn bản pháp lý đó đánh giá sự quản lý của
nhà nước đối với người lao động. Đối với một doanh nghiệp, công tác an toàn và vệ sinh lao động có thể làm ảnh hưởng sâu
sắc đến kết quả lựa chọn nhà thầu khi doanh nghiệp đó tham gia dự thầu.
- Làm tốt công tác an toàn và vệ sinh lao động góp phần tích cực vào việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Mặt
khác, nhờ chăm lo bảo đảm an toàn và bảo vệ sức khỏe, an toàn và vệ sinh lao động không những mang lại hạnh phúc cho
bản thân và gia đình người lao động mà còn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
- Khi an toàn và vệ sinh lao động được thực sự quan tâm, người lao động được bảo vệ tốt, không bị ốm đau, bệnh tật. Khi
đó, họ sẽ an tâm, phấn khởi, nâng cao năng suất lao động để hoàn thành kế hoạch sản xuất. Chính vì vậy, thu nhập cá nhân
và phúc lợi tập thể được tăng lên, điều kiện vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện. Ngược lại, nếu để xảy ra tai nạn
lao động, người làm việc ốm đau, bệnh tật xảy ra nhiều thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng sản xuất. Đồng thời, chi phí
khắc phục hậu quả do tai nạn, ốm đau cũng rất lớn.
Vì vậy, quan tâm thực hiện tốt công tác an toàn và vệ sinh lao động là thể hiện quan điểm sản xuất một cách đầy đủ, là điều
kiện bảo đảm sản xuất phát triển và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
c. Tính chất
* Tính luật pháp
Tất cả những chế độ, chính sách, quy phạm, tiêu chuẩn về an toàn và vệ sinh lao động đều được thể hiện bằng các văn bản
pháp luật của Nhà nước như: luật, nghị định, thông tư, chỉ thị,...v.v. Các văn bản kể trên là cơ sở pháp lý buộc các tổ chức
nhà nước, xã hội, kinh tế và mọi người tham gia lao động phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh.


* Tính quần chúng
Tính quần chúng thể hiện trên hai phương diện:
- An toàn và vệ sinh lao động có liên quan đến tất cả mọi người tham gia lao động. Chính họ là người tiếp cận trực tiếp và
thường xuyên với máy và công nghệ, nguyên, nhiên vật liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nên họ có thể phát hiện những
thiếu sót trong công tác an toàn và vệ sinh lao động, từ đó họ có thể có nhiều đóng góp để xây dựng các biện pháp phòng
ngừa tai nạn và bệnh nghề nghiệp. Ngoài ra, họ còn có thể góp ý để xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy phạm về an
toàn và vệ sinh lao động;
- Dù hệ thống luật pháp, tiêu chuẩn và quy phạm có đầy đủ và hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu mọi người trong hệ thống sản
xuất chưa thấy rõ lợi ích thiết thực, chưa tự giác chấp hành thì công tác an toàn và vệ sinh lao động không thể đạt được kết
quả mong muốn.
* Tính khoa học kỹ thuật
Tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng làm cho năng suất lao động được nâng cao, sức lao động của con người càng được
giảm nhẹ và cũng chính vì thế, nói chung, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng giảm đi rất nhiều. Nhưng mỗi sự cố
của sản xuất với công nghệ cao nào đó đều có thể gây ra hiểm họa rất lớn. Vì vậy, muốn làm tốt công tác an toàn và vệ sinh
lao động, cần phải hiểu bản chất khoa học của công việc, phải phân tích, đánh giá được các yếu tố nguy hiểm có thể xảy ra
và đưa ra các giải pháp phòng ngừa, xử lý và khắc phục. Nắm rõ tính chất khoa học kỹ thuật là rất quan trọng đối với cán bộ
quản lý và cán bộ kỹ thuật trong ngành xây dựng.


Câu 2: Khái niệm về quá trình cháy? Điều kiện và hình thức cháy? Trình bày các nguy cơ gây cháy nổ trên công
trường xây dựng?
Khái niệm
Trong các điều kiện bình thường, cháy là một quá trình ôxy hóa hay là một phản ứng hóa học giữa chất cháy (chất bị ôxy
hóa như dầu, khí, than…) với chất ôxy hóa (như không khí, ôxy…) kèm theo sự tỏa nhiệt và phát quang.
Tuy nhiên trong một số điều kiện nào đó khi không có ôxy, các chất như axêtilen, clorua, nitơ và các hợp chất khác, khi bị
nén mạnh có thể gây nổ, khi đó vật chất sẽ bị phân tích kèm theo sự tỏa nhiệt và ngọn lửa. Do đó sự cháy có thể xuất hiện
không những do phản ứng hóa học mà còn do phản ứng phân tích.
Đối với sự cháy, phản ứng hóa học không những chỉ xảy ra giữa chất cháy với ôxy, mà một số chất có thể cháy trong môi
trường không có ôxy như hiđrô và nhiều kim loại có thể cháy trong môi trường khí clo, đồng trong hơi lưu huỳnh …
Không phải tất cả các quá trình tỏa nhiệt đều diễn ra dưới hình thức cháy, ví dụ sự ôxy hóa chậm của rượu êtilíc thành

anđêhít - axêtic, SO

thành SO không thể liệt vào quá trình cháy vì không phát quang. Hoặc quá trình tỏa nhiệt không
2
3
phải do phản ứng hóa học ôxy hóa cũng không phải là hiện tượng cháy, ví dụ sự phát quang trong đèn nê-ông là do sự
phóng điện (quá trình lý học).
Tóm lại, cháy là một phản ứng hóa học hoặc phân tích xảy ra nhanh có phát nhiệt mạnh và phát quang.
a. Điều kiện cháy
Để cho quá trình cháy xuất hiện và phát triển, phải có điều kiện cần và điều kiện đủ. Có thể hình dung điều kiện phát
sinh cháy, trong đó điều kiện cần là phải có: Vật chất cháy, Oxy và mồi lửa; còn điều kiện đủ là 3 thành phần trên phải ở
một tỉ lệ phù hợp.
* Điều kiện cần
- Vật chất cháy:
Trong thực tế, các chất này có thể là gỗ, giấy, xăng, dầu, nhựa,…v.v. Đa phần, đó là hợp chất hữu cơ hoặc vô cơ gồm các
thành phần chính là cacbon (C), hiđrô (H) và ôxy (O).
Thành phần các chất và tỉ lệ của chúng trong hỗn hợp cháy có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình cháy.
- Ôxy (Chấy oxy hóa):
Trong thực tế, các đám cháy cần có oxy ở trạng thái tự do trong không khí.
Oxy cũng có thể thoát ra từ các chất khi nung nóng như kali pecmanganat (KMnO ), amôn nitrat (NH NO ), kali clorat
4
4 3
(KClO ), axit nitric (HNO )…v.v.
3
3
Ví dụ: 2KCLO → 2KCl + 3O
3
2
- Mồi lửa (Nguồn nhiệt - Mồi gây cháy):
Mồi lửa có thể là ngọn lửa trần, tia lửa điện, hồ quang điện, tia lửa sinh ra do ma sát va đập, những hạt than cháy đỏ,…

v.v. Chúng là những mồi lửa phát quang. Ngoài ra còn có những loại mồi gây cháy không phát quang hay còn gọi là mồi ẩn.
Mồi gây cháy ẩn có thể là nhiệt tỏa ra do các quá trình hóa học, sinh hóa, nén đoạn nhiệt, ma sát hoặc do tiếp xúc với bề mặt
nóng của thiết bị.
* Điều kiện đủ
Có đầy đủ 3 tác nhân gây cháy nhưng nếu tỉ lệ của chúng không phù hợp thì cháy vẫn không xảy ra hoặc sẽ bị ngừng lại.
Sự bắt cháy của hỗn hợp chỉ có khả năng xảy ra khi lượng nhiệt cung cấp cho hỗn hợp cháy đủ để làm cho phản ứng cháy
bắt đầu, tiếp tục và lan rộng. Như vậy không phải bất kỳ một mồi gây cháy nào cũng có thể gây cháy. Muốn gây cháy đòi
hỏi mồi cháy phải có đủ năng lượng tối thiểu.
Đám cháy trong ôxy nguyên chất sẽ đạt tốc độ lớn, khi nồng độ ôxy trong không khí giảm, thì tốc độ cháy cũng giảm, khi
nồng độ giảm chỉ còn từ 14% ÷ 15% thì sự cháy sẽ bị ngừng.
b. Hình thức cháy
* Cháy hoàn toàn và cháy không hoàn toàn
Cháy hoàn toàn diễn ra khi có đủ lượng không khí, các sản phẩm tạo ra không có khả năng tiếp tục cháy. Ví dụ như gỗ,
giấy, xăng,…v.v. sau khi cháy thì sản phẩm cháy là tro, khói, sẽ không thể cháy tiếp được.


Cháy không hoàn toàn diễn ra khi thiếu không khí. Ví dụ than đá là sản phẩm của sự cháy, nhưng khi đốt thì vẫn cháy
tiếp được.
* Cháy có ngọn lửa và cháy không có gọn lửa
Tất cả các chất cháy thể lỏng, thể khí và phần lớn các chất thể rắn, khi cháy thì bốc lửa. Quá trình bốc cháy và cháy thường
tiếp tục dưới dạng hơi hoặc khí. Khi bốc cháy không phải là chính chất đó cháy mà là các sản phẩm dưới dạng hơi hoặc
khí bốc cháy trong quá trình chất cháy bị phân tích dưới nhiệt độ cao.
Các chất cháy rắn, ví dụ như than cốc, than gỗ, mồ hóng, kim cương cháy không bốc lửa vì khi bị đốt nóng các chất này
hoặc không tạo ra hoặc tạo ra ít các sản phẩm hơi và khí, không đủ để bốc lửa. Các chất này khi bị đốt nóng không bị nóng
chảy, không bị phân tích, chúng chỉ bị ôxy hóa trên bề mặt và sau đó bị rữa ra.
* Cháy thường và cháy động lý học
Cháy thường (khuếch tán) là sự cháy mà tốc độ của nó phụ thuộc vào tốc độ khuếch tán của ôxy trong vùng cháy.
Cháy động lý học (nổ) là sự cháy của hỗn hợp đã được chuẩn bị trước, tốc độ của nó không phụ thuộc vào sự khuếch tán của
ôxy trong vùng cháy mà quyết định bởi tốc độ truyền nhiệt do tính dẫn nhiệt từ vùng cháy đến chỗ hỗn hợp cháy. Tốc độ
cháy (nổ) đặc trưng bởi tốc độ truyền lan trung bình của ngọn lửa, tốc độ này không vượt quá một vài mét trong một

giây. Với tốc độ này ở trong thể tích kín sẽ gây nổ.
Nguy cơ cháy, nổ trên công trường xây dựng
- Nguy cơ do bảo quản và sử dụng các vật liệu hoặc nguyên liệu dễ bắt lửa: Trên công trường xây dựng, có rất nhiều các
vật liệu, nhiên liệu dễ bắt lửa như giấy, gỗ, nhựa, dung môi, xăng hoặc dầu,…Mỗi loại vật liệu hoặc dung môi đó đều có
những phương pháp bảo quản và sử dụng riêng (có thể có hoặc không có theo các hướng dẫn của nhà sản xuất). Do vậy,
khi công tác bảo quản và sử dụng không tốt thì tùy từng lúc, từng nơi hoặc từng loại vật liệu mà các nguy cơ về cháy, nổ
rất có thể xảy ra khi có nguồn nhiệt, lửa, tia lửa điện hoặc chập điện…v.v.
- Hàn điện, hàn xì oxi-axetylen mà môi trường có thể có hơi xăng, hơi dầu, bụi than hoặc bụi gỗ…xuất hiện bất ngờ
từ các nguồn như can, thùng phi, téc, bể chứa hoặc các nơi khai thác và chế biến.
- Dùng đèn dầu để kiểm tra hệ thống cung cấp năng lượng như xăng, dầu, khí gas…v.v.
- Dùng các que bằng kim loại để cạy hoặc mở can, phi hoặc téc xăng hoặc dầu.
- Vứt tàn thuốc hoặc tàn lửa bay vào nơi có nhiều vật liệu dễ cháy như giấy, gỗ vụn, xăng hoặc dầu,…v.v.
- Các thiết bị hoặc máy thi công khi sử dụng bị quá tải gây quá nóng và có thể gây cháy.
- Các thiết bị như dây cu roa khi sử dụng hoặc khi nghiền nhỏ các vật rắn mà phát sinh tĩnh điện trong môi trường có
nhiều hơi xăng, dầu, hoặc bụi than,..v.v
- Hệ thống điện bị chập hoặc quá tải và gây cháy.
- Lán trại, nhà làm việc hoặc công trình bị sét đánh và gây cháy.


