Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Chuong 01 ke toan dau tu theo phuong phap von chu so huu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.1 KB, 28 trang )

CHƯƠNG

1
KẾ TOÁN ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG PHÁP VỐN
CHỦ SỞ HỮU
MỤC TIÊU
1. Mô tả tổng quát các phương pháp kế toán khác nhau đối với đầu tư vào vốn chủ sở hữu của
một công ty khác
2. Xác định điều kiện để áp dụng kế toán phương pháp vốn chủ sở hữu và hướng dẫn đánh giá
điều kiện thỏa mãn hay không.
3. Lập các bút toán nhật ký phương pháp pháp vốn chủ sở hữu cơ bản đối với một nhà đầu tư và
mô tả lập báo cáo tài chính cho các khoản đầu tư phương pháp vốn chủ sở hữu.
4. Ghi nhận bán một khoản đầu tư vốn chủ sở hữu và xác định phương pháp kế toán để áp dụng
cho cổ phần còn lại mà đang được nắm giữ.
5. Phân bổ chi phí của một khoản đầu tư vốn chủ sở hữu và tính toán phân bổ chi phí cho doanh
thu tương ứng mà được ghi nhận từ khoản đầu tư đối với khoản vượt giá phí của nhà đầu tư
với giá trị sổ sách bên nhận đầu tư.
6. Mô tả cơ sở hợp lý và tính toán đối với hoãn lại lãi chưa thực hiện trên các giao dịch liên công
ty cho đến khi hàng hóa được hoàn thành hoặc được bán ra bên ngoài.
7. Giải thích cơ sở hợp lý và các hàm ý lập báo cáo của tùy chọn giá trị hợp lý đối với các khoản
đầu tư khác được hạch toán bằng phương pháp vốn chủ sở hữu.

The Equity Method of Accounting for Investments

M

ột số chương đầu của giáo trình này trình bày về kế toán và lập báo cáo về các hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp. Tập trung vào các khoản đầu tư khi mà một hãng sở
hữu hoặc ảnh hưởng đáng kể hoặc kiểm soát một đơn vị khác thông qua quyền sở hữu
cổ phiếu biểu quyết. Khi một công ty sở hữu đủ số lượng cổ phiếu biểu quyết có khả
năng ảnh hưởng đến các quyết định của một đơn vị khác, thì kế toán khoản đầu tư này có thể trở nên


đầy thử thách và phức tạp. Nguồn gốc của sự phức tạp này bắt đầu từ các sự kiện và các giao dịch
giữa các hãng phụ thuộc thông qua quyền sở hữu không thể được xem như độc lập, các giao dịch ngay
thẳng (arm’s-length transactions). Như trong nhiều vấn đề liên quan đến lập báo cáo tài chính, chúng
ta nhìn vào các giao dịch với các đối tượng bên ngoài để đưa ra một cơ sở cho đánh giá kế toán. Khi
các hãng bị phụ thuộc thông qua một nhóm người sở hữu chung, thì các đánh giá mà ghi nhận các mối
quan hệ giữa các hãng hỗ trợ cung cấp tính khách quan khi lập báo cáo tài chính.

LẬP BÁO CÁO ĐẦU TƯ VÀO VỐN CHỦ SỞ HỮU
THE REPORTING OF INVESTMENTS IN CORPORATE EQUITY SECURITIES

Trên một báo cáo thường niên gần đây, Dịch vụ vận tải JB Hunt mô tả sự tạo lập của công ty
Transplace (TPI), một công ty logistic vận tải toàn cầu trên nền Internet. JB Hunt góp vốn tất cả bộ
phận kinh doanh logistic và tất tài sản vô hình liên quan cộng với 5 triệu USD tiền mặt để đổi lấy 27%


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

2
lợi ích ban đầu trong TPI, mà nó tăng lên sau đó 37%. JB Hunt hạch toán lợi ích của nó trong TPI sử
dụng kế toán phương pháp vốn chủ sở hữu và công bố “Kết quả tài chính của TPI được đưa vào trên
một dòng, khoản mục không hoạt động đưa vào Báo cáo thu nhập hợp nhất với tiêu đề “vốn chủ sở
hữu trong thu nhập của các công ty liên kết””.
Những thông tin này rất phổ biến trong thế giới kinh doanh; công ty đầu tư thường mua lại quyền
sở hữu cổ phiếu của cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Những khoản đầu tư này có thể trải
dài từ mua một ít cổ phiếu cho đến mua lại 100% quyền kiểm soát. Mặc dù các cuộc mua lại chứng
khoán vốn của công ty (như là một cuộc mua thực hiện bởi JB Hunt) là không thường xuyên, nhưng
chúng đặt ra một số vấn đề đáng cân nhắc về lập báo cáo tài chính bởi vì một mối quan hệ gần gũi
được thiết lập nếu nhà đầu tư không đạt được quyền kiểm soát thực sự. Những vấn đề này được chỉ
định bởi phương pháp vốn chủ(equity method). Chương này liên quan đến kế toán đầu tư cổ phiếu
mà áp dụng theo phương pháp vốn chủ.

Hiện tại, các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP) công nhận 3 phương pháp khác
nhau để lập báo cáo tài chính về các khoản đầu tư vào chứng khoán vốn công ty:


Phương pháp giá trị hợp lý (The fair-value method).



Báo cáo tài chính hợp nhất



Phương pháp vốn chủ sở hữu

Lập báo cáo tài chính về một khoản đầu tư nào đó phụ thuộc chủ yếu vào mức độ ảnh hưởng của nhà
đầu tư (cổ đông) đến bên nhận đầu tư, một yếu tố điển hình được đưa ra bởi quy mô tương đối quyền
sở hữu1. Bởi vì quyền biểu quyết tạo ra từ quyền sở hữu cổ phiếu vốn chủ của các công ty, ảnh hưởng
tăng với quy mô sở hữu. Kết quả ảnh hưởng cáo thể rất ít, một giá trị đáng kể, hoặc, trong một số
trường hợp, kiểm soát hoàn toàn.

Phương pháp giá trị hợp lý
Trong một số trường hợp , một nhà đầu tư chỉ sở hữu tỷ lệ nhỏ cổ phiếu đang lưu hành của bên nhận
đầu tư, có lẽ chỉ một ít cổ phiếu. Bởi vì mức độ sở hữu bị hạn chế, nên nhà đầu tư không thể kỳ vọng
ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động hoặc ra quyết định của bên nhận đầu tư. Những cổ phiếu này được
mua trên sự dự đoán về cổ tức tiền mặt hoặc trên sự đánh giá cao về giá trị thị trường của cổ phiếu.
Những khoản đầu tư này được ghi nhận theo giá gốc và định kỳ được điều chỉnh theo giá trị hợp lý
theo quy định của FASB ASC Topic 320, Đầu tư – Chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.
Bởi vì một phạm vi toàn bộ của đầu tư cổ quyền bị giới hạn vào chứng khoán vốn được trình bày ở
giáo trình kế toán cấp trung, chỉ những nguyên tắc cơ bản sau là được lưu ý:



Đầu tư ban đầu vào chứng khoán vốn được ghi nhận theo giá gốc và sau đó được điều chỉnh
theo giá trị hợp lý nếu giá trị hợp lý có thể xác định được; nếu không, khoản đầu tư vẫn theo
giá gốc2.

1 Quy mô liên quan của quyền sở hữu là nhân tố phổ biến nhất khi đánh giá mức độ ản hưởng của một công ty đến một
công tuy khác. Tuy nhiên, các nhân tố khác (như là mối quan hệ theo hợp đồng giữa các hãng) có thể cũng cung cấp
ảnh hưởng hoặc kiểm soát đến các hãng khác bất kể tỷ lệ sở hữu cổ phiếu.
2 FASB ASC (đoạn 325-20-35-1 và 2) lưu ý hai ngoại trừ cơ sở giá gốc đối với lập báo có khoản đầu tư:
2 1.

2 2.

2 Nhiều
Cổ tức khoản
đã nhận
lỗ vượt
hoạt động
hơn thu
liênnhập
tiếp của
sau ngày
bên nhận
đầu tư
đầuđược
tư hoặc
xemcác
là khoản
nhân tố
hoàn

khác
lạicho
đầubiết
tư và
một
được
khoản
ghigiảm


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu



3
Chứng khoán vốn nắm giữ để bán trong ngắn hạn được phân loại vào chứng khoán thương
mại (trading securities) và được báo cáo theo giá trị hợp lý, với lãi và lỗ chưa thực hiện tính
vào thu nhập.



Chứng khoán vốn không phân loại như là chứng khoán thương mại được phân loại như là
chứng khoán sẵn sàng để bán (available-for-sale securities) và được báo cáo theo giá trị hợp
lý với khoản lãi (lỗ) chưa thực hiện không được tính thu nhập và được báo cáo trong một
phần riêng của vốn chủ sở hữu cổ đông như là một phần của thu nhập tổng hợp khác (other
comprehensive income).



Cổ tức đã nhận được ghi nhận như là thu nhập đối với cả hai trường hợp chứng khoán thương

mại và chứng khoán sẵn sàng để bán.

Các thủ tục ở trên được đi theo với đầu tư vào chứng khoán vốn khi mà cũng không ảnh hưởng đáng
kể hoặc cũng không có kiểm soát. Tuy nhiên, khi quan sát tại cuối chương, FASB ASC Topic 825,
Công cụ tài chính, cho phép tùy chọn đặc biệt lập báo cáo giá trị hợp lý đối với chứng khoán sẳn sàng
để bán. Mặc dù các giá trị của bảng cân đối kế toán đối với các khoản đầu tư còn lại theo giá trị hợp lý
theo tùy chọn này, nhưng thay đổi giá trị hợp lý theo thời gian được ghi nhận vào báo cáo thu nhập
(như là đối ứng với thu nhập tổng hợp khác) khi chúng xảy ra.

Hợp nhất Báo cáo tài chính
Consolidation of Financial Statements

Nhiều nhà đầu tư mua lại đủ số lượng cổ phiếu để đạt được quyền kiểm soát thực sự đến hoạt động
của bên nhận đầu tư. Trong kế toán tài chính, kiểm soát này được ghi nhận bất cứ khi nào một cổ
đông nắm giữ lũy kế hơn 50% cổ phiếu biểu quyết đang lưu hành của một đơn vị. Tại thời điểm đó,
thay vì chỉ đơn thuần là ảnh hưởng đến các quyết định bên nhận đầu tư, mà nhà đầu tư hoàn toàn có
thể điều hành toàn bộ quá trình ra quyết định. Xem xét báo cáo tài chính của các đơn vị lớn nhất ở Mỹ
cho biết rằng kiểm soát pháp lý của một hoặc nhiều công ty con là một thực tế gần như toàn bộ. Hãng
PepsiCo, một ví dụ, nắm giữ lợi ích đa số trong cổ phiếu biểu quyết của hàng trăm công ty.
Nhà đầu tư kiểm soát một bên nhận đầu tư đặt ra một thử thách kế toán đặc biệt. Thông thường,
khi đa sổ cổ phiếu biểu quyết bị nắm giữ, mối quan hệ nhà đầu tư – bên nhận đầu tư liên kết chặt chẽ
rằng hai công ty được xem như là một đơn vị duy nhất cho mục đích lập báo cáo. Do đó, một bộ thủ
tục kế toán khác hoàn toàn phải được áp dụng. Quyền kiểm soát thường đòi hỏi sự hợp nhất thông tin
kế toán tạo ra bởi các công ty riêng lẻ. Vì thế, một bộ báo cáo tài chính duy nhất được tạo ra cho mục
đích báo cáo bên ngoài với tất cả tài sản, nợ phải trả, doanh thu và chi phí được tổng hợp lại với
nhau3. Các thủ tục khác nhau áp dụng trong quý trình hợp nhất được xem xét trong các chương sau
của giáo trình này.
FASB ASC Section 810-10-05 về các đơn vị có lợi ích thay đổi mở rộng sử dụng báo cáo tài chính
hợp nhất bao gồm cả các đơn vị mà quyền kiểm soát tài chính thông qua các thỏa thuận mang tính
hợp đồng đặc biệt thay vì thông qua lợi ích cổ phiếu biểu quyết. Trước đây các yêu cầu kế toán cho

các đơn vị có lợi ích thay đổi, nhiều hãng (như là Enron) tránh được hợp nhất các đơn vị khi mà họ sở
hữu ít hoặc không cổ phiếu biểu quyết nhưng thay vào đó được kiểm soát thông qua các hợp đồng đặc
biệt. Những đơn vị này thường được đề cập đến như là “các đơn vị có mục đích đặc biệt (special
purpose entities (SPEs))” và đưa ra các phương tiện cho một số hãng theo dõi nhiều giá trị lớn về tài
sản và nợ phải trả ngoài báo cáo tài chính hợp nhất của họ.

3 Như đã được thảo luận trong chương tiếp theo, sở hữu đa số cổ phiếu biểu quyết của một công ty nhận đầu tư không phải
thường dẫn đến báo cáo tài chính hợp nhất..


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

4

Phương pháp vốn chủ sở hữu - Equity Method
Một mối quan hệ đầu tư khác thích hợp được hạch toán sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu. Trong
một số cuộc đầu tư, mặc dù quyền kiểm soát không đạt được, nhưng mức độ quyền sở hữu cho biết
khả năng nhà đầu tư gây ảnh hưởng đáng kể đến bên nhận đầu tư. Nhớ lại khoản đầu tư 37% của JB
Hunt vào cổ phiếu biểu quyết của TPI. Thông qua quyền sở hữu của nó, JB Hunt chắc chắc có ảnh
hưởng đế các quyết định và hoạt động của TPI.
Để đưa ra mục tiêu lập báo cáo đối với khác khoản đầu tư mà ảnh hưởng đáng kể, FASB ASC
Topic 323, Đầu tư – Phương pháp vốn chủ sở hữu và Liên doanh, mô tả về sử dụng phương pháp vốn
chủ. Phương pháp vốn chủ sử dụng cơ sở dồn tích để ghi nhận phần thu nhập của nhà đầu tư trong thu
nhập của bên nhận đầu tư. Do đó, nhà đầu tư ghi nhận thu nhập khi thu nhập được tạo ra bởi bên được
đầu tư. Như đã nêu trong FASB ASC (đoạn 323-10-05-5), bởi vì ảnh hưởng đáng kể đến bên được
đầu tư, nên nhà đầu tư
…có một phần trách nhiệm đối với thu nhập trên khoản đầu tư của nó và điều này thích hợp để cộng vào
kết quả hoạt động của nhà đầu tư một phần trong lãi hoặc lỗ của bên nhận đầu tư.

Hơn nữa, theo phương pháp vốn chủ, cổ tức đã nhận từ một bên được đầu tư được ghi nhận như là ghi

giảm vào tài khoản đầu tư, không phải là thu nhập.
Trong thế giới kinh doanh ngày nay, nhiều công ty nắm giữ lợi ích đáng kể trong những công ty
khác không có quyền kiểm soát thực sự. Công ty Coca-Cola một mình sở hữu từ 20% đến 50% hàng
chục các công ty riêng lẻ. Nhiều khoản đầu tư khác thể hiện như liên doanh khi mà hai hoặc nhiều
công ty thành lập một đơn vị mới để thực hiện một mục đích kinh doanh riêng. Ví dụ, Microsoft và
NBC thành lập MSNBC, mộtkênh truyền hình cápvàtrang web trực tuyếnvớimạng lưới phát
sóngcủaNBC. Mỗi bên sở hữu 50% của liên quan. Đối với mỗi bên trong liên doanh này, nhà đầu tư
không sở hữu hoàn toàn quyền kiểm soát bởi vì họ nắm giữ ít hơn một mức đa số cổ phiếu biểu quyết.
Do đó, việc lập báo cáo tài chính hợp nhất là không thích hợp. Tuy nhiên, tỷ lệ lớn quyền sở hữu cho
biết rằng mỗi nhà đầu tư sở hữu một số khả năng ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của bên nhận
đầu tư.
Cuối cùng, như đã thảo luận tại cuối chương, các hãng ngày này được phép tùy chọn giá trị hợp lý
trong việc lập báo cáo tài chính của họ đối với các tài sản và nợ phải trả tài chính nhất định. Trong số
tài sản tài chính đủ tiêu chuẩn để lập báo cáo theo giá trị hợp lý là các khoản đầu tư có ảnh hưởng
đáng kể nếu không thì được hạch toán bằng phương pháp vốn chủ.

CÂU HỎI THẢO LUẬN
CÓ PHẢI PHƯƠNG PHÁP VỐN CHỦ ĐÃ ĐƯA ĐẾN SỰ BÓP MÉO THU NHẬP KHÔNG?
Trước đây GAAP về đầu tư phương pháp vốn chủ, các hãng thường sử dụng phương pháp giá gốc để
hạch toán các khoản đầu tư không hợp nhất của họ vào cổ phiếu thường bất kể là có ảnh hưởng đáng
kể hay không. Phương pháp giá gốc đã sử dụng cơ sở tiền mặt (cash basis) của sự ghi nhận thu nhập.
Khi một bên nhận đầu tư công bố cổ tức, thì nhà đầu tư ghi nhận “thu nhập cổ tức”. Tài khoản đầu tư
còn lại tại giá gốc ban đầu – do đó có thuật ngữ phương pháp giá gốc.
Lập kế hoạch thù lao của nhiều hãng trả cho các nhà quản trị dựa trên thu nhập báo cáo hàng năm.
Kế toán các khoản đầu tư đáng kể theo phương pháp giá gốc có thể đưa đến sự giàu có không dự tính
trước được chuyển từ chủ sở hữu sang nhà quản lý như thế nào? Phương pháp vốn chủ hay phương
pháp giá trị hợp lý có cung cấp một động cơ tương tự như vậy hay không?

CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ 28 – ĐẦU TƯ VÀO LIÊN KẾT
INTERNATIONAL ACCOUNTING STANDARD 28—INVESTMENTS IN ASSOCIATES



Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

5
Hội đồng chuẩn mục kế toán quốc tế (IASB), tương tự như FASB, ghi nhận sự cần thiết tính đến sự
ảnh hưởng đáng kể mà có thể xảy ra khi một hãng nắm giữ một lượng nhất định về cổ phiếu biểu
quyết của một đơn vị khác. IASB định nghĩa ảnh hưởng đáng kể là khả năng tham gia vào các quyết
định về chính sách tài chính và hoạt động của bên nhận đầu tư, nhưng không kiểm soát hoặc đồng
kiểm soát những chính sách này. Những mô tả sau về các cơ sở của phương pháp vốn chủ trong chuẩn
mực kế toán quốc tế (IAS) số 284:
Nếu một nhà đầu tư nắm giữ, trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua công ty con), 20% hoặc nhiều hơn quyền
biểu quyết của nhà đầu tư, thì nó được giả định rằng nhà đầu tư có ảnh hưởng đáng kể, ngoại trừ nó có thể
chứng minh rõ ràng rằng nó không phải là trường hợp này. Ngược lại, nếu nhà đầu nắm giữ, trực tiếp hoặc
gián tiếp, (thông qua công ty con), ít hơn 20% khả năng biểu quyết của bên nhận đầu tư, thì nó được giả
định rằng nhà đầu tư không có ảnh hưởng đáng kể, ngoại trừ những ảnh hưởng này có thể chứng mình
một cách rõ ràng. Quyền sở hữu đáng kể hoặc đa số bởi một nhà đầu tư khác không nhất thiết loại trừ một
nhà đầu tư khỏi việc có ảnh hưởng đáng kể.
Theo phương pháp vốn chủ, khoản đầu tư vào liên kết ban đầu được ghi nhận theo giá gốc (giá phí đầu
tư) và giá trị sổ sách được ghi tăng hoặc ghi giảm để ghi nhận phần thu nhập của nhà đầu tư từ lãi hoặc lỗ
của bên nhận đầu tư sau ngày mua. Phần thu nhập của của nhà đầu tư từ lãi hoặc của bên nhận đầu tư
được ghi nhận vào lãi hoặc lỗ của nhà đầu tư. Sự phân phối thu nhập nhận được từ một bên nhận đầu tư
làm giảm giá trị sổ sách khoản mục đầu tư.