Câu 3: Hãy nêu quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động, và người lao động trong công tác bảo hộ lao động ở
nước ta?
* Nghĩa vụ và quyền của người sử dụng laos động trong công tác an toàn và vệ sinh lao động
* Nghĩa vụ
Điều 13, Chương IV, Nghị định 06/CP quy định người sử dụng lao động có những nghĩa vụ sau:
Hàng năm, khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì phải lập kế hoạch, biện pháp về an toàn
lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động.
- Trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân, thực hiện các chế độ khác về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với
người lao động theo quy định của Nhà nước.
- Cử người giám sát việc thực hiện các quy định nội dung, biện pháp an toàn và vệ sinh lao động trong doanh nghiệp;
Phối hợp với công đoàn cơ sở xây dựng và duy trì sự hoạt động của mạng lưới an toàn viên.

- Xây dựng nội quy, quy trình an toàn, vệ sinh lao động phù hợp với từng loại máy, thiết bị, vật tư kể cả khi đổi mới
công nghệ, máy, thiết bị, vật tư và nơi làm việc theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước.
- Tổ chức huấn luyện, hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy định, biện pháp an toàn, vệ sinh lao động với người lao động.
- Tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người lao động theo tiêu chuẩn, chế độ quy định.
- Chấp hành nghiêm chỉnh quy định khai báo, điều tra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Định kỳ 6 tháng và hàng
năm phải báo cáo kết quả tình hình thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động với
Sở Lao động - thương binh và xã hội nơi doanh nghiệp hoạt động.
* Quyền
Điều 14, Chương IV, Nghị định 06/CP quy định người sử dụng lao động có các quyền:
- Buộc người lao động phải tuân thủ các quy định, nội quy, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Khen thưởng người chấp hành tốt và kỷ luật những người vi phạm trong việc thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao
động.
- Khiếu nại cơ quan Nhà nướccó thẩm quyền về quyết định của thanh tra viên lao động về an toàn lao động, vệ sinh
lao động nhưng vẫn phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định đó.
* Nghĩa vụ và quyền của người lao động trong công tác an toàn và vệ sinh lao động
* Nghĩa vụ
Điều 15, Chương IV, Nghị định 06/CP quy định người lao động có các nghĩa vụ sau:
- Chấp hành các quy định, nội quy về an toàn lao động, vệ sinh lao động có liên quan đến công việc, nhiệm vụ được
giao.
- Phải sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được trang cấp, các thiết bị an toàn, vệ sinh nơi làm việc.
Nếu làm mất hoặc hư hỏng thì phải bồi thường.
- Phải báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, gây
độc hại hoặc sự cố nguy hiểm, tham gia cấp cứu và khắc phục hậu quả tai nạn lao động khi có lệnh của người sử
dụng lao động.
* Quyền
Điều 16, Chương IV, Nghị định 06/CP quy định người lao động có các quyền sau:
- Yêu cầu người sử dụng lao động bảo đảm điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh cải thiện điều kiện lao động, cung cấp
đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân và huấn luyện để thực hiện các biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Từ chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, đe dọa nghiêm trọng
tính mạng, sức khỏe của mình và phải báo ngay với người phụ trách trực tiếp; từ chối trở lại làm việc nơi nói trên



-

nếu những nguy cơ đó chưa được khắc phục.
Khiếu nại hoặc tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động vi phạm quy định của Nhà
nướchoặc không thực hiện đúng các giao kết về an toàn lao động và vệ sinh lao động trong hợp đồng lao động hay thỏa ước
lao động.

Câu 4: Điều kiện lao động trong ngành xây dựng? Các nguy cơ gây tai nạn khi sử dụng máy và thiết bị xây dựng?
Điều kiện lao động
Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố kỹ thuật, tổ chức lao động, kinh tế, tự nhiên, thể hiện qua quá trình công nghệ, công
cụ lao động, đối tượng lao động, năng lực của người lao động và sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó tạo nên điều kiện làm
việc của con người trong quá trình lao động sản xuất.
Để có thể làm tốt công tác bảo hộ lao động thì phải đánh giá được các yếu tố điều kiện lao động, đặc biệt là phải phát hiện và
xử lý được các yếu tố không thuận lợi đe dọa đến an toàn và sức khoẻ người lao động trong quá trình lao động, các yếu tố đó
bao gồm:
 Yếu tố nguy hiểm gây chấn thương, tai nạn lao động (liên quan đến vấn đề kỹ thuật an toàn) đó là các yếu tố có thể phát
sinh do nguồn nhiệt, điện, cháy nổ, vật rơi, văng bắn, tiếp xúc với bộ phận truyền chuyển động.
 Yếu tố có hại đến sức khoẻ, gây bệnh nghề nghiệp (liên quan đến vấn đề vệ sinh lao động) bao gồm:
- Điều kiện vi khí hậu: nhiệt độ (t oC), độ ẩm tương đối của không khí (ρ %), bức xạ nhiệt (γ Calo/cm2.ph), tốc độ
chuyển động của không khí (v m/s), và đặc biệt là nhiệt độ hiệu quả tương đương, nồng độ của các chất bụi độc hại
trong không khí (mg/m3; ml/m3), hoặc số lượng vi khuẩn/m3 không khí.
- Mức cường độ của tiếng ồn (dB).
- Mức cường độ của rung động (dB).
- Chất lượng của ánh sáng – kể đến độ rọi tối thiểu theo quy phạm (E lux), sự phân bố của ánh sáng trên bề mặt chi
tiết gia công và khả năng gây chói lóa.
- Trường điện từ, áp suất không khí,...v.v.
Nguy cơ gây tai nạn khi sử dụng máy và thiết bị xây dựng
a. Máy sử dụng không tốt:

- Máy không hoàn chỉnh:
 Thiếu thiết bị an toàn hoặc có những đã bị hỏng, hoạt động thiếu chính xác, mất tác dụng tự động bảo vệ khi làm
việc quá giới hạn tính năng cho phép.
 Thiếu các thiết bị tín hiệu âm thanh, ánh sáng (đèn, còi, chuông).
 Thiếu các thiết bị áp kế, vôn kế, ampe kế, thiết bị chỉ sức nâng của cần trục ở độ vươn tương ứng...
- Máy đã hư hỏng:
 Các bộ phận, chi tiết cấu tạo của máy đã bị biến dạng lớn, cong vênh, rạn nứt, đứt gãy.
 Hộp số bị trục trặc làm cho vận tốc chuyển động theo phương ngang, phương đứng, xoay không chính xác theo điều
khiển của người vận hành.
 Hệ thống phanh điều khiển bị gỉ mòn không đủ tác dụng hãm.
b. Máy bị mất cân bằng ổn định
Do máy đặt hoặc di chuyển trên nền không vững chắc: nền yếu, nền dốc quá góc nghiêng cho phép khi cẩu hàng hoặc đổ vật
liệu, sát mép hố móng, vai nền đắp…. Ví dụ [3] trường hợp như hình 4.11, khi người công nhân đang đưa chiếc máy đào lên
thùng xe tải nhờ đi trên hai tấm ván.
- Cẩu nâng quá trọng tải.
- Tốc độ di chuyển, nâng hạ vật với tốc độ nhanh gây ra mômen quán tính, mômen ly tâm lớn. Đặc biệt hãm phanh
đột ngột gây ra lật đổ máy.
- Máy làm việc khi có gió lớn (trên cấp 6), đặc biệt đối với máy có trọng tâm cao.
c. Thiếu các thiết bị che chắn, rào ngăn nguy hiểm: đặc biệt ở các thiết bị truyền, chuyển động như băng tải vật liệu, máy
mài, máy cắt,...
d. Sự cố tai nạn điện:
- Dòng điện rò rỉ ra vỏ và các bộ phận kim loại của máy do phần cách điện bị hỏng.
- Xe máy đè lên dây điện dưới đất hoặc va chạm vào đường dây điện trên không khi máy hoạt động ở gần hoặc di
chuyển phía dưới trong phạm vi nguy hiểm.
e. Ánh sáng không hợp lý:


-

Chiếu sáng không đầy đủ làm cho người đIều khiển máy móc dễ mệt mỏi, phản xạ thần kinh chậm, lâu ngày giảm thị

lực là nguyên nhân gián tiếp gây chấn thương, đồng thời làm giảm năng suất lao động và hạ chất lượng sản phẩm.
- Chiếu sáng quá thừa gây hiện tượng mắt bị chói, bắt buộc mắt phải thích nghi. Điều này làm giảm sự thu hút của
mắt, lâu ngày thị lực giảm.
Thiếu ánh sáng trong nhà xưởng hoặc làm việc vào ban đêm, sương mù làm cho người điều khiển máy không nhìn
rõ các bộ phận trên máy và khu vực xung quanh dẫn tới tai nạn.
f. Do người vận hành:
- Không đảm bảo trình độ chuyên môn: chưa thành thục tay nghề, thao tác không chuẩn xác, chưa có kinh nghiệm xử
lý kịp thời các sự cố.
- Vi phạm các điều lệ, nôị quy, quy phạm an toàn: sử dụng máy không đúng công cụ, tính năng sử dụng (hình 4.14).
Ví dụ dùng máy đào thủy lực 11,5 tấn để nâng hạ một máy đào mini nặng 2,7 tấn xuống hố móng [3]
- Không đảm bảo các yêu cầu về sức khoẻ: mắt kém, tai nghễnh ngãng, bị các bệnh về tim mạch,...
- Vi phạm kỷ luật lao động: rời khỏi máy khi máy đang còn hoạt động, say rượu bia trong lúc vận hành máy, giao máy
cho người không có nghiệp vụ, nhiệm vụ điều khiển...
g. Thiếu sót trong tổ chức, quản lý lao động:
- Thiết kế quá trình công nghệ thi công, chuẩn bị nơi làm việc không hoàn toàn đảm bảo an toàn tiềm ẩn các đe dọa nguy
hiểm từ các phần di động của máy, của vật liệu và từ phía máy khác cùng tham gia làm việc.
- Thiếu hoặc không có hồ sơ, lý lịch tài liệu hướng dẫn về lắp đặt, sử dụng bảo quản máy.
- Không thực hiện đăng kiểm, khám nghiệm, chế độ trung tu bảo dưỡng, sửa chữa theo định kỳ.
- Phân công trách nhiệm không rõ ràng trong việc quản lý sử dụng.

Câu 5: Trình bày nguyên nhân gây tai nạn lao động ?
a. Nguyên nhân về kỹ thuật
- Dụng cụ, phương tiện, thiết bị máy móc sử dụng không hoàn chỉnh, gồm:




Máy và thiết bị bị hư hỏng, gây ra sự cố và tai nạn (đứt cáp, đứt dây curoa, tuột phanh, vỡ đá mài, gãy thang, sập dàn
giáo,...v.v.).




Thiếu các thiết bị an toàn (thiết bị khống chế quá tải, khống chế chiều cao nâng tải, khống chế góc nâng của cần trục,
van an toàn trong thiết bị chịu áp lực; rơle tự ngắt trong thiết bị điện, thiết bị che chắn các bộ phận truyền động như
đai truyền, cưa đĩa, đá mài,...v.v.).



Thiếu các thiết bị cảnh báo nguy hiểm (đồng hồ đo, áp kế, hệ thống tín hiệu,...v.v.).

- Vi phạm quy trình, quy phạm kỹ thuật:


Vi phạm qui trình tháo dỡ cột chống, ván khuôn các kết cấu bê tông cốt thép.



Đào hố hào sâu theo kiểu hàm ếch.



Làm việc trên cao ở nơi chênh vênh, nguy hiểm mà không đeo dây an toàn.



Sử dụng phương tiện vận chuyển vật liệu để chở người.



Sử dụng thiết bị điện không đúng điện áp trong môi trường có nguy hiểm về điện,... v.v.




Do thiết kế công trình như chọn sai sơ đồ tính toán kết cấu, tính toán kết cấu không đúng do xác định tải trọng hoặc
tính toán nội lực sai,...v.v



Do thiết kế biện pháp thi công không hợp lý như tính toán, bố trí sai hệ thống dàn giáo, cột chống cho việc thi công
bê tông toàn khối nhà cao tầng, thiết kế góc mái dốc của các hố đào có chiều sâu lớn không đảm bảo,...v.v.
- Thao tác làm việc không đúng (vi phạm quy tắc an toàn):


Hãm phanh đột ngột khi nâng, hạ vật cẩu; vừa quay tay cần vừa nâng hạ vật cẩu khi vận hành cần trục.



Điều chỉnh kết cấu lắp ghép khi đã tháo móc cẩu.



Dùng que sắt để cậy nắp thùng xăng hoặc nhồi thuốc nổ trong lỗ khoan khi thi công nổ mìn.