Như đã thấy từ trích dẫn ở trên về IAS 28, các khái niệm và áp dụng phương pháp vốn chủ đã mô tả
gần như giống với những điều này bởi FASB ASC.

ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP VỐN CHỦ SỞ HỮU
APPLICATION OF THE EQUITY METHOD


Một sự hiểu biết về phương pháp vốn chủ tốt nhất là đạt được bằng cách xem đầu tiên xử lý của
FASB hai câu hỏi:
1. Những thông số nào xác định quy mô quyền sở hữu mà phương pháp vốn chủ sở hữu có thể
áp dụng được?
2. Nhà đầu tư nên báo cáo khoản đầu tư và thu nhập được tạo ra bởi nónhằm phản ánh mối quan
hệ giữa hai công ty như thế nào?

Điều kiện sử dụng phương pháp vốn chủ
Criteria for Utilizing the Equity Method

Cơ sở hợp lý của phương pháp vốn chủ là rằng một này đầu tư bắt đầu đạt được khả năng ảnh hưởng
đến quá trình ra quyết định của một nhà đầu tư khi mức độ quyền sở hữu tăng lên. Theo FASB ASC
Topic 323 về đầu tư theo phương pháp vốn chủ, đạt được “khả năng gây ảnh hưởng đáng kể đến các
chính sách hoạt động và tài chính của bên nhận đầu tư ngay cả khi nhà đầu tư nắm giữ 50% hoặc ít
hơn cổ phiếu biểu quyết” là điều kiện duy nhất đối với yêu cầu áp dụng phương pháp vốn chủ [FASB
ASC (đoạn 323-10-15-3)].
Rõ ràng, một điều kiện như là khả năng gây ảnh hưởng đáng kể là mơ hồ và tùy thuộc vào nhiều
xét đoán khác nhau và giải thích khác nhau trong thực tế. Tại thời điểm nào mà việc mua thêm lượng
cổ phiếu tạo cho người sở hữu khả năng gây ảnh hưởng đáng kể? Quyết định này trở nên khó khăn
hơn về điều mà chỉ có khả năng gây ảnh hưởng cần thiết được hiện diện. Không có yêu cầu nào mà
bất kỳ ảnh hưởng thực tế phải được áp dụng.
FASB ASC Topic 323 đưa ra hương dẫn đối với kế toán bằng cách liệt kế một số điều kiện mà cho
biết sự thể hiện về mức độ ảnh hưởng:

4

Sự đại diện của nhà đầu tư trong hội đồng quản trị của bên nhận đầu tư.

International Accounting Standards Board, IAS 28 Investments in Associates, Technical Summary (www.iasb.org).



Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

6



Sự tham gia của nhà đầu tư trong quá trình thực hiện chính sách của bên nhận đầu tư.



Các giao dịch liên công ty trọng yếu.



Sự hoán đổi nhân sự quản lý.



Sự phụ thuộc vào công nghệ kỹ thuật.



Giới hạn quyền sở hữu bởi nhà đầu tư về sự liên quan đến quy mô và sự tập trung quyền sở
hữu lợi ích trong bên nhận đầu tư.

Không có một trong số hướng dẫn này nên dành riêng sử dụng vào việc đánh giá khả năng áp dụng
phương pháp vốn chủ sở hữu. Thay vào đó, tất cả được đánh giá cùng nhau để xác định việc có hay
không có điều kiện duy nhất: khả năng gây ảnh hưởng đáng kể đến bên nhận đầu tư.
Các hướng dẫn này không loại bỏ việc mất nhiều thời gian cho nhà đầu tư khi quyết định sử dụng

hay không sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu là thích hợp. Để cung cấp một mức độ nhất quán
trong việc áp dụng chuẩn mực này, FASB đưa là sự kiểm trả quyền sở hữu chung: Nếu một nhà đầu tư
nắm giữ từ 20% đến 50% cổ phiếu biểu quyết của nhà đầu tư, thì ảnh hưởng đáng kể thông thường
được thừa nhận và phương pháp vốn chủ sở hữu được áp dụng.
Một khoản đầu tư (trực tiếp hoặc gián tiếp) 20% hoặc nhiều hơn cổ phiếu biểu quyết của một bên nhận
đầu tư nên đưa đến một giả định rằng khi không có bằng chứng ngược lại thì nhà đầu tư có khả năng gây
ảnh hưởng đáng kể đến bên nhận đầu tư. Ngược lại, một cuộc đầu tư ít hơn 20% cổ phiếu biểu quyết của
bên nhận đầu tư nên đưa đến một giả định rằng nhà đầu tư không có khả năng gây ảnh hưởng đáng kể
ngoại trừ khả năng này có thể chứng minh được5.

Các giới hạn áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu
Limitations of Equity Method Applicability

Đầu tiên, nguyên tắc 20% đến 50% có thể đưa đến một phạm vi giới hạn được lựa chọn tùy ý được
thiết lập chỉ đơn thuần là cung cấp phương pháp phù hợp trong việc lập báo cáo đối với các khoản đầu
tư. Tuy nhiên, tiêu chuẩn quan trọng vẫn là khản năng ảnh hưởng đáng kế (nhưng không kiểm soát)
đến bên nhận đầu tư, thay vì quyền sở hữu từ 20% đến 50%. Nếu không có bằng chứng về khả nằng
này (hoặc kiểm soát hiện hữu), thì phương pháp vốn chủ không nên được áp dụng bất kể tỷ lệ cổ
quyền đang nắm giữ.
Ví dụ, phương pháp vốn chủ sở hữ không thích hợp đối với các khoản đầu tư mà thể hiện bất kỳ
các đặc điểm sau đây bất kể mức độ sở hữu của nhà đầu tư 6:


Một sự thỏa thuận tồn tại giữa nhà đầu tư và bên nhận đầu tư bằng thỏa thuận đó nhà đầu tư
giảm các quyền lợi đáng kể như là một nhà cổ đông.



Một sự tập trung quyền sở hữu điều hành bên nhận đầu tư không quan tâm đến quan điểm của
nhà đầu tư.




Nhà đầu tư cố gắng như thất bại để đạt được sự đại diện trong hội đồng quản trị của bên nhận
đầu tư.

Trong mỗi tình huống này, do nhà đầu tư không thể gây ảnh hưởng đáng kể đến các công ty nhận đầu
tư của nó, nên phương pháp vốn chủ không được áp dụng.
Tương tự, nếu một đơn vị có thể thực hiện quyền kiểm soát đến bên nhận đầu tư, thì bất kể mức độ
sở hữu, hợp nhất (thay vì phương pháp vốn chủ sở hữu) là thích hợp. FASB ASC (đoạn 810-10-05-8)

5 FASB ASC (đoạn 323-10-15-8).
6 FASB ASC (đoạn 323-10-15-10). Đoạn này lên quan đặc biệt với các giới hạn để sử dụng phương pháp vốn chủ cho
các khoản đầu tư khi mà chủ sở hữu nắm giữ từ 20 đến 50% cổ phiếu đang lưu hành.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

7
giới hạn sử dụng phương pháp vốn chủ bởi việc mở rộng định nghĩa kiểm soát lợi ích tài chính và chỉ
định các tính huống khi mà kiểm soát tài chính tồn tại không cùng với quyền sở hữu đa số. Trong
những trường hợp này, kiểm soát đạt tượng thông qua hợp đồng hoặc các thỏa thuận khác được gọi lại
lợi ích thay đổi (variable interests).
Để minh họa, một hãng có thể tạo ra một đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập khi nó nắm giữ ít
hơn 50% lợi ích biểu quyết, nhưng dù sao kiểm soát mà đơn vị đó thông qua các quy định chi phối
và/hoặc các hợp đồng mà xác định khả năng ra quyết định và phân phối lợi nhuận hoặc lỗ. Các đơn vị
kểm soát theo kiểu này được gọi tên đặc biệt như là các đơn vị có lợi ích thay đổi (variable interest
entities), và hãng hãng đang chi phối các đơn vị này có thể được yêu cầu đưa chúng vào các báo cáo
hợp nhất mặc dù thực tế rằng quyền sở hữu ít hơn 50%. Nhiều hãng (như là Walt Disney và công ty
Mills), phân loại lại các công ty được đầu thư theo phương pháp vốn chủ trước đây như là các đơn vị

có lợi ích thay đổi và bây giới hợp nhất các khoản đầu tư này 7.