Lấy tay làm cữ khi cưa, cắt.

b. Nguyên nhân về tổ chức
- Bố trí mặt bằng, không gian sản xuất không hợp lý:



Diện tích làm việc chật hẹp, cản trở các thao tác, hoạt động và đi lại của người làm việc.



Bố trí máy, thiết bị, dụng cụ hoặc nguyên vật liệu sai nguyên tắc.



Bố trí đường đi lại, giao thông vận chuyển không hợp lý, ví dụ có nhiều vị trí giao cắt nhau.

- Tuyển dụng và sử dụng công nhân:


Không đảm bảo yêu cầu về tuổi, sức khỏe, ngành nghề và trình độ chuyên môn.



Chưa được huấn luyện và kiểm tra về an toàn lao động.

- Thiếu kiểm tra, giám sát thường xuyên để phát hiện và xử lý những vi phạm về an toàn lao động.
- Thực hiện không nghiêm chỉnh các chế độ về bảo hộ lao động như:


Chế độ về thời gian làm việc và nghỉ ngơi.



Chế độ trang bị các phương tiện bảo hộ cá nhân.




Chế độ bồi dưỡng độc hại.



Chế độ đối với lao động nữ,...v.v.

c. Nguyên nhân về vệ sinh môi trường
Bao gồm các nhóm sau:
- Làm việc trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt: nắng nóng, mưa, bão, gió rét, mưa dông hoặc sương mù.
- Làm việc trong môi trường vi khí hậu không tiện nghi: quá nóng, quá lạnh, không khí trong nhà xưởng kém thông
thoáng, ngột ngạt, độ ẩm cao,...v.v.
- Môi trường làm việc bị ô nhiễm bởi các yếu tố độc hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép: bụi, hơi khí độc, tiếng ồn,
rung động, cường độ bức xạ (nhiệt, quang, ion, phóng xạ, điện từ,...v.v.).
- Làm việc trong điều kiện áp suất không khí cao hoặc thấp hơn áp suất khí quyển bình thường: trên cao, dưới sâu,
trong đường hầm, dưới nước,...v.v.
- Không phù hợp với các tiêu chuẩn ecgônômi:


Tư thế làm việc gò bó.



Công việc đơn điệu, buồn tẻ.



Nhịp điệu lao động quá khẩn trương.




-

Máy móc, dụng cụ, vị trí làm việc không phù hợp với các chỉ tiêu nhân trắc.
Thiếu các phương tiện bảo hộ cá nhân hoặc có nhưng chất lượng không bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật.
Không đảm bảo các yêu cầu vệ sinh cá nhân trong sản xuất:



Không cung cấp đủ nước uống về số lượng và chất lượng.



Không có nơi tắm rửa hoặc nhà vệ sinh,...v.v.

d. Nguyên nhân do bản thân người lao động
Bao gồm các nhóm sau:
- Tuổi, sức khỏe, giới tính hoặc tâm lý không phù hợp với công việc.
- Trạng thái thần kinh, tâm lý không bình thường, có những đột biến về cảm xúc: vui, buồn, lo sợ, hoảng hốt,...v.v.
- Vi phạm kỷ luật lao động hoặc nội quy an toàn như:


Đùa nghịch trong khi làm việc.



Xâm phạm các vùng cấm.




Vi phạm qui định đối với những công việc, máy và thiết bị ngoài nhiệm vụ của mình.



Không sử dụng hoặc sử dụng không đúng các phương tiện bảo hộ cá nhân.

Câu 6:Trình bày ảnh hưởng yếu tố vi khí hậu đến sk người lao động? Các giải pháp phòng ngừa và giảm thiểu tai
nạn lao đông?
. *Ảnh hưởng của điều kiện vi khí hậu
• Tác hại của vi khí hậu nóng:
Ở nhiệt độ cao, cơ thể người tăng tiết mồ hôi để duy trì cân bằng nhiệt, từ đó gây sụt cân do mất nước và mất cân bằng điện
giải do mất các ion K+, Na+, Ca++, I- và vitamin các nhóm C, B, PP. Do mất nước làm khối lượng, tỷ trọng và độ nhớt của


máu thay đổi, tim phải làm việc nhiều hơn để thải nhiệt. Chức phận hoạt động của hệ thần kinh trung ương cũng bị ảnh
hưởng, dẫn tới giảm sự chú ý khi phối hợp các động tác cũng như tốc độ phản xạ.
Rối loạn bệnh lý thường là chứng say nóng và chứng co giật với các triệu chứng mất cân bằng nhiệt như: chóng mặt, nhức
đầu, đau thắt ngực, buồn nôn, thân nhiệt tăng nhanh, nhịp thở nhanh và cơ thể rơi vào trạng thái suy nhược. Mức nặng hơn là
choáng nhiệt: thân nhiệt tăng cao từ 40 ÷ 41oC, mạch nhanh nhỏ, thở nhanh mà nông, cơ thể tím tái, mất tri giác và hôn mê.
Chứng co giật gây nên do mất cân bằng nước và điện giải.
• Tác hại của vi khí hậu lạnh:
Do ảnh hưởng của nhiệt độ thấp, da trở nên xanh, nhiệt độ da dưới 33 0C. Nhịp tim và nhịp thở giảm nhưng mức tiêu thụ oxi
lại tăng nhiều do cơ và gan phải làm việc nhiều. Khi bị lạnh, nhiều cơ vân, cơ trơn đều co lại (khiến cơ thể bị rét run) và xuất
hiện hiện tượng “nổi da gà” nhằm hạn chế thải nhiệt qua đường bay hơi mồ hôi.
Lạnh cục bộ làm co thắt mạch, gây cảm giác tê cóng, lâm râm ngứa ở các đầu chi, làm giảm khả năng vận động, mất cảm
giác, sau đó sinh chứng đau cơ, viêm cơ, viêm thần kinh ngoại biên,...v.v. Lạnh còn gây dị ứng kiểu hen phế quản, giảm sức
đề kháng, giảm miễn dịch, gây viêm đường hô hấp trên hoặc bệnh thấp khớp,…v.v.
Một số hậu quả có thể xảy ra khi làm việc trên công trường vào mùa lạnh là như sau:
- Rất dễ xảy ra tai nạn khi nhiệt độ bàn tay xuống dưới 15 0 C do xảy ra tình trạng mất tập trung và khó điều khiển;

- NLĐ sử dụng các thiết bị rung cầm tay liên tục như máy khoan đá dễ bị mắc phải hội chứng “ngón tay trắng” - mất
cảm giác ở tay do hậu quả của việc chịu lạnh kéo dài;
- Kéo dài thời gian tiếp xúc với thời tiết băng giá có thể khiến cho cơ thể bị lạnh cóng hoặc mất thân nhiệt;
- Tốc độ gió cũng ảnh hưởng tới nhiệt độ. Khi nhiệt độ không khí là 10 0 C, tốc độ gió là 32 km/h thì nhiệt độ cơ thể tụt
xuống điểm đóng băng.
- Ngay cả ở nơi có nhiệt độ cao hơn điểm đóng băng vẫn có thể xảy ra tình trạng “cóng chân” trong điều kiện ẩm ướt
nếu chân không được giữ khô ráo.
• Tác hại của bức xạ nhiệt:
Làm việc dưới ánh nắng trực tiếp của mặt trời, NLĐ trên công trường xây dựng bị ảnh hưởng bởi các tia bức xạ nhiệt hồng
ngoại. Tia hồng ngoại có khả năng gây bỏng và phồng rộp da, nó có thể xuyên quả hộp sọ, hun nóng tổ chức não, màng não
và gây các biến đổi làm con người bị say nắng. Tia hồng ngoại còn có thể gây bệnh đục nhân mắt sau nhiều năm tiếp xúc và
làm giảm dần thị lực và có thể dẫn tới mù lòa.
* Biện pháp phòng ngừa cho người lao động
NLĐ xây dựng công trình chủ yếu là làm việc ngoài trời. Do đó, họ phải chịu sự khắc nghiệt của thời tiết như nắng nóng về
mùa hè và gió lạnh về mùa đông.
+ Chăm sóc y tế trong điều kiện khí hậu nóng bức là yếu tố thiết yếu cho sức khỏe, trong đó việc sắp xếp thời gian biểu làm
việc rất quan trọng. Nên có:
- Những khoảng thời gian giải lao thích hợp: Đối với những công việc tương đối nặng nhọc, nhất thiết phải có tối
thiểu 50 % thời gian giải lao và nghỉ ngơi;
- Khu vực giải lao nên cách xa nơi làm việc và có gió mát. Cung cấp đầy đủ nước uống sạch và mát: uống nước
thường xuyên và mỗi lần chỉ nên uống một ít;
- Có thiết bị giặt giũ để luôn giữ quần áo sạch sẽ.
+NLĐ cũng nên học cách làm dịu mát cơ thể như:
- Tránh ánh mặt trời chiếu trực tiếp lên cơ thể đến mức tối đa;
- Tránh những vận động nhanh không cần thiết;
- Đảm bảo có thiết bị lưu thông không khí trong cabin điều khiển máy;
- Tránh mặc những quần áo chật, những quần áo làm bí hơi hoặc bí mồ hôi như được làm từ vật liệu plastic;
- Đội mũ bảo hộ lao động;
- Uống nước mát thường xuyên để bù đắp sự thất thoát mồ hôi;
- Thêm muối vào thực phẩm hoặc ăn những thực phẩm có muối tự nhiên;

- Nên nghỉ giải lao tại những nơi râm mát.
Về mùa đông, nếu không có các phương tiện bảo vệ cá nhân chống rét phù hợp thì NLĐ ban đầu sẽ cảm thấy lạnh,
sau đó họ sẽ bị “nhiễm lạnh” và kèm theo các hậu quả như viêm da, cước lạnh và viêm nhiễm đường hô hấp. Khi làm việc
trong điều kiện thời tiết lạnh NLĐ cần lưu ý những điểm sau:
- Chọn loại quần áo có thể cho phép các chất bài tiết bay hơi nhưng không để gió hay mưa có thể thấm vào (lưu ý:
quần áo đi mưa ngăn cản sự bay hơi các chất bài tiết). Tránh mặc quần áo dày làm vướng víu cử động khi làm việc


-

và nên mặc nhiều quần áo.
Có các trang thiết bị để có thể nấu ăn nóng, cất giữ hoặc sấy khô quần áo.
Chân và tay đặc biệt nhạy cảm với cái lạnh nên lưu ý bảo vệ.

Câu 7: Trình bày nguy cơ gây tạn nạn khi thi công phần ngầm công trình? Các biện pháp ngăn ngừa và giảm
thiểu tai nạn?
* Các nguy cơ gây tai nạn lao động khi thi công tường chắn đất tâng hầm công trình
- Tường vây tầng hầm bị sập đổ một phần hay hoàn toàn và đè vào những người công nhân đang làm việc ở dưới.
- Tai nạn lao động xảy ra trong lúc thi công hệ thống chống đỡ tạm của tường vây. Ví dụ như trong lúc cẩu các thanh
thép hình của hệ văng chống thì dây cáp bị đứt hay tuột, hoặc các thanh thép hình va đập vào công nhân,…v.v.
- Hệ văng chống tạm không đủ khả năng chịu lực và bị biến hình hoặc mất ổn định, dẫn tới cả hệ văng chống và tường
vây bị sụp đổ, gây tai nạn lao động. Khi đó, có thể đất xung quanh công trình sẽ sụp lở vào bên trong tầng hầm, làm
cho các công trình bên cạnh bị lún, nghiêng hoặc đổ, gây tai nạn cho cả những người và công trình khác.
- Công nhân làm việc hoặc leo trèo trên các thanh chống ngang của tường vây tầng hầm mà không đeo dây an toàn


hoặc không có dàn giáo nên có thể bị trượt ngã.
- Đáy tầng hầm bị nước ngầm đẩy và bị vỡ (cốt nước ngầm cao hơn cao trình đáy tầng hầm), gây tai

nạn lao động.


- Máy không hoàn chỉnh:
 Thiếu thiết bị an toàn hoặc có những đã bị hỏng, hoạt động thiếu chính xác, mất tác dụng tự động bảo vệ khi làm
việc quá giới hạn tính năng cho phép.
 Thiếu các thiết bị tín hiệu âm thanh, ánh sáng (đèn, còi, chuông).
 Thiếu các thiết bị áp kế, vôn kế, ampe kế, thiết bị chỉ sức nâng của cần trục ở độ vươn tương ứng...
- Máy đã hư hỏng:
 Các bộ phận, chi tiết cấu tạo của máy đã bị biến dạng lớn, cong vênh, rạn nứt, đứt gãy.
 Hộp số bị trục trặc làm cho vận tốc chuyển động theo phương ngang, phương đứng, xoay không chính xác theo điều
khiển của người vận hành.
 Hệ thống phanh điều khiển bị gỉ mòn không đủ tác dụng hãm.
Máy bị mất cân bằng ổn định
Do máy đặt hoặc di chuyển trên nền không vững chắc: nền yếu, nền dốc quá góc nghiêng cho phép khi cẩu hàng hoặc đổ vật
liệu, sát mép hố móng, vai nền đắp…. Ví dụ [3] trường hợp như hình 4.11, khi người công nhân đang đưa chiếc máy đào lên
thùng xe tải nhờ đi trên hai tấm ván.
- Cẩu nâng quá trọng tải.
- Tốc độ di chuyển, nâng hạ vật với tốc độ nhanh gây ra mômen quán tính, mômen ly tâm lớn. Đặc biệt hãm phanh
đột ngột gây ra lật đổ máy.
- Máy làm việc khi có gió lớn (trên cấp 6), đặc biệt đối với máy có trọng tâm cao.
._thiếu các thiết bị che chắn, rào ngăn nguy hiểm
_Sự cố tai nạn điện
_ Ánh sáng không hợp lý
_ Do người vận hành
_ Thiếu sót trong tổ chức, quản lý lao động:
* Biện pháp phòng tránh:Khi thi công phần công trình ngầm
+ việc tính toán để đảm bảo cho tường chắn đủ khả năng chịu được tải trọng ngang của nước ngầm, của đất và tải
trọng của các công trình bên cạnh phải do những kỹ sư đủ chuyên môn thực hiện.
+ Việc thi công cần thực hiện theo đúng các thiết kế đó thì mới tránh được sập đất hoặc sập tường chắn.
+ sử dụng máy móc thi công an toàn:
.Để đảm bảo an toàn khi làm việc, tất cả xe, máy và phương tiện vân chuyển khi sử dụng đều phải có trạng thái kỹ

thuật tốt và được kiểm tra trước khi vận hành. Đối với máy nâng chuyển, máy nén khí hay nồi hơi còn phải được thanh
tra Nhà nước cho phép sử dụng.
.Khi thiết kế quá trình công nghệ thi công, phải chuẩn bị nơi làm việc sao cho hoàn toàn đảm bảo an toàn khi làm
việc và phải có biển báo khi cần thiết. Mọi nơi làm việc phải được chuẩn bị sao cho công nhân không bị đe dọa
nguy hiểm từ các phần di động của máy, của vật liệu và từ phía máy khác cùng tham gia làm việc. Chỗ ngồi của thợ
lái hoặc chỗ làm việc phải thuận tiện, ổn định, dễ quan sát, không bị mưa nắng, đủ sáng và có hệ thống gạt nước. Nơi
làm việc phải được che chắn và sạch sẽ. Lối đi của công nhân phải chắc chắn, đủ rộng và có lan can an toàn.
.Trước khi đưa máy vào làm việc, cần xác định sơ đồ di chuyển, nơi đỗ, vị trí đứng, phương pháp nối đất với máy
có sử dụng điện và quy định phương pháp trông báo bằng tín hiệu giữa thợ lái và người xi nhan. Ý nghĩa của các tín
hiệu trong khi làm việc hay khi xe chuyển bánh phải được thông báo cho tất cả mọi người có liên quan biết rõ.
.Khi dịch chuyển máy, khi đỗ hoặc khi làm việc gần hố móng, mương, rãnh,…v.v. có mái dốc, cần bố trí máy nằm
trong giới hạn khoảng cách an toàn cho phép do thiết kế thi công quy định.
.Chỉ được bảo dưỡng kỹ thuật khi động cơ đã dừng hẳn (trừ khi nghe máy và điều chỉnh cơ cấu). Các công việc liên
quan tới giải phóng áp lực từ hệ thống nén khí và thủy lực hoặc các trường hợp khác đều phải tuân theo hướng dẫn của
nhà chế tạo ra máy quy định.
.Khi bảo dưỡng và sửa chữa, cần có trang bị phòng hộ cá nhân, ăn mặc gọn, đội mũ, chỉ sử dụng dụng cụ còn tốt. Khi
bảo dưỡng máy được dẫn động bằng điện, cần áp dụng biện pháp an toàn về điện theo quy định.
. Những cụm máy có khả năng tự di chuyển do khối lượng bản thân cần được chèn hay đặt trên giá.
. Không được dùng lửa ở khu vực nạp nhiên liệu, cũng như cấm dùng xe, máy bị chảy dầu hoặc chảy nhiên liệu.


.Việc tháo và lắp máy phải tiến hành theo sự chỉ huy của cán bộ có trách nhiệm và phải tuân theo ềhướng dẫn của
nhà máy chế tạo.
. Đối với các chi tiết nặng quá 80 kg, khi nâng hay di chuyển, phải dùng các phương tiện nâng chuyển phù hợp. Khu
vực tháo lắp máy phải được ngăn hay làm dấu hiệu an toàn kèm theo bảng báo đ phòng tai nạn.

Câu 8: Khái niệm ecgonomi ? Các giải pháp ecgonomi nhằm nâng cao sức khỏe người lao động?
a . Ecgônômi là môn khoa học liên ngành nghiên cứu tổng hợp sự thích ứng giữa phương tiện kỹ thuật và môi trường lao
động với khả năng của con người về giải phẫu, sinh lý và tâm lý nhằm đảm bảo cho lao động có hiệu quả, đồng thời bảo vệ
an toàn và tiện nghi cho con người trong quá trình làm việc.

b. Các giải pháp Egonomi nhằm nâng cao sức khỏe người lao động.:
* Các giải pháp Egonomi nhằm nâng cao sức khỏe người lao động bao gổm:
- Hạn chế các công việc đơn điệu, lặp đi lặp lại trong thời gian dài; Hạn chế tư thế lao động gò bó như ngồi hoặc đứng
trong thời gian dài, liên tục không gian làm việc chật hẹp; Rút ngắn thời gian làm việc đối với các công việc điều
khiển máy phức tạp đòi hỏi sự tập trung cao để hạn chế các căng thẳng thần kinh và giác quan.
- Tổ chức lao động theo nhóm là một cách nâng cao chất lượng công việc và cách tổ chức công việc linh hoạt có lợi
cho người sử dụng lao động và NLĐ. Hầu hết mọi người đều có nhu cầu cùng làm việc và hợp tác với nhau. Hợp tác
tốt trong công việc khiến mọi người hiểu biết nhau tốt hơn, tạo ra không khí làm việc vui tươi, tinh thần làm việc
thoải mái không khô cứng, gò bó.


-

Tổ chức thời gian, cường độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý. Thời gian làm việc không quá dài, không tổ chức làm
thông ca, thêm giờ thường xuyên dẫn đến mệt mỏi kéo dài.
- Thiết kế, bố trí mặt bằng công trường hợp lý, có lối đi lại cho các phương tiện giao thông, xe cấp cứu; Bố trí máy
xây dựng, kho chứa nguyên vật liệu, nhà ăn, trạm y tế, khu vệ sinh, phân xưởng phụ trợ hợp lý và an toàn.
- Làm vệ sinh thường xuyên khu vực làm việc, vệ sinh máy thiết bị; Phế liệu để vào đúng nơi quy định;
- Các thiết bị máy phải được chế tạo hoặc cải tiến cho phù hợp với kích thước của người Việt Nam. Máy phải được
thiết kế đảm bảo an toàn: các bộ phận chuyển động được che chắn, có các thiết bị tự động dừng khi có sự cố hoặc sai
quy trình vận hành.
• Các nút bấm, các tay điều khiển được bố trí ở những vị trí sao cho không bị nhầm lẫn khi
thao tác. Chỗ ngồi hoặc chỗ đứng phải có độ cao và chiều rộng thích hợp để khi thao tác không phải với tay quá cao
hoặc quá xa.
Khi chuyển hướng đi thì sử dụng chân chứ không xoay cột sống

Câu 9: Trình bày các quy tắc An toàn về phòng chống cháy nổ trên công trình xây dựng? Trình bày sự hiểu biết của
mình về một số loại chất cháy thông dụng.?
Trả lời:
Cần đảm bảo hai hệ thống là hệ thống phòng cháy và hệ thống chữa cháy hoạt động hiệu quả.

- Đối với hệ thống phòng cháy, cần nghiên cứu cho các công trường cụ thể, bao gồm các vấn đề về tổ chức cũng
như bảo quản và sử dụng các nguyên liệu, nhiên liệu hoặc vật liệu dễ cháy, nổ trên công trường.
- Đối với hệ thống chữa cháy, cũng cần nghiên cứu đối với mỗi công trường cụ thể sao cho nhanh chóng dập tắt
đám cháy, bảo vệ được con người, tài sản và công trình.
a) Về tổ chức công trường
* Kế hoạch phòng chống cháy, nổ.
Kế hoạch về phòng chống cháy, nổ là rất cần thiết đối với một công trường xây dựng. Dựa vào các điều kiện riêng của
công trình trong từng giai đoạn thi công mà đơn vị lập kế hoạch có: cách sử dụng và bảo quản các vật liệu dễ cháy, nổ;
thiết kế đường ra, vào công trường cũng như đường thoát người khi có cháy; lập ra hệ thống cảnh báo khi có cháy; chỉ ra
hệ thống phương tiện và trang thiết bị chữa cháy; thành lập đội chữa cháy nghĩa vụ; thiết lập các đường dây nóng tới các


đơn vị chữa cháy chuyên nghiệp; yêu cầu về trang thiết bị phòng hộ cá nhân; lên kế hoạch huấn luyện, tuyên truyền về
công tác phòng, chữa cháy trên công trường; và thiết kế các chương trình tập luyện giả định khi có cháy.
* Đường ra, vào, nơi đỗ xe và đường thoát người
Trên công trường xây dựng, đường ra, vào và nơi đỗ xe cũng như đường thoát người khi có cháy được thiết kế cùng với
tổng mặt bằng thi công. Lối thoát người nên có biển hoặc các ký hiệu chỉ dẫn rõ ràng đảm bảo cho mọi người trên công
trường hiểu việc họ phải làm khi có cháy là phải nhanh chóng thoát ra khỏi khu vực cháy. Khi có cháy, nếu có thể, phải
đảm bảo ít nhất có 2 hướng thoát ra ngoài khác nhau với khoảng cách tới chỗ thoát ra là ngắn nhất. Lối thoát này không
bao giờ bị khóa khi có người làm việc.
Các đèn báo cháy phải đặt dọc theo các hành lang hoặc đường thoát người và có độ sáng cao để người người làm việc có thể
nhận ra (không bị lẫn với ánh lửa) và đi theo chúng để thoát ra ngoài. Cầu thang nên sử dụng vật liệu khó cháy như bằng thép
có bọc nhựa cứng chống cháy.
Trong trường hợp có cháy, sau khi người đã thoát ra, phải đếm lại xem đã đủ số quân số chưa để khẳng định xem còn ai
chưa thoát ra ngòai hay không.
* Biện pháp hạn chế đám cháy lan rộng
Biện pháp này chủ yếu là thuộc về thiết kế quy hoạch, kiến trúc, kết cấu trong xây dựng: phân vùng xây dựng, bố trí phân
nhóm nhà cửa, công trình đúng đắn theo mức nguy hiểm cháy trong khu vực nhà máy, xí nghiệp, khu dân cư phù hợp với
điều kiện địa hình và khí tượng thủy văn.
* Bảo quản và sử dụng các vật liệu dễ bắt lửa