Mở rộng áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu
Extensions of Equity Method Applicability

Đối với một số khoản đầu tư mà hoặc thiếu hoặc vượt 20% đến 50% cổ quyền, phương pháp vốn chủ
dù sao cũng tích hợp được sử dụng để lập báo cáo tài chính. Như một minh họa, Công tyInternational
Paper công bố rằng nó hạch toán khoản đầu tư vào công ty Scitex sử dung phương pháp vốn chủ sở
hữu mặc dù nắm giữ một lợi ích chỉ 13%. Trên báo cáo thường niên của nó, International Paper trích
dẫn khả năng gây ảnh hưởng đáng kể “bởi vì công ty này là một bên trong một thỏa thuận cổ đông với
hai đơn vị khác mà cùng với công ty này sở hữu chỉ 30% Scitex.”
Các điều kiện có thể cũng tồn tại mà phương pháp vốn chủ sở hữu thích hợp mặc dù lợi ích sở hữu
đa số. Trong một số trường các quyền biểu quyết hoặc phủ quyết được trao cho cổ đông thiểu số giới
hạn quyền lực của cổ đông đa số. Các quyền thiểu số này có thể bao gồm phê duyệt đối với tiền bồi
thường, thuê mướn, chấm dứt và điều hành quan trọng khác và các quyết định sử dụng vốn của một
đơn vị. Nếu các quyền thiểu số cũng giới hạn khi nghi ngờ có hay không quyền kiểm soát thuộc về đa
số, thì vốn chủ sở hữu được sử dụng để lập báo cáo tài chính thay vì hợp nhất. Ví dụ, trước khi mua
lại BellSouth, AT&T tuyên bố trên các báo cáo tài chính của nó “chúng tôi hạch toán đầu tư kinh tế
60% vào Cingular của chúng tôi theo phương pháp vốn chủ bởi vì chúng tôi chia sẻ quyền kiểm soát
bằng với 40% đối tác của BellSouth”.
Để tóm tắt, bảng sau đây cho biết phương pháp kế toán mà có thể áp dụng điển hành cho các
khoản đầu tư cổ phiếu khác nhau:
Điều kiện
Thiếu khả năng ảnh hưởng đáng kể
Có khả năng ảnh hưởng đáng kể

Mức quyền sở hữu thông
thường
Ít hơn 20%
20% đến 50%


Kiểm soát thông qua lợi ích biểu quyết
Kiểm soát thông qua lợi ích thay đổi (chi
phối hồ sơ, hợp đồng)

Hơn 50%
Tình trạng hưởng lợi chính
(không yêu quyền kiểm soát)

Phương pháp kế toán có
thể áp dụng
Giá gốc hay giá trị hợp lý
Phương pháp vốn chủ sở
hữu hay giá trị hợp lý
Hợp nhất báo cáo tài chính
Hợp nhất báo cáo tài chính

KẾ TOÁN ĐẦU TƯ – PHƯƠNG PHÁP VỐN CHỦ SỞ HỮU
ACCOUNTING FOR AN INVESTMENT—THE EQUITY METHOD

Điều kiện đưa đến áp dụng phương pháp vốn chủ được nhận biết, xem xét các thủ tục lập báo cáo
thích hợp. Kiến thức về quy trình kế toán này đặc biệt quan trong cho người sử dụng báo cáo tài chính

7 Chương 2 và 6 cung cấp thêm những thảo luận về các đơn vị có lợi ích thay đổi.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

8
của nhà đầu tư bởi vì phương pháp vốn chủ sở hữu ảnh hưởng cả về xác định thời gian công nhận thu

nhập cũng như giá trị thực hiện (sổ sách) của tài khoản đầu tư.
Khi áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu, mục tiêu kế toán là báo cáo khoản đầu tư và thu nhập
đầu tư để phản ánh mối quan hệ gần gũi giữa các công ty. Sau khi ghi nhận giá phí của cuộc mua, hai
bút toán phương pháp vốn chủ sở hữu ghi nhận định kỳ ảnh hưởng của khoản mục đầu tư:


Tài khoản đầu tư của công ty đầu tư tăng lên khi bên nhận đầu tư tạo ra thu nhập và báo cáo
thu nhập. Tương tự, nhà đầu tư ghi nhận thu nhập đầu tư sử dụng phương pháp dồn tích – đó
là, trong cùng kỳ với bên nhận đầu tư tạo ra thu nhập. Nếu một công ty được đầu tư báo cáo
thu nhập $100,000, chủ sở hữu 30% nên ghi tăng ngay tức thời thu nhập đầu tư của riêng nó
thêm $30,000. Dồn tích thu nhập này phản ánh cơ bản của phương pháp vốn chủ bởi việc
nhấn mạnh sự liên kết giữa hai công ty này; khi vốn chủ sở hữu của bên nhận đầu tư tăng lên
trong quá trình tạo ra thu nhập, thì tài khoản đầu tư cũng tăng lên. Mặc dù nhà đầu tư ban đầu
ghi nhận cuộc mua theo giá gốc, nhưng điều chỉnh tăng lên trên số dư tài sản được ghi nhận
ngay khi nhà đầu tư tạo ra lợi nhuận. Điều chỉnh giảm là cần thiết nếu một khoản lỗ được báo
cáo.



Tài khoản đầu tư được ghi giảm khi mà cổ tức đượ nhận. Bởi vì sự phân phối cổ tức tiền mặt
làm giảm giá trị sổ sách của công ty nhận đầu tư, nhà đầu tư phản ánh sự thay đổi này bằng
cáh ghi nhận khoản thu như là một khoản ghi giảm vào giá trị thực hiện của đầu tư thay vì
như là một khoản doanh thu. Một khi, sự song song được thiết lập giữa tài khoản đầu và các
hoạt động cơ sở của bên nhận đầu tư: Sự giảm xuống trong vốn chủ của bên nhận đầu tư tạo
ra một khoản giảm trong khoản đầu tư. Hơn nữa, do nhà đầu tư ghi nhận ngay tức thì thu nhập
khi mà bên nhận đầu tư tạo ra thu nhập, tính trùng sẽ xảy ra nếu nhà đầu tư cũng ghi nhận
khoản thu cổ tức như là một khoản doanh thu. Quan trọng, khoản thu cổ tức tiền mặt là một
quan điểm không thích hợp đối với ghi nhận thu nhập. Bởi vì nhà đầu tư ảnh hưởng đến việc
quyết định thời gian phân phối cổ tức của nhà đầu tư, nên khoản thu cổ tức không đánh giá
khach quan về thu nhập được tạo ra từ khoản đầu tư.

Sự kiên bên nhận đầu tư
Thu nhập được tạo ra
Cổ tức được phân phân phối

Áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu
Kế toán nhà đầu tư
Phần tỷ lệ của thu nhập được ghi nhận
Cổ tức đã nhận được ghi nhận như là một khoản giảm đầu tư

Áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu gây ra tài khoản đầu tư trên bảng cân đối kế toán của nhà
đầu tư trực tiếp khác với thay đổi vốn chủ sở hữu của bên nhận đầu tư. Như một minh họa, giả định
rằng nhà đầu tư mua lại 40% lợi ích trong một đơn vị kinh doanh. Nếu nhà đầu tư này có khả năng
ảnh hưởng đáng kế đến bên nhận đầu tư, thi phương pháp vốn chủ có thể được sử dụng. Nếu bên nhận
đầu tư này sau đó báo cáo thu nhập thuần $50,000, thì nhà đầu tư này ghi tăng tài khoản đầu tư (và
thu nhập thuần riêng của nó) thêm $20,000 khi công nhận một phần 40% của khoản thu nhập này.
Ngược lại, một khoản cổ tức $20,000 được trả bởi bên nhận đầu tư bắt buộc ghi giảm $8,000 vào tài
khoản tài sản này (40% của tổng số thanh toán).
Ngược lại, phương pháp vốn giá trị hợp lý báo cáo các khoản đầu tư theo giá trị hợp lý nếu có thể
xác định được một cách dễ dàng. Tương tự, thu nhập được ghi nhận chỉ trên khoản thu cổ tức. Kết quả
là, báo cáo tài chính có thể khác nhau tùy thuộc vào phương pháp vốn chủ hay phương pháp giá trị
hợp lý sử dụng là thích hợp.
Để minh họa, giả định rằng Công ty Big sở hữu một lợi ích 20% trong Công ty Little mua lại vào
ngày 01/01/2010 với giá $200,000. Little sau đó báo cáo thu nhập thuần là $200,000, $300,000, và
$400,000, tương ứng với 3 năm tiếp theo trong khi trả cổ tức là $50,000, $100,000, và $200,000. Giá
trị hợp lý khoản đầu tư của Big vào Little, vì được xác định bởi giá thị trường, là $235,000, $255,000,
và $320,000 tương ứng tại cuối năm 2010, 2011 và 2012.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu


9
Bảng minh họa 1.1 so sánh kế toán khoản đầu tư của Big vào Little thông qua 2 phương pháp.
Phương pháo giá trị hợp lý thể hiện khoản đầu tư theo giá trị thị trường, giả định dễ dàng xác định
được trong ví dụ này. Bởi vì khoản đầu tư được phân loại như là chứng khoản sẵn sàng để bán, nên
phần vượt giá trị hợp lý với giá gốc được báo cáo như là một khoản mục riêng của vốn chủ sở hữu cổ
đông8. Thu nhập được ghi nhận khi cổ tức được nhận.
Ngược lại, theo phương pháp vốn chủ, Big ghi nhận thu nhập khi thu nhập được tạo ra bởi Little.
Như trình bày ở Bảng minh họa 1.1, Big ghi nhân $180,000 vào thu nhập qua ba năm, và giá trị thực
hiện (sổ sách) của khoản đầu tư được điều chỉnh tăng lên đến $310,000. Cổ tức đã nhận không là một
sự đánh giá thích hợp về thu nhập bởi vì giả định ảnh hưởng đáng kể đến bên nhận đầu tư. Do đó, cổ
tức đã nhận không đánh giá một cách khách quan thu nhập của Big từ khoản đầu tư vào Little. Khi
Little tạo ra thu nhập, tuy nhiên, theo phương pháp vốn chủ Big thi nhận phần thu nhập của nó (20%)
trong khoản thu nhập này và ghi tăng tài khoản đầu tư. Phương pháp vốn chủ phản ánh mô hình dồn
tích: Thu nhập được ghi nhận khi nó được tạo ra, không phải khi tiền (cổ tức) được nhận.