Luôn thực hiện đúng các qui định của nhà sản xuất hoặc cung cấp các vật liệu, nguyên liệu hoặc nhiên liệu liên quan tới các
qui định về phòng chống cháy, nổ.
Đối với các vật liệu nói chung mà không có các hướng dẫn cụ thể, công trường cần thiết kế và bố trí vật liệu tại các khu vực
theo qui phạm về phòng và chữa cháy.
* Hệ thống cảnh báo khi có cháy.
Hệ thống cảnh báo khi có cháy là những thiết bị có thể phát ra tín hiệu như âm thanh (còi hú, kẻng…) hoặc ánh sáng (đèn
nhấp nháy đỏ…) khi cháy xuất hiện. Đây có thể là các thiết bị tự động hoặc được điều khiển bởi con người (bấm nút, gõ
kẻng, đánh trống…). Dựa vào các tín hiệu này, những người làm việc có thể nhận ra ngay là có cháy trên công trường,
từ đó họ sẽ có hành động thích hợp như chữa cháy hoặc thoát ra khỏi khu vực cháy…
Thường xuyên kiểm tra hệ thống này để luôn đảm bảo rằng nó vẫn làm việc tốt. Đặc biệt lưu ý tới hệ thống cảnh báo tự
động cũng như hệ thống chuông, còi báo cháy dùng tay….v.v. Đối với hệ thống chuông hoặc còi báo cháy dung tay này,
nên bố trí chúng ở những vị trí dễ quan sát và vừa tầm với của con người nói chung.
* Công tác huấn luyện và tuyên truyền.
Đây là công tác chủ yếu để tạo ra ý thức về an toàn lao động nói chung và về phòng cháy và chữa cháy nói riêng đối với
những người làm việc trên công trường.Nếu công tác này làm không tốt, cháy hoặc nổ rất dễ xảy ra do những người làm
việc vi phạm những qui định bắt buộc về phòng chống cháy, nổ.
Trước khi bước vào một gia đoạn thi công nào đó, công tác tuyên truyền và huấn luyện cần được thực hiện đối với
những người làm việc, bao gồm: tổ chức huấn luyện cho cán bộ, công nhân, nhân viên phục vụ các quy định và kỹ thuật
an toàn phòng cháy chữa cháy; phổ biến các tiêu chuẩn và quy phạm kỹ thuật an toàn cháy cũng như các chỉ dẫn cần
thiết khi làm việc với các chất và vật liệu nguy hiểm cháy.
Trên công trường, có thể sử dụng các phương tiện thông tin tuyên truyền để phổ cập công tác phòng cháy và chữa cháy
tới người làm việc.
* Công tác kiểm tra, giám sát, chế tài và sử phạt.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng để phòng cháy trên công trường là công tác kiểm tra, giám sát và chế tài xử phạt
những trường hợp vi phạm qui định về phòng cháy và chữa cháy.
Khi công tác này làm không tốt, các nguy cơ về cháy có thể không được phát hiện kịp thời để có biện pháp đề phòng thích
hợp, và dẫn tới cháy trên công trường. Với các chế tài xử phạt quá nhẹ, ý thức về phòng cháy của những người làm việc trên
công trường đôi khi không được nâng lên, dẫn tới họ coi thường các qui định mà dẫn tới vi phạm.
Thường xuyên kiểm tra và giám sát công tác phòng cháy trên công trường. Đối với những trường hợp vi phạm, tùy
từng mức độ mà có thể nhắc nhở hoặc xử phạt theo các qui định của công trường. Theo kinh nghiệm của một số nước, chế



tài xử phạt người vi phạm có thể bằng một số tiền lớn, bằng giờ lao động hoặc cho nghỉ việc…Ngoài ra, người vi phạm
còn có thể bị truy tố trước pháp luật.

b. Về hệ thống chữa cháy trên công trường
Hệ thống chữa cháy trên công trường bao gồm thiết bị chữa cháy cố định (bình cứu hỏa treo tường, đường ống cấp
nước chữa cháy bằng gang cứng, hoặc hộp đựng cuộn ống chữa cháy bằng vải mềm,…) hoặc thiết bị chữa cháy di động
như máy nén khí để phun nước, các xe ôtô cứu hỏa,… Nếu hệ thống này bị trục trặc hoặc làm làm việc không hiệu quả khi
cháy xảy ra, trong nhiều trường hợp phải huy động các xe chữa cháy chuyên nghiệp từ xa đến, thì cơ hội để dập được lửa là
rất khó vì đám cháy rất có thể đã bước vào giai đoạn cháy to.
Nguyên lý để chữa cháy có hiệu quả đối với bất kỳ hệ thống chữa cháy nào đó là làm sao phải loại bỏ hoặc làm giảm tới
mức tối đa các thành phần trong tam giác của sự cháy – vật liệu cháy, nguồn nhiệt và oxy ở trạng thái tự do. Mặc dù vậy,
việc khống chế vật liệu cháy cũng như oxy trong nhiều trường hợp là khó (cháy do xăng, dầu). Do vậy, chủ yếu nguồn nhiệt
phải được khống chế.
Hệ thống chữa cháy trên công trường cũng phải được kiểm tra thường xuyên để đảm bảo luôn hoạt động tốt, đặc biệt là hệ
thống bể chứa, máy bơm, vòi dẫn nước…v.v. Hệ thống này nên đặt ở các vị trí dễ quan sát, dễ lấy, không cản trở đường
thoát người, và tránh mưa nắng cũng như sự phá hủy của môi trường xung quanh. Có thể sử dụng các sơ đồ, ký hiệu để
chỉ dẫn các vị trí đặt các phương tiện chữ cháy trên công trường hoặc cách sử dụng chúng. Đặc biệt, hệ thống các thiết bị
này phải được kiểm định của các cơ quan chức năng trước khi đưa vào sử dụng.
*Một số loại chất chữa cháy thông dụng:
Trước tiên, cần phân biệt 4 nhóm cháy (liên quan tới vật chất cháy), được ký hiệu là A, B, C và D, theo thông lệ quốc tế ,
như được thể hiện trong Hình 3.2
- Nhóm A: Cháy từ các vật chất như gỗ, giấy, vải, cao su và nhựa,….
- Nhóm B: Cháy từ các vật chất như xăng, dầu, gas, sơn,…
- Nhóm C: Cháy có liên quan đến điện.
- Nhóm D: Cháy liên quan tới các chất hóa học học dễ cháy như Natri, Mage, Nhôm,…..
Đối với Nhóm A, chất chữa cháy chủ yếu là nước, các chất hóa học ở dạng bột khô hoặc ướt. Đối với Nhóm B, chất chữa
cháy chủ yếu các chất hóa học ở dạng bột khô hoặc khí CO .
2

Đối với Nhóm C, chất chữa cháy chủ yếu các chất hóa học ở dạng bột khô hoặc khí CO2.
Đối với nhóm D, chất chữa cháy chủ yếu là các chất hóa học ở dạng bột.
* Nước
0
0
Nước là chất chữa cháy rẻ và phổ biến nhất. Nước là chất thu nhiệt lớn (1 lít nước đun từ 0 C đến 100 C đã hấp thụ 100
kcal và bốc hơi 530 kcal). Khi tưới nước vào chỗ cháy, nước sẽ bao phủ bề mặt cháy, hấp thụ nhiệt, hạ thấp nhiệt độ chất
cháy xuống dưới mức nhiệt độ bắt cháy. Nước bị nóng sẽ bốc hơi làm giảm lượng khí và hơi cháy, làm loãng ôxy trong
không khí, làm cách ly không khí với chất cháy, hạn chế quá trình ôxy hóa, do đó làm ngưng đám cháy.
Tưới nước vào đám cháy có thể thực hiện được bằng các vòi phụt mạnh hoặc phun với các tia nhỏ dưới dạng mưa. Các
vòi phụt mạnh có tốc độ lớn, sức phụt xa tập trung một lượng nước lớn lên một diện tích nhỏ. Ngoài tác dụng làm lạnh, vòi
nước phụt mạnh còn có tác dụng làm phân tách vật cháy ra những phần nhỏ, tách ngọn lửa khỏi vật cháy. Nên áp dụng các
vòi phụt mạnh để chữa các chất rắn có thể tích lớn, chữa các đám cháy ở trên cao và xa không đến gần được, những chỗ
hiểm

hóc, để làm nguội các máy móc và thiết bị.

Tưới nước dưới dạng mưa có tác dụng làm tăng bề mặt tưới và làm giảm lượng nước tiêu thụ, áp dụng để chữa cháy các
chất như than, vải, giấy, phôtpho, các chất rời rạc, chất có sợi, chất cháy lỏng và làm nguội bề mặt kim loại bị nung nóng.
Không được dùng nước chữa cháy các thiết bị có điện, các kim loại có hoạt tính hóa học như Na, K, Ca, đất đèn vì khi
đó, phản ứng hóa học xảy ra làm thoát ra khí cháy làm cho đám cháy bốc to hơn.
Không dùng nước chữa cháy các chất lỏng dễ cháy mà không hòa tan với nước như xăng, dầu hỏa vì nước có tỉ trọng lớn
hơn sẽ chìm xuống dưới, mất tác dụng bao phủ bề mặt cháy.
* Hơi nước


Hơi nước dùng để chữa cháy chỉ có hiệu quả ở chỗ không khí ít thay đổi, hoặc ở trong các buồng kín, đám cháy ngoài
trời nhưng diện tích nhỏ. Nồng độ hơi nước ở trong không khí làm tắt lửa vào khoảng 35% (theo thể tích).
Dùng hơi nước để chữa cháy ở các xưởng gia công gỗ, buồng sấy, trên tầu thủy v.v…, nếu ở đấy có trạm hơi và đường
ống dẫn đặc biệt để cung cấp hơi.

* Dung dịch nước muối
Để tăng cường tác dụng thu nhiệt của nước, người ta dùng các chất hóa học hòa vào nước để được các dung dịch muối
nặng. Các loại dung dịch muối được dùng phổ biến là amôniac phôtpho, clorua natri, clorua canxi, clorua amôni, kali
cacbônat, natri hiđrôcacbônat.
Muối hòa tan với nước sẽ làm tăng nhiệt độ sôi và bốc hơi so với nước thường. Muối rơi vào bề mặt cháy sẽ tạo ra một
màng cách ly, hấp thụ thêm một lượng nhiệt của chất cháy để phân tích chúng, đồng thời làm thoát ra khí trơ, vì vậy
làm tăng hiệu quả dập tắt đám cháy. Phương pháp sử dụng và phạm vi chữa cháy bằng dung dịch muối cũng như đối với
nước.
* Bọt chữa cháy
Các loại bọt chữa cháy phổ biến là bọt hóa học và bọt hòa không khí. Tác dụng chủ yếu của bọt chữa cháy là cách ly hỗn
hợp cháy với vùng cháy, ngoài ra còn tác dụng làm lạnh vùng cháy.
Bọt chữa cháy chủ yếu dùng để chữa cháy xăng dầu và chất lỏng cháy. Sử dụng bọt có bội số cao để chữa cháy hầm tầu,
tuy nen, hầm nhà. Cấm dùng bọt để chữa cháy các thiết bị có điện, chữa cháy các kim loại, đất đèn và đám cháy có nhiệt độ
0
cao trên 1700 C.
- Bọt hoá học
Bọt hóa học là loại bọt được tạo thành bởi hai phần chủ yếu: một phần là alumin sunfat Al (SO4) được gọi là phần
2
3
"A" còn phần kia là natri bicacbônat NaHCO được gọi là phần "B". Ngoài ra còn một số chất làm bền bọt như sắt
3
sunfat, bột cam thảo, v.v….
Khi chữa cháy, dung dịch "A" được trộn lẫn với dung dịch "B" tạo thành bọt theo phản ứng:
Al (SO4) + 6H O → 2Al(OH) + 2H SO
2
3
2
3
2 4
H SO + NaHCO

2 4
3

→ Na SO + 2CO + 2H O
2 4
2
2

Khi xảy ra phản ứng hóa học, alumin hiđrôxit tạo ra các màng mỏng và nhờ có CO mà tạo thành bọt. Bọt có tỉ trọng
2
0,11 - 0,22 g/cm

3

nên có khả năng nổi trên mặt chất lỏng. Thành phần của bọt có khoảng 80% khí CO , 19,7% nước, 0,3%
2
chất tạo bọt. Bọt hóa học có bội số từ 5 ÷ 8 lần. Bội số bọt là số lần tăng lên của thể tích bọt sinh ra so với thể tích ban đầu
của các chất tạo thành.
Ví dụ: Chất tạo bọt phần "A" là 5ml và phần "B" là 8ml, sau khi trộn lẫn vào nhau được 65ml bọt, như vậy bội số bọt là
65/8 + 5 = 5 lần.
Độ bền của bọt hóa học là 40 phút. Độ bền bọt là số thời gian cần thiết để phân hủy được 50% chất tạo bọt ban đầu. Bọt
hóa học được tạo trong các máy tạo bọt đặc biệt và đưa đến chỗ chữa cháy nhờ các đường ống lắp với máy tạo bọt.
Ngoài ra cũng còn các thiết bị di động dùng cho các đội chữa cháy chuyên nghiệp.
Bột hóa học còn được nạp vào các bình chữa cháy cầm tay khi không cần lượng bọt lớn.
- Bọt hoà không khí
Bọt hòa không khí là loại bọt được tạo thành bằng cách khuấy trộn không khí với dung dịch tạo bọt. Từ năm 1968 nước ta
đã sản xuất được bọt hòa không khí BN-70. Dung dịch tạo bọt BN-70 được chiết từ một loại quả có nhiều ở miền Bắc
nước ta. Thành phẩn chủ yếu là sabonin và nhựa quả chiếm 90%, còn các chất làm bền 8 ÷ 10%. Tỷ trọng của bọt hòa
3
không khí là 0,2 ÷ 0,005 g/cm . Độ bền bọt 20 phút. Cường độ phun bọt hòa không khí để chữa cháy xang dầu là 0,1 ÷

2
1,5l/m .s.


Ngoài bọt hòa không khí BN-70, ta cũng đã sản xuất được loại bọt T-70. Loại này có nhiều triển vọng làm loại bọt có
bội số cao. Chất tạo bọt được chiết trong chất prôtit của sản phẩm thải trong quá trình sản xuất công nghiệp thực phẩm.
Bội số bọt của loại này đạt từ tám đến mười lần, độ bền bọt lâu hơn, chất lượng bọt tốt hơn BN-70.
*Bột chữa cháy
Các chất bột khô chữa cháy là các chất rắn trơ dưới dạng bột: kali cacbônat, natri cacbônat, natri hiđrôcacbônat, cát khô
.v.v.
Tác dụng chữa cháy của chúng là bao phủ chất cháy bởi một lớp có độ dày nhất định, ngăn cách vùng cháy với chất cháy và
cản trở ôxy không khí lan vào vùng cháy.
Các loại bột chữa cháy thường dùng để chữa các chất cháy không dùng nước và các chất không bị dập tắt bởi các chất chữa
cháy khác. Dùng bột khô để chữa cháy kim loại kiềm và kiềm thô rất hiệu quả.
Các chất bột khô chữa cháy có thể phun vào đám cháy bằng khí nén từ các hệ thống cố định, các trạm di động hoặc các
dụng cụ chữa cháy cầm tay. Cường độ tiêu thụ bột cho một đám cháy là

2
6,2 ÷ 7 kg/m .s.

* Các loại khí trơ
Các loại khí dùng để chữa cháy là khí trơ gồm có khí cácbônic, nitơ, agon, hêli, hơi nước và những khí không cháy
khác. Tác dụng chữa cháy chủ yếu của các loại khí là pha loãng nồng độ chất cháy, ngoài ra, các loại khí còn có tác dụng
làm lạnh. Các loại khí phun vào đám cháy tạo ra nhiệt độ rất thấp (Ví dụ: khí CO phun ra dưới dạng tuyết có nhiệt độ
2
0
dưới -78 C).
Các loại khí chữa cháy có thể dùng để chữa cháy điện, chữa cháy chất rắn mà chữa cháy bằng nước sẽ bị hư hỏng, chữa
cháy chất lỏng và những đám cháy khác.
Không được dùng khí chữa cháy để chữa cháy các đám cháy mà chất cháy có thể kết hợp với khí chữa cháy tạo thành

những chất cháy nổ mới. Chẳng hạn không được dùng khí CO

để chữa cháy phân đạm, chữa cháy các kim loại kiềm,
2
kiềm thổ, các hợp chất tecmit, thuốc súng,…v.v. Để truyền khí trơ và hơi nước tới đám cháy có thể dùng các hệ thống cố
định, các trạm di động cũng như các bình chữa cháy cầm tay.
* Các loại hợp chất Halogen
Các chất halogen dùng để chữa cháy có hiệu quả rất lớn (Brometyl, Tetrclocacbon,…v.v.). Tác dụng chủ yếu của nó là ức
chế phản ứng cháy. Ngoài ra, halogen còn có tác dụng làm lạnh đám cháy. Các chất halogen dễ thấm ướt vào các vật
cháy, cho nên có thể dùng để chữa cháy các chất cháy khó thấm nước như bông, vải, sợi.
Nếu ta chữa cháy bằng khí CO thì nồng độ oxy của không khí trong đám cháy phải giảm xuống 14% ÷ 18% đám
2
cháy mới có thể dập tắt được. Còn khi chữa cháy bằng chất halogen thì nồng độ ôxi của không khí của đám cháy có thể
chỉ tới 20,6% đám cháy cũng đã dập tắt rồi. Các chất halogen đưa vào vùng cháy sẽ bị phân hủy, sản phẩm phân hủy sẽ
tiếp tục tham gia vào phản ứng cháy, kết hợp với các nguyên tử và phân tử gốc của hợp chất cháy làm thay đổi chiều phản
ứng cháy, từ phản ứng tỏa nhiệt sang phản ứng thu nhiệt, làm cho đám cháy nhanh chóng được dập tắt.

Câu 10: Hãy trình bày tác hại của bụi đến sức khỏe người lao động? Nêu các giải pháp ngăn ngừa và giảm thiểu tác
hại của bụi?
Trả lời: * Ảnh hưởng của bụi đến sức khỏe người lao động.:
Bụi có rất nhiều tác hại, đặc biệt có tác hại rất lớn đối với sức khỏe con người, đặc biệt là bụi hô hấp có khả năng thâm nhập
vào sâu trong đường thở. Đây là loại bụi nguy hiểm nhất đối với sức khỏe.
Bụi có thể gây ra nhiều loại bệnh như:


+ Bệnh dị ứng, viêm niêm mạc, nổi ban (bụi bông, gai và phân hóa học);
+ Bệnh gây nhiễm độc chung (chì, thủy ngân hoặc benzen...v.v.);
+ Bệnh nhiễm trùng (bụi bông, tóc và vi khuẩn);
+ Bệnh xơ phổi – còn gọi là bệnh silicos (bụi ôxyt silic SiO2 hoặc bụi amiăng);
+ Bệnh ung thư (bụi quặng phóng xạ hoặc hợp chất crôm…v.v.).

Ảnh hưởng độc hại của các loại chất ô nhiễm này đối với con người và động vật phụ thuộc vào tính chất hóa học và lý
học của chúng. Chúng có thể gây kích thích và gây các bệnh về đường hô hấp, về mắt hoặc bệnh ngoài da,...v.v. Ở những
mức độ nhất định, chúng có thể làm nặng thêm các bệnh hô hấp mãn tính, hen, giảm chức năng phổi và tăng nguy cơ ung thư
phổi. Bụi có chứa hàm lượng SiO2 cao sẽ ra bệnh bụi phổi silicosis. Bụi bông gây ra bệnh byssinosis. Ngoài ra, trong bụi
khí thải có thể chứa một số kim loại nặng. Trong quá trình phát tán, chúng sẽ lắng đọng gây ảnh hưởng xấu cho động, thực
vật và qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Ngoài ra, bụi còn gây nên các bệnh ở đường hô hấp như viêm mũi, viêm họng, viêm phế quản, gây bệnh ngoài da, gây chấn
thương mắt, gây bệnh ở đường tiêu hóa và bụi còn gây nguy cơ cháy nổ.
* Các giải pháp ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại của bụi.
Sau đây là một số biện pháp hạn chế sự ô nhiễm do bụi vào môi trường không khí trên công trường xây dựng:
+ Có kế hoạch thi công và kế hoạch cung cấp vật tư hợp lý, hạn chế việc tập kết vật tư tập trung vào cùng một thời điểm,
tránh hiện tượng hạng mục thi công sau ảnh hưởng tới các hạng mục thi công trước.
+ Các kho chứa vật liệu và cát lớn hơn 20 m3 sử dụng để sản xuất bê tông cần được xây dựng tường hoặc quây cót xung
quanh sao cho cao hơn đống vật liệu và mở rộng về phía trước đống vật liệu. Xi măng và các vật liệu hạt mịn khác nếu được
tập kết với khối lượng lớn phải được chứa trong bồn chứa hoặc kho kín.
+ Trạm máy đập nghiền đá, trạm trộn bê tông, trạm nấu nhựa đường hoặc kho vật liệu rời,v.v. ở trên công trường thì phải bố
trí xa những chỗ làm việc khác và nên ở cuối hướng gió chủ đạo.
+ Đối với các xe vận tải chuyên chở vật liệu xây dựng, sàn xe phải được lót kín, phía trên phủ bạt và tránh rơi vãi. Chủ các
phương tiện vận tải phải chịu trách nhiệm về việc làm rơi vãi vật liệu ra đường khi vận chuyển.
+ Tổ chức các đội chuyên trách thu dọn các vật liệu rơi vãi xung quanh khu vực công trường và các khu vực lân cận. Mỗi
đội thu gom gồm 3 người, tiến hành thu gom 3 lần/ngày.
+ Sử dụng vật liệu san lấp có độ ẩm cao (sử dụng cát có độ ẩm từ 50 ÷ 60% để san nền). Trong quá trình san nền, san đến
đâu lu đầm kỹ mặt bằng đến đấy.
+ Trong những ngày nắng nóng, hanh khô, thường xuyên phun nước tại khu vực công trường xây dựng để hạn chế một phần
bụi đất, cát có thể theo gió lan tỏa vào không khí.
+ Tăng tầng đến đâu, che chắn đến đó bằng vải bạt hoặc ván ép.
+ Việc chuyển phế liệu xây dựng từ trên cao xuống sẽ sử dụng các hộp ghen hoặc thùng chứa. Các thùng chứa đều được đậy
nắp bằng vải nylon hoặc bằng vải bạt để tránh bụi bốc lên cao khi đổ phế liệu xây dựng xuống hoặc bị gió cuốn lên cao. Xe
chở phế thải cần được chuyển đi nhanh, tránh ùn tắc và tồn đọng trên công trường, có thể làm rơi vãi vào hệ thống cống
rãnh.

+ Thực hiện nguyên tắc thi công và vận chuyển theo hình thức cuốn chiếu, thực hiện trọn gói từng đoạn, từng phần và từng
hạng mục. Xây dựng xong đến đâu tiến hành vệ sinh và thu dọn hiện trường ngay đến đó.
+ NLĐ cần được trang bị và sử dụng phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp như khẩu trang, mặt nạ, bán mặt nạ, mặt trùm, găng
tay và quần áo,...v.v. Khi lựa chọn các phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp, cần đặc biệt chú ý đến khả năng cản được cỡ hạt
bụi nhỏ hơn.

Câu 11: Trình bày các nguy cơ gây tai nạn điện trên công trường?
Trả lời:
Tai nạn điện xảy ra khi người trở thành vật dẫn điện. Các trường hợp chủ yếu như tiếp xúc trực tiếp với bộ phận mang điện
(người có thể tiếp đất hoặc không tiếp đất), phóng điện hồ quang, điện áp bước. Dưới đây là một số nguy cơ tai nạn điện
thường gặp.
- Dòng điện rò


Các bộ phận kim loại(vỏ máy.) của máy móc, thiết bị lúc làm việc bình thường có thể bị chạm mát do có dòng điện rò, khiến
người làm việc thường xuyên phải tiếp xúc với bộ phận đó bị điện giật. Nguyên nhân sự cố có thể là do chất cách điện bị hư
hỏng, không thực hiện nối đất, nối không bảo vệ cho thiết bị điện hoặc có nhưng không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.
Dòng điện rò ra đất, nước do hỏng chất cách điện của đường dây tải điện chôn ngầm tại chỗ đặt vật nối đất (thiết bị điện,
biến thế điện....), dây điện đứt, phần mang điện chạm đất gây ra điện áp bước (Sự chênh lệch điện áp trong khoảng bước
chân người).
- Tiếp xúc trực tiếp với các bộ phận mang điện hở
Người tiếp xúc phải dây điện trần không có vỏ cách điện, mối nối dây điện hở, cầu giao, cầu chì, các bộ phận dẫn điện của
thiết bị để hở,…v.v. thì có thể bị giật.
Khi sửa chữa, lắp đặt thiết bị điện, mặc dù đo cắt nguồn nhưng người
khác vì lý do nào đó mà đóng điện bất ngờ dẫn đến tai nạn.
Khi sữa chữa điện không cắt điện mà không sử dụng các dụng cụ phương tiện thích hợp.
- Dùng điện quá tải: Gây chập, cháy điện và các thiết bị dùng điện.
- Phóng điện hồ quang
Đối với điện cao áp, sự nguy hiểm không những chỉ xảy ra khi người tiếp xúc vào dây điện mà khi một bộ phận nào đó của
cơ thể hoặc máy tiến sát đường dây hoặc trạm biến áp, khi đó, có thể xuất hiện sự phóng điện hồ quang, gây ra bang hoặc