BẢNG MINH HỌA
1.1

So sánh Phương pháp giá trị hợp lý (ASC 320) và Phương pháp vốn chủ
sở hữu (ASC 322)

Kế toán bởi Big khi ảnh hưởng không Kế toán bởi Big khi ảnh
đáng kể (chứng khoán sẵn sàng để
hưởng là đáng kể
bán)
(phương pháp vốn chủ)
Điều chỉnh
Vốn chủ
Giá trị
giá trị hợp

trong thu
Giá trị
Cổ tức
thực hiện lý theo vốn nhập bên
thực hiện
Thu nhập
được trả
Thu nhập khoản đầu
chủ sở
nhận đầu
của khoản
Năm
của Little
bởi Little
cổ tức

hữu

đầu tư
2010
$200,000
$ 50,000
$10,000
$235,000
$ 35,000
$ 40,000*
$230,000†
2011
300,000
100,000

20,000
255,000
55,000
60,000*
270,000†
*
2012
400,000
200,000
40,000
320,000
120,000
80,000
310,000†
Tổng thu nhập đã ghi nhận
$70,000
$180,000
*Vốn chủ sở hữu trong thu nhập bên nhận đầu tư là 20% của thu nhập năm hiện hành đã báo có bởi Little.
†Giá trị thực hiện của một khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ là giá phí ban đầu cộng với thu nhập đã
ghi nhận trừ đi cổ thức đã nhận. Theo ví dụ, Năm 2010, số dư đã báo cáo $230,000 là $200,000 cộng với
$40,000 thu nhập vốn chủ sở hữu trừ đi $10,000 cổ tức đã nhận.

Bảng minh họa 1.1 chỉ ra rằng giá trị thực hiện của khoản đầu tư thay đổi mỗi năm theo phương
pháp vốn chủ. Việc ghi nhận này thực hiện song song với thay đổi đang diễn ra trong các số liệu tài
sản thuần đã báo cáo bởi bên nhận đầu tư. Nếu vốn chủ sở hữu của bên nhận đầu tư tăng lên do thu
nhập, thì một khoản tăng được ghi nhận vào tài khoản đầu tư; một khoản giảm như là lỗ và cổ tức đưa
đến một khoản giảm được ghi nhận. Do đó, phương pháp vốn chủ sở hữu chuyển tải thông tin mà mô
tả mối quan hệ được tạo ra bởi khả năng của nhà đầu tư gây ảnh hưởng đáng kể đến bên nhận đầu tư.

THỦ TỤC KẾ TOÁN SỬ DỤNG KHI ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP VỐN

CHỦ
ACCOUNTING PROCEDURES USED IN APPLYING THE EQUITY METHOD

Một khi các hướng dẫn đối với việc áp dụng phương pháp vốn chủ đã được thiết lập, quy trình rập
khuôn cần thiết cho việc ghi nhận các giao dịch cơ bản thì khá dễ hiểu. Nhà đầu tư tính toán tỷ lệ thu
8 Biến động trong giá trị thị trường của chứng khoán thương mại được ghi nhận vào thu nhập trong kỳ khi chúng xảy
ra.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

10
nhập đã báo cáo bởi bên nhận đầu tư mỗi kỳ. Cô bố cổ tức làm gảm số dư khoản đầu để phản ánh sự
giảm trong giá trị sổ sách của bên nhận đầu tư.
Đề cập lại thông tin đã trình bày trên Bảng minh họa 1.1, Little báo cáo một khoản thu nhập thuần
$200,000 trong năm 2010 và trả cổ tức tiền mặt $50,000. Những số liệu này cho biết rằng tài sản
thuần của Little đã giảm đi $150,000 trong năm. Do đó, trên sổ sách tài chính, Big ghi nhận các bút
toán nhật ký áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu:
Đầu tư vào Little
Vốn chủ sở hữu trong thu nhập Little
Ghi nhận 20% thu nhập của bên nhận đầu tư
($200,000 × 20%).
Tiền mặt
Đầu tư vào Little
Ghi nhận cổ tức tiền mặt đã thu từ Little
($50,000 × 20%).

40,000
40,000


10,000
10,000

Ở bút toán đầu tiên, Big tính thu nhập dựa trên thu nhập đã báo cáo của công ty được đầu tư mặc
dù giá trị này vượt hơn cổ tức tiền mặt. Bút toán thứ hai phản ánh khoản thu thực sự sự của cổ tức và
khoản giảm liên quan đến tài sản thuần của Little. Khoản tăng thêm $30,000 được ghi nhận vào tài
khoản đầu tư của Big ($40,000 - $10,000) thể hiện 20% của $150,000 tăng lên trong giá trị sổ sách mà
xảy ra trong năm.
Mặc dù hai buts toán này minh họa quy trình lập báo cáo cơ bản sử dụng khi áp dụng phương pháp
vốn chủ, một số vấn đề phải được tìm hiểu để đạt được sự hiểu biết toàn diện về phương pháp này.
Đặc biệt hơn, các thủ tục đặc biệt được yêu cầu về kế toán như sau:
1.

Lập báo cáo khi thay đổi phương pháp vốn chủ sở hữu.

2.

Lập báo cáo thu nhập của bên nhận đầu tư từ các nguồn ngoại trừ các hoạt động đang tiếp
tục.

3.

Lập báo cáo các khoản lỗ của bên nhận đầu tư.

4.

Lập báo cáo khi bán khoản đầu tư vốn chủ sở hữu.

Lập báo cáo khi thay đổi phương pháp vốn chủ
Reporting a Change to the Equity Method


Trong nhiều trường hợp, khản năng của một nhà đầu tư ảnh hưởng đáng kể đến bên nhận đầu tư
không đạt được thông quá một cuộc mua cổ phiếu duy nhất. Nhà đầu tư có thể chỉ sở hữu một tỷ lệ
nhỏ quyền sở hữu trong nhiều năm trước khi mua thêm đủ cổ phiếu để chuyển đổi sang phương pháp
vốn chủ. Trước khi nhà đầu tư đạt được ảnh hưởng đáng kể, bất kỳ khoản đầu tư nên được báo cáo
bằng phương pháp giá trị hợp lý. Sau khi khoản đầu tư đạt điểm mà vốn chủ có thể áp dụng, thì một
câu hỏi mang tính kỹ thuật đặt ra về các cách thức thích hợp của sự thay đổi tư một phương pháp sang
phương pháp khác9.
FASB ASC (đoạn 323-10-35-33) chỉ dẫn sự liên quan này bằng phát biểu rằng “khoản đầu tư, kết
quả hoạt động (kỳ hiện tại và kỳ trước đã báo cáo), và lợi nhuận giữ lại của nhà đầu tư nên được điều
chỉnh trở về trước ”. Do đó, tất cả tài khoản được báo cáo lại để báo cáo tài chính của nhà đầu tư trình
bày như thể là phương pháp vốn chủ đã được áp dụng từ ngày mua đầu tiên.
Bằng chỉ thị xử lý trở về trước, FASB nỗ lực để đảm bảo khả năng so sánh từ năm đến năm khi lập
báo cáo tài chính của nhà đầu tư. Ví dụ, Frequency Electronics, một công ty chuyên về thiết kế, phát
triển, và sản xuất các thiết bị truyền thông vệ tinh, hiện tại báo cáo tăng cổ quyền trong công ty
9 Một thay đổi đối với phương pháp vốn chủ cũng có thể được yêu cầu nếu bên nhận đầu tư mua lại một phần cổ phiếu
của họ như là cổ phiếu quỹ. Giao dịch này có thể làm tăng tỷ lệ cổ phiếu đang lưu hành của nhà đầu tư.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

11
Morion, một nhà sản xuât máy tạo dao động pha lê đặt ở St. Petersburg, Nga. Như đã trình bày ở báo
cáo thường niên 2006,
Công ty tăng khoản đầu tư của nó từ 19.8% đến 36.2% cổ phiếu đang lưu hành của Morion. Do đó, Công
ty thay đổi phương pháp thực hiện khoản đầu tư vào Morion từ giá gốc sang vốn chủ sở hữu như yêu cầu
bởi GAAP… Ảnh hưởng của sự thay đổi phương pháp kế toán đối với năm tài chính kết thúc ngày
30/04/2005 là làm tăng thu nhập trước khi dự phòng thuế thu nhập và thu nhập thuần là $315,000 ($0.04
trên cổ phiếu bị pha loãng). Báo cáo tài chính cho năm nước được báo cáo lại vì thay đổi phương pháp
vốn chủ sở hữu …. Lợi nhuận giữ lại ngay tại đầu năm tài chính 2005 đã tăng lên $207,000 vì ản hưởng

áp dụng trở về trước của phương pháp vốn chủ.