cháy.
Đặc biệt, trong môi trường ẩm ướt, rất dễ xảy ra hiện tượng phóng điện hồ quang. Thực tế khi xây dựng các công trình gần
đường điện dây trần có điện áp lớn hơn 6 KV, đo có những tai nạn làm chết người do gặp phải hiện tượng này.
- Hiện tượng sét
Sét là hiện tượng phóng điện tĩnh điện trong khí quyển giữa đám mây dông mang điện tích trái dấu. Sự hình thành các đám
mây điện từ trong khí quyển là một quá trình phức tạp. Tuy nhiên, ự phóng điện giữa đám mây ở trên cao và đám mây điện
từ ở mặt đất là vấn đề rất đáng quan tâm vì khi đó có thể có những hậu quả nghiêm trọng.
Dòng điện tích chuyển dời (mang ion dương) về phía đám mây điện từ ở gần mặt đất gồm các ion âm. Dòng ion dương
chuyển dời về âm cực rất nhanh (phóng điện) phát ra ánh sáng chói, với cường độ dòng điện cực lớn có thể đạt đến hàng
trăm ngàn ămpe, điện áp hàng triệu vôn, nhiệt độ tia chớp có thể đạt tới trị số hàng nghìn độ.
Hậu quả của phóng điện sét:
+ Dòng sét có nhiệt lượng lớn khi phóng vào các vật liệu cháy được và đặc biệt là vật liệu dễ cháy có thể gây các đám cháy
lớn (các công trình làm bằng vật liệu nói trên).
+ Do điện sinh nhiệt lượng cao có thể làm không khí hoặc hơi nước giãn nở tức thời bên trong kết cấu công trình hay lõi cây,
gây sập đổ công trình, cây cối.
+ Do điện áp cao, dòng điện sét khi truyền qua người, súc vật hoặc đánh xuống đất gây điện áp bước làm nạn nhân bị chết.
+ Sét có thể đánh vào các vật dẫn điện kéo dài như đường dây điện, dây điện thoại, đường sắt,...v.v. và có thể được tải điện
năng đi xa và gây nguy hiểm cho người thiết bị và công trình ở xa.
- Do tĩnh điện
Tĩnh điện xảy ra do cọ xát giữa các vật cách điện với nhau hoặc giữa vật dẫn và không dẫn với nhau. Hiện tượng tĩnh điện là
kết quả của những quá trình phức tạp. Tuy nhiên, có thể hiểu tĩnh điện tạo nên các đám mây điện từ trái dấu trong không gian
lân cận. Khi có các ion trái dấu tích tụ đến mật độ đủ lớn và khoảng cách đủ gần thì có thể xảy ra phóng tia lửa điện trần.
Nếu môi trường có hơi và khí thì dễ tạo ra trong không khí hỗn hợp nổ hoặc cháy nguy hiểm.
Trong sản xuất, có thể xảy ra tĩnh điện do:
+ Sự va đập, cọ sát của chất lỏng (xăng hoặc dầu) với thành bể, thành bình chứa, thành ống dẫn.
+ Khi nghiền nhỏ các vật rắn cách điện hoặc khi vận chuyển các hỗn hợp vật liệu trong đường ống.
+ Cọ sát của đai truyền lên trục quay (dây curoa và trục truyền).
Có thể tĩnh điện là nguyên nhân gây ra cháy, nổ, hoặc tĩnh điện tạo nên sự sợ hãi, giật mình, là nguyên nhân gián tiếp gây tai
nạn lao động (ngã cao,…v.v.), ảnh hưởng xấu đến tâm lý của người lao động.
- Không nắm vững phương pháp cấp cứu tai nạn điện. Nhiều tai nạn điện được phân tích cho thấy, chết người có thể không

xảy ra nếu có phương pháp cấp cứu thích hợp. Do vậy, phương pháp cấp cứu tai nạn điện khi huấn luyện An toàn và Vệ sinh
lao động phải được phổ biến kỹ càng đến các thành viên trong hệ thống sản xuất.


Câu 12: Nêu ảnh hưởng của các chất độc hại đến sức khỏe người lao động? Trình bày các giải pháp phòng ngừa tác
hại của chúng tới sức khỏe người lao động?
Trả lời: *ảnh hưởng của các chất độc hại đến sức khỏe người lao động
Có rất nhiều loại hóa chất được sử dụng trong xây dựng bao gồm hóa chất có trong các chất dán, chất làm sạch gạch đá, chất
trang trí và bảo vệ gỗ, thép, các chất xử lý bề mặt, chống nấm mốc, chất cách ly, dung môi, sơn, xi gắn, vữa, xi măng và rất
nhiều loại vật liệu khác. Trong đó, dung môi là chất đặc biệt quan trọng, sử dụng phổ biến trong các chất sơn, đánh bóng,
phủ bề mặt, mài và các chất tẩy rửa.


Nhiều hóa chất rất nguy hiểm, có thể gây cháy nổ hoặc nhiễm độc. Các chất độc không chỉ gây ra những ảnh hưởng khó chịu
tức thời như chóng mặt, nôn mửa và đau đầu do nhiễm độc dung môi, mà còn có thể dẫn đến các hậu quả mãn tính.
Ngoài hóa chất còn có các loại hơi khí độc khác, ví dụ như khí thải từ các thiết bị máy sử dụng trong xây dựng có thể có
chứa các loại hơi khí độc như khí dioxit sunfua (SO2), khí monoxit cacbon (CO), khí cacbonic (CO2), khí oxit nitơ
(NOx).v.v.; Vật liệu nội thất có thể chứa khí formaldehyde hoặc các hợp chất hữu cơ bay hơi.
*Các giải pháp phòng ngừa tác hại của chúng tới sức khỏe người lao động
* Một số biện pháp kỹ thuật
Biện pháp đầu tiên được thực hiện là biện pháp cách ly, che chắn để ngăn chặn hơi khí và hóa chất độc hại thoát ra MTLĐ.
Ví dụ: làm kín các vị trí rò rỉ trên hệ thống vận chuyển vật liệu rời bằng băng tải, gầu tải, bao kín các vị trí rót, đổ vật liệu.
Thiết kế các buồng làm việc dùng cho các công đoạn như buồng phun cát trong công đoạn đánh gỉ, làm sạch bề mặt; bàn
phá khuôn đúc; buồng phun sơn,...v.v. Các thùng hóa chất phải được lưu giữ trong một nhà kho tách biệt và an toàn và phải
đảm bảo có nhãn hiệu trên mỗi thùng chứa. Nếu không có nhãn hiệu, tuyệt đối không được sử dụng vật liệu chứa bên trong.
Tổ chức thu hồi các chất gây ô nhiễm ngay tại nguồn phát sinh, không để chúng lan tỏa rộng là yếu tố cơ bản để ngăn chặn sự tiếp xúc
giữa các yếu tố độc hại và NLĐ. Cấu tạo và vị trí lắp đặt các cơ cấu thu hồi chất ô nhiễm cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
+ Chụp kín nguồn phát sinh ô nhiễm;
+ Vị trí lắp đặt càng gần nguồn ô nhiễm càng tốt;
+ Vận tốc thu hồi bụi và hơi khí độc hại phải đủ lớn;

+ Các chụp hút không được cản trở thao tác công nghệ;
+ Không khí chứa chất ô nhiễm đi vào chụp hút không được đi qua vùng thở của người thao tác.
Để giảm thiểu sự ô nhiễm gây ra do khí thải của các phương tiện giao thông vận tải, có thể áp dụng các biện pháp sau:
+ Thay đổi nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp hơn để giảm lượng khí SO2 phát sinh;
+ Sử dụng nhiên liệu đúng với thiết kế của động cơ;
+ Không được chở quá trọng tải quy định;
+ Hạn chế dùng xe sử dụng dầu diezen để giảm thiểu phát thải khí SO2; và Tăng cường bảo dưỡng (trung bình 1lần/quý) và
đánh giá chất lượng khí thải của xe, khuyến khích việc không sử dụng xe đã quá niên hạn sử dụng, sử dụng động cơ tuôcbin
khí hoặc động cơ điện,…v.v.
* Một số biện pháp phòng ngừa đối với NLĐ
Hãy đọc kỹ và chắc chắn là người làm việc hiểu rõ những điểu ghi trên nhãn hiệu bao gói hóa chất và tuân theo các chỉ dẫn
đó. Nếu bạn không đủ thông tin để biết sử dụng hóa chất một cách an toàn, hãy yêu cầu người quản lý cung cấp bản dữ liệu
an toàn của hóa chất đó. Trong trường hợp không hiểu, không được sử dụng hóa chất đó.
Kiểm tra xem đã đủ phương tiện bảo vệ cá nhân phù hợp chưa trước khi sử dụng hóa chất (bản giữ liệu an toàn hóa chất sẽ
chỉ dẫn cho người sử dụng biết xem có cần sử dụng găng tay, kính, quần áo bảo hộ, ủng cao su hay bình dưỡng không khí)
và các trang bị có được bảo quản cẩn thận hay không.
Khi mở thùng chứa hóa chất, nên lót giẻ vào nắp hay quai thùng vì một số chất lỏng dễ bay hơi có thể bắn ra ngoài khi thùng
được mở; rót vật liệu chứa trong thùng ở nơi thoáng khí. Khi cảm thấy chóng mặt hoặc khó chịu, phải rời khỏi nơi làm việc
ngay lập tức.
+ Nếu sử dụng nhiều chất dung môi, phải sử dụng quần áo chống thấm. Nếu áo quần bị dung môi làm ướt, phải thay bộ khác
và phơi khô nơi thoáng gió.
+ Chỉ sử dụng một lượng hóa chất tối thiểu vừa đủ cho công việc.
+ Nên đeo kính bảo vệ mắt khi rót hoặc di chuyển hóa chất trên công trường.
+ Khi trộn hoặc rót hóa chất, cần sử dụng những loại thùng đựng tạm, phải đảm bảo các thùng đó phù hợp và có nhãn hiệu
đúng. Không dùng loại bao bì đựng đồ ăn thức uống để chứa hóa chất.
+ Nếu phát hiện thấy hóa chất loang ra thành vũng trên nền, cần báo cáo ngay để có biện pháp xử lý đúng như đổ cát khô lên
để thấm.
+ Rửa tay trước khi ăn và không ăn uống hoặc hút thuốc lá tại nơi làm việc.
+ Nếu hóa chất dây vào da, phải xối nước rửa sạch ngay. Nếu bị dây vào mắt, phải rửa thật kỹ và sau đó phải chú ý theo dõi
và chăm sóc cẩn thận.

+ Nếu bị bỏng hóa chất hoặc cảm thấy khó chịu sau khi sử dụng hóa chất, cần phải đi khám ngay không chậm trễ.


Rất nhiều loại hóa chất sử dụng trên các công trường vừa độc hại vừa dễ cháy. Khi vận chuyển hay sử dụng chúng cần hết
sức lưu ý những điểm sau:
+ Nghiên cứu nhãn hiệu hóa chất và những hướng dẫn sử dụng cũng như các biện pháp sơ cứu ghi trong bản dữ liệu về loại
hóa chất đó.
+ Lưu ý rằng tất cả những chất lỏng dễ cháy đều có thể bốc hơi bay đi khắp nơi và rất dễ bắt lửa. Tuyệt đối không hút thuốc
lá trong khu vực có những hóa chất dễ cháy. Tìm hiểu cách xử lý khi xảy ra hỏa hoạn.
+ Giữ các thùng chứa trong kho khi chưa sử dụng tới và phải gửi trả lại kho ngay sau khi dùng xong. Các thùng phuy phải
được dựng đứng lên.
+ Xử lý các phuy rỗng giống như với thùng đầy vì trong thùng rỗng vẫn còn khí có thể bị cháy.
+ Luôn luôn rót vật liệu từ thùng to sang thùng nhỏ ở nơi thoáng khí.
+ Dùng vòi rót và phễu để phòng tránh việc hóa chất có thể loang ra. Thấm khô các vết loang bằng cát khô, sau đó chuyển số
cát đó tới nơi an toàn và thoáng gió.
+ Nếu bắt buộc phải sử dụng hóa chất dễ cháy tại nơi kín, phải đảm bảo cung cấp đủ không khí sạch. Có thể làm điều đó
bằng cách mở toang các cửa sổ và cửa ra vào. Nếu cần dùng quạt thì phải chắc chắn quạt đó an toàn về điện trong môi
trường không khí dễ cháy.

Câu 13: Các quy tắc an toàn sử dụng máy và thiết bị trên công trường
1.