Để minh họa chi tiết hơn thủ tục báo cáo lại này, giả định rằng công ty Giant mua lại 10% cổ
quyền trong công ty ty Small vào ngày 01/01/2010. Các nhà chức trách của Giant không tin rằng công
ty đã đạt được khả năng gây ảnh hưởng đáng kể đến Small. Giant ghi nhận hoàn toàn khoản mục đầu
tư bằng cách sử dụng phương pháp giá trị hợp lý như là chứng khoán sẵn sàng để bán. Sau đó, vào
ngày 01/01/2012 Giant mua thêm 30% cổ phiếu biểu quyết của Small, vì vậy đạt được khả năng gây
ảnh hưởng đáng kể đến việc ra quyết định của bên nhận đầu tư. Từ năm 2010 đến 2012, Small báo
cáo thu nhập thuần, trả cổ tức tiền mặt, và có giá trị hợp lý tại ngày 01/01 vào mỗi năm như sau:
Năm
2010
2011
2012

Thu nhập thuần
$ 70,000
110,000
130,000

Cổ tức tiền mặt
$ 20,000
40,000
50,000

Giá trị hợp lý tại ngày 01/01
$ 800,000
840,000
930,000

Trên Báo cáo tài chính năm 2010 và 2011 của Giant, như đã báo cáo theo ban đầu, thu nhập cổ tức

tương ứng là $2,000 và $4,000, sẽ được ghi nhận dựa trên nhận 10% của phân phối này. Tài khoản
đầu tư được theo dõi theo giá trị hợp lý bởi vì nó có thể xác định được dễ dàng. Tương tự, thay đổi
trong giá trị hợp lý của khoản đầu tư đưa đến một khoản ghi đối với một khoản lãi đang nắm giữ lũy
kế chưa thực hiện là $4,000 năm 2010 và một khoản ghi có nữa là $9,000 năm 2011 đối với một giá
trị lũy là $13,000 đã báo cáo trên phần vốn chủ sở hữu 2011 của Giant. Tuy nhiên, sau khi thay đổi
phương pháp vốn chủ vào ngày 01/01/2012, Giant phải báo cáo lại những năm trước để trình bày
khoản đầu tư như thể là vốn chủ sở hữu đã luôn được áp dụng. Kết quả là, trên các báo cáo so sánh
trình bày các cột cho các kỳ trước, báo cáo năm 2010 nên cho biết thu nhập vốn chủ sở hữu là $7,000
với $11,000 được công bố cho năm 2011 trên cơ sở 10% dồn tích thu nhập của Small cho mỗi năm.
Báo cáo lại thu nhập cho những năm trước có thể được tính toán như sau:
Năm
2010
2011

Vốn chủ trong thu nhập
của bên nhận đầu tư
$ 7,000
11,000
Tổng điều chỉnh Lợi nhuận giữ lại

Thu nhập đã báo cáo
từ cổ tức
$ 2,000
4,000

Điều chỉnh trở về trước
$ 5,000
7,000
$ 12,000


CÂU HỎI THẢO LUẬN
PHƯƠNG PHÁP VỐN CHỦ CÓ THỰC SỰ ÁP DỤNG Ở ĐÂY KHÔNG?
Công ty Abraham, một công ty New Jersey, hoạt động 57 của hàng bánh khắp khu vự đông bắc của
nước Mỹ. Trong quá khứ, người sáng lập, James Abraham, sở hữu toàn bộ cổ phiếu đang lưu hành của
công ty này. Tuy nhiên, trong một số năm trước đây, công ty gặp phải vấn đề dòng tiền nghiêm trọng
kết quả bởi sự mở rộng nhanh chóng. Để tránh phá sản, Abraham tìm kiếm vốn đầu tư bổ sung từ một


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

12

người bạn, Dennis Bostitch sở hữu Highland Laboratories. Sau đó, Highland trả $700,000 tiền mặt
cho công ty Abraham để mua hết cổ phiếu thường mới phát hành cho 1/3 lợi ích.
Tại ngày cuối năm nay, các kế toán củaHighland Laboratories đang thảo luận phương pháp hợp lý
để lập báo cáo khoản đầu tư này. Một người lập luận rằng theo dõi tài sản của nó tại giá gốc ban đầu:
“Cuộc mua này không lớn hơn một khoản vay để bảo lãnh tiệm bánh. Ông Abraham sẽ tiếp tục điều
hành tổ chức này với ít hoặc không quan tấm đến trả lại cho chúng tôi. Sau tất cả, điều gì làm bất kỳ
ai trong công ty chúng ta biết về nướng bánh mì? Tôi sẽ ngạc nhiên nếu Abraham không mua lại
những cổ phiếu này khi kinh doanh tiệm bánh sinh lãi trở lại”.
Một trong số kế toán viên không đồng ý, phát biểu rằng phương pháp vốn chủ là thích hợp. “Tôi
nhận thấy rằng công ty chúng ta không có khả năng điều hành một tiệm bánh. Tuy nhiên, các nguyên
tắc chính thức phát biểu rằng chúng ta phải có khả năng ảnh hưởng đáng kể. Với ½ cổ phiếu thường
mà chúng ta sở hữu, chúng đã có khả năng này. Cho dù chúng ta sử dụng nó hoặc không, thì khả năng
này đã yêu cầu phải áp dụng phương pháp vốn chủ.”
Highland Laboratories nên hạch toán khoản đầu tư của nó vào Abraham như thế nào?
Thu nhâp đã báo cáo của Giant năm 2010 sẽ tăng thêm $5,000 với khoản tăng $7,000 là cần thiết
cho năm 2011. Để đưa đến sự thay đổi trở về trước này đối với phương pháp vốn chủ, Giant lập các
bút toán nhật kỳ vào ngày 01/01/2012:
Đầu tư vào Small

Lợi nhuận giữ lại – Trước kỳ điều chỉnh – Vốn chủ
sở hữu trong thu nhập của bên nhận đầu tư
Điều chỉnh 2010 và 2011 ghi nhận để khoản đầu tư được
hạch toán sử dụng phương pháp vốn chủ.
Lãi nắm giữ chưa thực hiện – Vốn chủ sở hữu
Điều chỉnh giá trị hợp lý (Sẵn sàng để bán)
Loại trừ tỷ lệ của nhà đầu tư trong giá trị hợp lý tăng lê
(10% × $130,000) từ vốn chủ sở hữu và tài khoản đánh giá
danh mục sẵn sàng để bán.

12,000
12,000

13,000
13,000

Khoản điều chỉnh $13,000 loại trừ các tài khoản đánh giá mà gắn liền với khoản đầu tư trước khi
đạt được ảnh hưởng trọng yếu. Bởi vì khoản đầu tư không còn là một phần của danh mục sẵn sàng để
bán, nó được thực hiện theo phương pháp vốn chủ thay vì giá trị hợp lý. Do đó, các tài khoản điều
chỉnh giá trị hợp lý được giảm xuống như là một phần của sự phân loại lại.
Tiếp tục với ví dụ này, Giant thực hiện hai bút toán nhật kỳ tại ngày cuối năm 2012, nhưng chúng
liên chỉ liên quan đến hoạt động và phân phối cả kỳ đó.
Đầu tư vào Small
Vốn chủ sở hữu trong thu nhập của Small
Ghi nhận 40% thu nhập năm 2012 đã báo cáo bởi Small
($130,000 × 40%)
Tiền mặt
Đầu tư vào Small
Ghi nhận khoản thu cổ tức tiền mặt năm 2012 từ Small
($50,000 × 40%).


52,000
52,000

20,000
0,000

Lập báo cáo thu nhập của bên nhận đầu tư từ các nguồn khác với các hoạt động
tiếp tục
Reporting Investee Income from Sources Other Than Continuing Operations

Về truyền thống, các yếu tố xác định của thu nhập được trình bày riêng biệt trong một bộ báo cáo tài
chính. Các ví dụ bao gồm các khoản mục đặc biệt và các hoạt động đã chấm dứt. Một điều quan tâm


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

13
mà phát sinh khi áp dụng phương pháp vốn chủ là có hay không các khoản mục này thể hiện riêng
biệt trên báo cáo thu nhập của bên nhận đầu tư yêu cầu xử lý tương tự bởi nhà đầu tư.
Để xác định vấn đề này, giả định rằng công ty Large sở hữu 40% cổ phiếu biểu quyết của công ty
Tiny và hạch toán khoản đầu tư bày bằng phương pháp vốn chủ. Trong năm 2010, Tiny báo cáo thu
nhập thuần $200,000, con số này được tính từ $250,000 thu nhập từ các hoạt động tiếp tục và một
khoản lỗ đặc biệt $50,000. Large tính thu nhập $80,000 dựa trên 40% của giá trị thuần $200,000. Tuy
nhiên, để công bố hợp lý, khoản lỗ đặc biệt này gánh chịu bởi bên nhận đầu tư cũng phải được báo
cáo riêng biệt trên báo cáo tài chính của nhà đầu tư. Xử lý này được yêu cầu để phản ánh mối quan hệ
gần gũi giữa hai công ty.
Trên cơ sở mức độ quan hệ, Large ghi nhận $100,000 như một phần của thu nhập hoạt động (40%
thu nhập của Tiny $250,000 từ hoạt động tiếp tục) cùng với một khoản lỗ $20,000 (40% × $50,000).
Tổng ảnh hưởng thì vẫn là tăng thuần $80,000 trong thu nhập của Large, nhưng giá trị này đã được

phân bổ thích hợp giữa thu nhập từ hoạt động tiếp tục và các khoản mục đặc biệt.
Bút toán nhật ký ghi nhận lợi ích vốn chủ sở hữu của Large trong thu nhập của Tiny như sau:
Đầu tư vào Tiny
Lỗ đặc biệt của bên nhận đầu tư
Vốn chủ sở hữu trong thu nhập của Tiny
Ghi nhận thu nhập hoạt động và lỗ đặc biệt từ khoản đầu
tư vốn chủ sở hữu.

80,000
20,000
100,000

Một khía cạnh nữa về phương pháp kế toán này nên được lưu ý. Mặc dù khi bên nhận đầu tư đã xét
đoán được khoản lỗ này như là khoản đặc biệt (bất thường), nhưng Large không báo cáo phần lỗ của
nó $20,000 như là một khoản mục riêng biệt ngoại trừ giá trị đó được xem xét là trọng yếu với khía
cạnh hoạt động riêng của nhà đầu tư.

Lập báo cáo khoản lỗ của bên nhận đầu tư
Reporting Investee Losses

Mặc dù hầu hết các mịnh hóa trước được dựa trên ghi nhận lãi, nhưng kế toán khoản lỗ đã phát sinh
bởi bên nhận đầu tư được xử lý trong cùng một cách thức tương tự. Nhà đầu tư ghi nhận tỷ lệ tương
ứng của mỗi khoản lỗ và ghi giảm giá trị sổ sách của tài khoản đầu tư. Thậm chi những thủ tục này
phù hợp với khái niệm của phương pháp vốn chủ sở hữu, nhưng họ thiếu sót tính đến tất cả trường
hợp lỗ có thể xảy ra.

Tổn thất giá trị vĩnh viễn
Permanent Losses in Value

Các khoản đầu tư có thể gánh chịu các khoản lỗ vĩnh viễn về giá trị hợp lý mà không thấy rõ ràng

thông qua phương pháp vốn chủ sở hữu. Các khoản giảm này có thể bị gây ra bởi mất đi một số khách
hàng chủ yếu, thay đổi điều kiện kinh tế, tổn thất về bằng sáng chế quan trọng hoặc các quyền pháp lý
khác, thiệt hại về danh tiếng của công ty. Các khoản giảm vĩnh viễn về giá trị hợp lý kết quả từ các sự
kiện bất lợi có thể không được báo cáo ngay tức thời bởi nhà đầu tư thông qua các bút toán vốn chủ sở
hữu thông thường mà đã thảo luận trước đây. Do đó, FASB ASC (đoạn 323-10-35-32) đưa ra hướng
dẫn sau:
Một khoản tổn thất về giá trị của một khoản đầu tư mà khác với một khoản giảm tạm thời nên được ghi
nhận giống như một khoản tổn thất về giá trị của tài sản dài hạn khác. Bằng chứng của một khoản tổn thất
về giá trị có thể bao gồm, nhưng không cần thiết bị giới hạn, không có một khả năng phục hồi giá trị thực
hiện của một khoản đầu tư hoặc bên nhận đầu tư mất khả năng duy trì thu nhập mà chứng minh giá trị
thực hiện khoản đầu tư.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

14
Do đó, khi một khoản giảm vĩnh viễn về giá trị khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ xảy ra, thì
nhà đầu tư phải ghi nhận một khoản tổn thất giảm gí trị và ghi giảm tài sản đó theo giá trị hợp lý. Tuy
nheien, khoản tổn thất này phải là vĩnh viễn trước khi sự công nhận này trở nên cần thiết. Theo
phương pháp vốn chủ, một khoản giảm tạm thời về giá trị hợp lý của một khoản đầu tư thì được bỏ
qua.
Ví dụ, Công ty Hess ghi chú trong báo cáo thường niên 2008 như sau:
Công ty xem xét các khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ về sự giảm giá trị bất kỳ khi nào các sự iện
hoặc thay đổi hoàn cảnh đã xảy ra mà cho thấy rằng không phải là sự giảm giá trị tạm thời về giá trị. Giá
trị tổn thất được được phụ thuộc vào giá trị thị trường, khi mà luôn sẵn có, hoặc các kỹ thuật đánh giá
khác.

Khoản đầu tư giảm xuống đến 0
Investment Reduced to Zero


Thông qua sự ghi nhận các khoản lỗ đã báo cáo cũng như bất kỳ giá trị hợp lý giảm vĩnh viễn, thì tài
khoản đầu tư có thể thực sự đã giảm đến 0. Điều kiện này có khả năng xảy ra nếu bên nhận đầu tư đã
gánh chịu các khoản lỗ trầm trọng hoặc nếu giá phí ban đầu của cuộc mua được thực tại mức thấp, giá
hời. Cho dù lý do gì đi nữa, giá trị thực hiện của tài khoản đầu tư có thể hình dung là bị loại trừ trong
tổng số.
Như là công ty Coca-Cola công bố như sau:
Giá trị thực hiện của khoản đầu tư của chúng tồn vào CCE (Coca-Cola Enterprises) bị giảm xuống 0 ngay
tại ngày 31/12/2008, chủ yếu vì kết quả ghi nhận phần tổn thất theo tỷ lệ tính và các khoản mục ảnh
hưởng đến AOCI (thu nhập tổng hợp khác và lũy kế) đã ghi nhận bởi CCE.

Khi một tài khoản đầu tư bị giảm xuống không (0), thì nhà đầu tư không nên tiếp tục sử dụng
phương pháp vốn chủ sở hữu thay vì tạo ra một số dư âm. Khoản đầu tư này vẫn và một số dư bằng
không cho đến khi lãi của nhà đầu tư có thể bù vào toàn bộ các khoản lỗ chưa thực hiện. Khi giá phí
ban đầu của khoản đầu tư đã được trừ hết, không có thêm khoản lỗ nào có thể tính cho nhà đầu tư (vì
toàn bộ giá phí đã được xóa sổ) ngoại trừ có một số cam kết chắc chắn hơn đã được thực hiện từ phía
bên nhận đầu tư.
Công ty Noise Cancellation Technologies, ví dụ, giải thích về báo cáo tài chính hiện tại không còn
sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu khi tài khoản đầu tư đã được giảm xuống không.
Khi phần lỗ của nhà đầu tư trong khoản lỗ lũy kế bằng với khoản đầu tư của nó và Công ty không có
nghĩa vụ hoặc không có ý định cung cấp vốn cho các khoản lỗ thêm nào nữa, thì Công ty dừng áp dụng
phương pháp vốn chủ… Công ty sẽ không thể ghi nhận bấy kỳ vốn chủ sở hữu trong thu nhập đối với một
đơn vị cho đến khi phần thu nhập của nó trong tương lai đủ để trang trãi hết mọi khoản lỗ lũy kế mà trước
đây đã không được ghi nhận.

Lập báo cáo khi bán khoản đầu tư vốn chủ sở hữu
Reporting the Sale of an Equity Investment

Tại bất kỳ thời gian nào, nhà đầu tư có thể lựa chọn để bán một phần hoặc tất cả cổ phần của nó trong
công ty nhận đầu tư. Nếu một vụ bán hàng xảy ra, thì phương pháp vốn chủ sẽ được áp dụng cho đến
ngày phát sinh giao dịch, do đó sẽ hình thành một giá trị thực hiện thích hợp cho khoản đầu tư. Nhà

đầu tư sau đó ghi giảm số dư bằng tỷ lệ cổ phiếu đã bán.
Ví dụ, giả định rằng Công ty Top sử hữu 40% trong 100,00 cổ phiếu đang lưu hành của công ty
Bottom, một khoản đầu tư được hạch toán bằng phương pháp vốn chủ sở hữu. Mặc dù 40,000 cổ
phiếu này được mua vào nhiều năm trước đây với giá $200,000, việc áp dụng phương pháp vốn chủ
sử hữu đã ghi tăng số dư tài sản này lên $320,000 ngay tại ngày 01/01/2011. Vào ngày 01/07/2011,
Top quyết định bán 10,000 cổ phiếu (1/4 khoản đầu tư) với giá $110,000 bằng tiền mặt, do đó giảm


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

15
quyền sở hữu trong Bottom từ 40% xuống còn 30%. Bottom báo cáo thu nhập của nó là $70,000 trong
6 tháng đầu năm 2011 và phân phối cổ tức tiền mặt là $30,000.
Top ban đầu thực hiện các bút toán nhật ký sau đây vào ngày 01/07/2010 để ghi nhận phần thu
nhập và thiết lập số dư khoản đầu tư:
Đầu tư vào Bottom
Vốn chủ sở hữu trong thu nhập của Bottom
Ghi nhận vốn chủ sở hữu trong thu nhập cho 6 tháng đầu
năm 2011 ($70,000 × 40%)
Tiền mặt
Đầu tư vào Bottom
Ghi nhận cổ tức đã nhận từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2011
($30,000 × 40%)

28,000
28,000

12,000
12,000


Hai bút toán này làm tăng giá trị sổ sách khoản đầu tư của Top thêm $16,000, tạo ra một số dư
$336,000 ngay tại ngày 01/07/2011. Bán ¼ cổ phiếu này có thể sau đó được ghi nhận như sau:
Tiền mặt
Đầu tư vào Bottom
Lãi bán đầu tư
Ghi nhận bán ¼ khoản đầu tư vào Bottom
( ¼ × $336,000 = $84,000)

110,000
84,000
26,000

Sau khi bán được hoàn tất, Top tiếp tục áp dụng phương pháp vốn chủ đối với khoản đầu tư trên cơ
sở 30% cổ quyền thay vì 40%. Tuy nhiên, nếu việc bán này đủ lớn đưa đến Top mất khả năng gây ảnh
hưởng đáng kể đến Bottom, thì phương pháp vốn chủ dừng áp dụng. Ví dụ, nếu cổ phiếu đang nắm
giữ của Top giảm từ 0% xuống 15% thì phương pháp vốn chủ không còn thích hợp sau khi bán. Cổ
phiếu vẫn đang được nắm giữ được báo cáo theo phương pháp giá trị hợp lý với giá trị sổ sách còn lại
trở thành giá gốc mới cho khoản đầu tư thay vì giá phí đã trả ban đầu.
Nếu một nhà đầu tư được yêu cầu thay đổi từ phương pháp vốn chủ sang phương pháp giá trị hợp
lý, thì không có điều chỉnh ngược về trước nào được thực hiện. Mặc dù, như đã minh họa trước đây,
một sự thay đổi phương pháp vốn chủ bắt buộc báo cáo lại những kỳ trước, nhưng việc xử lý này
không giống như khi thay đổi của nhà đầu tư từ phương pháp giá trị hợp lý.

PHẦN VƯỢT GIÁ PHÍ ĐẦU TƯ VỚI GIÁ TRỊ SỔ SÁCH ĐÃ MUA
EXCESS OF INVESTMENT COST OVER BOOK VALUE ACQUIRED

Sau khi các khái niệm và các thủ tục cơ bản của phương pháp vốn chủ đã thành thạo, thì các vấn đề kế
toán phức tạp hơn nên được giới thiệu. Chắc rằng một trong số vấn để phổ biến gặp phải khi áp dụng
phương pháp vốn chủ liên quan đến giá phí của khoản đầu tư mà vượt giá trị sổ sách (tương ứng tỷ lệ
sở hữu) của bên nhận đầu tư10.