Để đảm bảo an toàn khi làm việc, tất cả xe, máy và phương tiện vân chuyển khi sử dụng đều phải có trạng thái kỹ

2.

thuật tốt và được kiểm tra trước khi vận hành. Đối với máy nâng chuyển, máy nén khí hay nồi hơi còn phải được
thanh tra Nhà nước cho phép sử dụng.
Khi thiết kế quá trình công nghệ thi công, phải chuẩn bị nơi làm việc sao cho hoàn toàn đảm bảo an toàn khi làm
việc và phải có biển báo khi cần thiết. Mọi nơi làm việc phải được chuẩn bị sao cho công nhân không bị đe



3.

dọa nguy hiểm từ các phần di động của máy, của vật liệu và từ phía máy khác cùng tham gia làm việc. Chỗ ngồi
của thợ lái hoặc chỗ làm việc phải thuận tiện, ổn định, dễ quan sát, không bị mưa nắng, đủ sáng và có hệ thống gạt
nước. Nơi làm việc phải được che chắn và sạch sẽ. Lối đi của công nhân phải chắc chắn, đủ rộng và có lan can an
toàn.
Trước khi đưa máy vào làm việc, cần xác định sơ đồ di chuyển, nơi đỗ, vị trí đứng, phương pháp nối đất với

4.

máy có sử dụng điện và quy định phương pháp trông báo bằng tín hiệu giữa thợ lái và người xi nhan. Ý nghĩa của
các tín hiệu trong khi làm việc hay khi xe chuyển bánh phải được thông báo cho tất cả mọi người có liên quan biết
rõ.
Khi dịch chuyển máy, khi đỗ hoặc khi làm việc gần hố móng, mương, rãnh,…v.v. có mái dốc, cần bố trí máy nằm

5.

trong giới hạn khoảng cách an toàn cho phép do thiết kế thi công quy định.
Chỉ được bảo dưỡng kỹ thuật khi động cơ đã dừng hẳn (trừ khi nghe máy và điều chỉnh cơ cấu). Các công việc liên

6.

quan tới giải phóng áp lực từ hệ thống nén khí và thủy lực hoặc các trường hợp khác đều phải tuân theo hướng dẫn
của nhà chế tạo ra máy quy định.
Khi bảo dưỡng và sửa chữa, cần có trang bị phòng hộ cá nhân, ăn mặc gọn, đội mũ, chỉ sử dụng dụng cụ còn tốt.

7.
8.

9.

Khi bảo dưỡng máy được dẫn động bằng điện, cần áp dụng biện pháp an toàn về điện theo quy định.
Những cụm máy có khả năng tự di chuyển do khối lượng bản thân cần được chèn hay đặt trên giá.
Không được dùng lửa ở khu vực nạp nhiên liệu, cũng như cấm dùng xe, máy bị chảy dầu hoặc chảy nhiên liệu.
Việc tháo và lắp máy phải tiến hành theo sự chỉ huy của cán bộ có trách nhiệm và phải tuân theo hướng dẫn của

10.

nhà máy chế tạo.
Đối với các chi tiết nặng quá 80 kg, khi nâng hay di chuyển, phải dùng các phương tiện nâng chuyển phù hợp.
Khu vực tháo lắp máy phải được ngăn hay làm dấu hiệu an toàn kèm theo bảng báo đề phòng tai nạn.

Câu 14: Nguy cơ gây tai nạn khi thi công đất đá:
a. Khi thi công đất và khai thác đá
Khi thi công đất như đào hố móng, giằng móng,…v.v., tùy từng trường hợp cụ thể mà người làm việc hoặc máy thi công
có thể phải đào hố, hào có mái dốc hoặc có thành thẳng đứng. Hố hoặc hào đó có thể nông hoặc sâu. Trạng thái đất có thể
là đất rời, đất dính hoặc đất cứng. Hố đào có thể không hoặc phải gia cố thành hố,…v.v.
Các nguy cơ gây tai nạn khi thi công đất có thể được phân thành các nhóm sau:
* Do sụp lở hố đào


- Hố (hào) có vách thẳng đứng với chiều cao vượt quá chiều cao giới hạn đối với từng loại đất.
- Hố (hào) đào có mái dốc với góc nghiêng vượt quá góc nghiêng cho phép đối với từng loại đất.
- Một số trường hợp như trong quá trình đào hố hoặc hào, vách đất vẫn còn ổn định. Nhưng qua thời gian, đất bị ẩm
ướt do mưa hay nước ngầm làm cho lực dính hay lực ma sát giữa các hạt đất bị giảm, do đó vách đất bị sụp, lở.
- Vách đất còn có thể bị sụp, lở do tác động của ngoại lực như: Vật liệu hoặc đất đào lên được chất thành đống gần
mép hố; Hố (hào) gần đường giao thông có thể bị lực chấn động do các phương tiện vận chuyển qua lại.
- Đối với hố (hào) có vách thẳng đứng được gia cố, nếu lắp dựng hoặc tháo dỡ kết cấu chống vách không đúng theo
biện pháp thi công đã được lập thì có thể làm mất tác dụng của hệ chống đỡ hoặc gây chấn động mạnh và làm cho

đất sụp, lở.
* Do đất đá lăn, rơi xuống hố đào
- Đất đào lên đổ sát mép hố (hào) mà không có ván chắn. Hình 4.16 cho thấy hình ảnh đất đào lên nhưng đổ quá sát
mép hố và không có ván chắn đất tại mép hố. Do đó, có thể đất sẽ rơi xuống hố đào và gây chấn thương cho người
làm việc.
- Phương tiện vận chuyển qua lại bờ hố (hào) làm rơi vãi hoặc hất đất (đá) xuống hố.
* Người làm việc bị trượt ngã xuống hố đào
- Lên hoặc xuống hố (hào) sâu mà không có thang hoặc không tạo bậc ở vách đất của hố (hào).
- Leo trèo trên các kết cấu chống vách đất
- Bị ngã khi làm việc trên mái dốc mà không đeo dây an toàn.
- Hố (hào) ở trên hoặc gần đường qua lại mà không có rào ngăn, không có cầu hoặc ván bắc qua, ban đêm không có
đèn báo hiệu.
* Người làm việc bị nhiễm hơi khí độc
Người làm việc bị ngạt do hơi hoặc khí độc thường gặp khi đào các hố sâu hoặc đào đất tại các vị trí như gần các bãi rác
cũ lâu năm, các bờ kênh hoặc mương nước thải,..v.v. Hơi hoặc khí độc như khí các-bô-níc, mê-tan,…v.v. có thể xuất
hiện bất ngờ trong khi đào đất tại các khu vực đó.
* Chấn thương khi nổ mìn
- Tính toán sai phạm vi an toàn khi thi công nổ mìn.
- Đánh giá sai đặc điểm địa chất và kết cấu của đất ở khu vực cần nổ mìn, đặc biệt là tại các vùng núi cao. Do đó, khi
nổ mìn thì đất (đá) xung quanh (hoặc ở các vùng núi xung quanh) bị rung động và trượt hoặc lăn xuống người làm
việc ở dưới.
- Vi phạm quy định an toàn khi nổ mìn như nhồi thuốc, đặt kíp mìn và xử lý mìn câm, …v.v.
- Sức ép không khí lên cơ thể người quá lớn do trú ẩn gần nơi mìn nổ.
- Đất (đá) văng hoặc bắn vào người khi mìn nổ.
* Các nguy cơ khác
Trong lòng đất, có rất nhiều vị trí có bom, mìn còn sót lại từ thời chiến tranh, hoặc là nơi chôn đường dây cáp điện hoặc
các đường ống ngầm. Có thể trong quá trình đào đất, máy hoặc người làm việc sẽ bị tai nạn trong trường hợp này.
Các quy tắc an toàn khi thi công đất và phần ngầm công trình
a. Khi thi công đất và khai thác đá
* Đề phòng sụp, lở hố đào

Để đề phòng vách đất bị sụp, lở khi đào hố (hào), có thể phân ra 3 trường hợp sau:
- Đào hố (hào) có vách hố thẳng đứng mà không sử dụng hệ gia cố và chống vách đất:
+ Chỉ được đào hố (hào) với vách hố thẳng đứng ở đất nguyên thổ, có độ ẩm tự nhiên, không có mạch nước ngầm và xa
các nguồn chấn động với chiều sâu nhỏ hơn hoặc bằng chiều sâu tới hạn mà Tiêu chuẩn xây dựng đã qui định.
Theo TCVN-5308-1991 thì chiều sâu tới hạn của hố (hào) có vách thẳng đứng đối với một số loại đất được
quy định như sau:
 Không quá 1 m đối với đất cát và đất tơi xốp hoặc đất mới đắp;
 Không quá 1,25 m đối với đất pha cát (á cát);
 Không quá 1,5 m đối với đất pha sét (á sét) và đất sét;
 Không quá 2 m đối với đất rất cứng khi đào phải dùng xà beng hoặc cuốc chim.
+ Trong các trường hợp khác thì hố (hào) phải được tính toán chiều sâu tới hạn (H ), gia cố thành hố (chống
th
vách đất) suốt chiều cao hố hoặc đào hố có mái dốc.
+ Theo tài liệu về Cơ học đất và nền móng, có nhiều công thức để tính toán chiều sâu tới hạn hố đào, ứng với các
loại đất khác nhau.:


4.Cu
Hth =
F .γ
s
2
Trong đó: C là độ bền kháng cắt không thoátt nước của đất (T/m )
u
F là hệ số an toàn, thường lấy bằng 1.2
s
3
γ là dung trọng của đất (T/m )
- Công tác gia cố thành hố đào được tính toán căn cứ vào kết quả thí nghiệm về cấu tạo địa chất, lựa chọn vật liệu
để gia cố như gỗ hoặc thép, cấu tạo hệ chống đỡ và sơ đồ áp lực đất tác dụng vào hệ gia cố này. Kỹ sư xây dựng

có thể phải căn cứ vào các tài liệu về Cơ học đất và nền móng để tính toán cụ thể và an toàn.
- Khi đào hố, hào sâu bằng máy ở nơi đất dính, có độ chặt cao thì cho phép đào vách đất thẳng đứng sâu tới 3 m,
nhưng không được có người ở dưới. Nếu cần có người làm việc ở dưới thì chỗ có người phải chống vách hoặc đào
thành mái dốc.
- Trong suốt quá trình thi công, phải thường xuyên xem xét tình hình ổn định vững chắc của vách hố (hào). Nếu
thấy ở trên vách có các vết rạn nứt có thể bị sụp, lở thì phải ngừng ngay công việc, công nhân phải lên khỏi hố
(hào) ngay và có biện pháp kịp thời chống đỡ chỗ đó hoặc phá cho đất chỗ đó sụp, lở luôn để tránh nguy hiểm sau
này.
Khi đào hố (hào) sâu với vách đứng, tuyệt đối không được đào kiểu hàm ếch
* Đào hố (hào) với vách hố thẳng đứng và có chống vách:
- Khi đào hố (hào) ở những nơi đất đã bị xáo trộn (đất đắp hoặc đất đã được làm tơi trước), mức nước ngầm cao và vách
đào thẳng đứng thì phải chống vách đất. Có nhiều phương pháp chống vách đất như dùng ván gỗ, ván cừ larsen,…v.v. , tuy
nhiên trong phần này chỉ đề cập tới việc chống vách đất bằng ván gỗ. Dùng ván dày 4 ÷ 5 cm, đặt chúng nằm ngang áp
sát vào vách đất theo mức đào sâu dần, phía ngoài có cọc giữ thẳng đứng với các văng chống ngang. Hình 4.26. cho
thấy hình ảnh công nhân đang gia cố thành hố đào thẳng đứng bằng các tấm ván gỗ, cọc giữ và văng ngang. Khoảng cách
các cọc giữ hay các thanh văng ngang phải được tính toán tùy thuộc vào từng điều kiện địa chất cụ thể, và được thực
hiện bởi các kỹ sư xây dựng tại công trường.
- Đối với các hố (hào) có độ sâu lớn, việc chống vách phải thực hiện thành nhiều đợt từ trên xuống, mỗi đợt cao từ 1 ÷ 1.2
m (phù hợp với chiều cao làm việc của người công nhân).
- Trong quá trình đào đất thủ công hay bằng máy hoặc khi tiến hành các công việc khác trong lòng hố móng, cố gắng
không va chạm mạnh tới hệ văng chống vì có thể làm xê dịch vị trí hoặc hư hỏng các bộ phận của hệ này.
- Trong quá trình thi công, phải luôn luôn theo dõi, quan sát kết cấu
-5038-1991 về góc mái dốc tối đa cho phép của thành hố (hào) đối với một số loại đất.
chống vách đất hố đào. Nếu có điều gì nghi ngờ (ván lát bị phình, văng ngang hoặc cọc giữ bị uốn cong nhiều,…v.v.) có
thể dẫn tới gãy hoặc sập hố đào thì phải ngừng thi công ngay, yêu cầu mọi người ra khỏi hố (hào) và có biện pháp gia cố
kịp thời (tăng số lượng cọc giữ và văng chống,…v.v.). Khi bảo đảm hệ văng chống chắc chắn, an toàn thì mới tiếp tục
làm việc ở dưới hố đào.
* Đào hố sâu có mái dốc:- Độ dốc của vách hố (hào) phụ thuộc vào từng loại đất cụ thể. Tham khảo TCVN-5038-1991
về góc mái dốc tối đa cho phép của thành hố (hào) đối với một số loại đất.
- Các trường hợp không đề cập trong tiêu chuẩn trên thì phải được tính toán bởi kỹ sư công trường.

Có thể sử dụng công thức sau để tính góc mái dốc α

Trong đó: m là hệ số an toàn (>1)
ϕ là góc ma sát trong của đất (độ)


×