Ngoại trừ nhà đầu tư mua lại cổ quyền của nó tại thời gian theo quan điểm của bên nhận đầu tư, thì
thanh toán một khoản tiền bằng với giá trị sổ sách là ít khi xảy ra. Một số lý do hợp lý tồn tại để giải
thích cho sự khác nhau giữa giá trị sổ sách của một công ty và giá cổ cổ phiếu của nó. Giá trị một
công ty tại bất kỳ thời gian nào phụ thuộc vào tập hợp các yếu tố như là khả năng sinh lợi của công ty,
giới thiệu sản phẩm mới, thanh toán cổ tức kỳ vọng, kết quả hoạt động đã hoạch định, và các điều
kiện kinh tế chung. Hơn nữa, giá cổ phiếu được dựa trên, ít nhất là một phần, giá trị cảm nhận tài sản
thuần của một công ty, giá trị mà thường khác một cách cơ bản với giá trị sổ sách cơ sở. Các tài khoản
tài sản và nợ phả trả trình bày trên một bảng cân đối kế toán hướng tới đo lường giá gốc lịch sử thay
10 Mặc dù cũng gặp phải ít thường xuyên hơn, nhưng các khoản đầu tư có thể được mua tại một mức giá thấp hơn giá
trị sổ sách của bên nhận đầu tư. Kế toán trường hợp lày được nghiên cứu ở các chương sau.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

16
vì giá trị hiện hành. Thêm vào đó, số liệu được báo cáo bị ảnh hưởng bởi các phương pháp kế toán
nhất định được sử dụng bởi một công ty. Phương pháp tính giá vốn hàng tồn kho như là LIFO và
FIFO, ví dụ, hoàn toàn đưa đến sư khác nhau giữa giá trị sổ sách cũng như mỗi phương pháp khấu
hao được chấp nhận.
Nếu một khoản đầu tư được mua lại tại một mức giá vượt giá trị sổ sách, các lý do hợp lý nên giải
thích giá phí tăng thêm được ganh chịu bởi nhà đầu tư. Nguồn gốc của phần vượt của giá phí với giá
trị sổ sách là rất quan trọng. Công nhận thu nhập đòi hỏi phù hợp doanh thu phát sinh từ khoản đầu tư
với giá phí. Phần vượt giá phí được phân bổ cho tài sản cố định sẽ được tính vào chi phí qua nhiều kỳ
kế toán hơn là giá phí phân bổ cho hàng tồn kho. Khi áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu, nguyên
nhân của khoản thanh toán vượt này có thể được chia thành hai loại chung như sau:
1.

Xác định tài sản và nợ phải trả của bên nhận đầu tư có thể có giá trị hợp lý mà khác với giá trị
sổ sách hiện tại của họ. Thanh toán phần vượt có thể được xác định một cách trược tiếp với
các tài khoản riêng lẻ như là hàng tồn kho, thiết bị, các quyền nhượng quyền thương mại, và

những cái khác.

2.

Nhà đầu tư có thể sẵn lòng trả một giá trị vượt bởi vì lợi ích tương lai được kỳ vọng để tính
toán từ khoản đầu tư. Những lợi ích này có thể được dự đoán như là kế toán của các nhân tố
đó là khả năng sinh lợi ước tính hoặc mối quan hệ đã thiết lập giữa hai công ty này. Trong
trường hợp này, thanh toán tăng thêm được quy vào vào giá trị tài sản vô hình tương lai
thường đề cập đến như là lợi thế thương mại thay vì là bất kỳ tài sản hoặc nợ phải trả nhất
định nào đó của bên nhận đầu tư. Ví dụ, trong một báo cáo thường niên gần đây, Công ty Intel
công bố rằng khoản đầu tư dài hạn vào Clearwire, hạch toán theo phương pháp vốn chủ sở
hữu, bao gồm lợi thế thương mại xấp xỉ 108 triệu USD.

Như một minh họa, giả định rằng Big đang đàm phán mua lại 30% cổ phiếu đang lưu hành của
Little. Bảng cân đối kế toán của Little báo cáo tài sản $500,000 và nợ phải trả $300,000 do đó giá trị
sổ sách thuần là $200,000. Sau khi thẩm định, Big xác định rằng thiết bị của Little bị đánh giá thấp
trên sổ sách tài chính của công ty này là $60,000. Một trong số bằng sáng chế của nó cũng bị đánh giá
thấp, nhưng chỉ là $40,000. Bằng cách cộng lại các điều chỉnh đánh giá này vào giá trị sổ sách của
Little, Big đi đến một giá trị ước tính là $300,000 đối với tài sản thuần của công ty này. Dựa trên tính
toán này, Big đề nghị trả $90,000 cho 30% cổ phiếu đang lưu hành của bên nhận đầu tư.
Giá trị sổ sách của Little (tài sản trừ đi nợ phả trả hoặc vốn
chủ sở hữu cổ đông)
Thiết bị bị đánh giá thấp
Bằng sáng chế bị đánh giá thấp
Giá trị tài sản thuần
Tỷ lệ mua lại
Giá phí mua

$ 200,000
60,000

40,000
$ 300,00
30%
$ 90,000

Mặc dù giá phí mua của Big vượt quá giá trị tương ứng với tỷ lệ giá trị sổ sách của Little, nhưng
giá trị tăng thêm này có thể được quy cho hai tài khoản xác định: Thiết bị và Bằng sáng chế. Không
có khoản thanh toán nào thêm có thể quy cho cho lợi ích kỳ vọng trong tương lai.
Thanh toán bởi nhà đầu tư
Phần giá trị sổ sách đã mua
Phần thanh toán vượt giá trị sổ sách
Thanh toán phần vượt xác định với những tài sản:
Thiết bị ($60,000 định giá thấp × 30%)
Bằng sáng chế ($40,000 định giá thấp × 30%)
Thanh toán phần vượt không xác định được cho tài sản
này – quy cho Lợi thế thương mại

$ 90,000
60,000
30,000
$ 18,000
12,000

30,000
0


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

17

Khoản thanh toán phần vượt $30,000 được thực hiện bởi nhà đầu tư, $18,000 được phân bổ cho
thiết bị trong khi $12,000 được tính cho bằng sáng chế. Không có khoản nào từ giá mua được phân bổ
cho lợi thế thương mại.
Lấy ví dụ này cho nhiều bước hơn, giả định rằng chủ sở hữu của Little từ chối mức giá đề nghị
$90,000 của Big. Họ tin rằng giá trị của công ty đang tiếp tục hoạt động cao hơn so với giá trị hợp lý
của tài sản thuần. Bởi vì ban quản lý của Big tin rằng hợp lực lại có thể đánh giá sẽ được tạo ra thông
qua cuộc mua mày, giá mua được tăng lên $125,000 và được chấp nhận. Giá mua mới này được phân
bổ như sau:
Thanh toán bởi nhà đầu tư
Phần giá trị sổ sách đã mua
Phần thanh toán vượt giá trị sổ sách
Thanh toán phần vượt xác định với những tài sản:
Thiết bị ($60,000 định giá thấp × 30%)
Bằng sáng chế ($40,000 định giá thấp × 30%)
Thanh toán phần vượt không xác định được cho tài sản
này – quy cho Lợi thế thương mại

$ 125,000
60,000
65,000
$ 18,000
12,000

30,000
$ 35,000

Như ví dụ này cho biết, bất kỳ khoản thanh toán thêm nào không thể tính cho một tài sản hoặc một
khoản nợ phải trả thì được phân bổ cho tài sản vô hình là lợi thế thương mại. Mặc dù giá mua thực sự
có thể được tính toán bởi một số kỹ thuật khác nhau hoặc chỉ đơn thuần kết quả từ các cuộc đàm phán,
nhưng lợi thế thương mại luôn luôn là giá trị vượt mà không được phân bổ vào tài sản có thể xác định

được và nợ phải trả.
Theo phương pháp vốn chủ sở hữu, nhà đầu tư ghi nhận tổng giá phí vào một tài khoản đầu tư duy
nhất bất kể là việc phân bổ của bất kỳ khoản vượt giá mua nào. Nếu tất cả bên tham gia chấp nhận
mức giá $125,000 của Big, thì cuộc mua được ghi nhận ban đầu tại giá trị này cho dù sự phân bổ nội
bộ được thực hiện cho thiết bị, bằng sáng chế và lợi thế thương mại. Toàn bộ số tiền $125,000 được
thanh toán để mua lại khoản đầu tư này, và nó được ghi nhận như vậy.

Quy trình phân bổ
The Amortization Process

Các khoản thanh toán thêm trước đó được thực hiện liên quan đến các tài sản xác định (thiết bị, bằng
sáng chế và lợi thế thương mại). Mặc dù giá thực thực sự được ghi nhận vào tài khoản đầu tư, nhưng
giá phí lịch sử xác định có thể quy cho những tài sản này. Với chi phí đối với nhà đầu tư cũng như với
một thời gian xác định được, khoản thanh toán liên quan đến mỗi tài sản (ngoại trừ đất đai, lợi thế
thương mại và các tài sản vô hình không xác định được thời hạn sử dụng khác) nên được phân bổ theo
thời gian hợp lý.
Theo lịch sử, lợi thế thương mại ẩn trong các khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ được phân
bổ trong thời gian ít hơn hoặc bằng 40 năm. Tuy nhiên, vào tháng 06/2001, có một sự thay đổi chính
yếu và cơ bản trong GAAP đối với lợi thế thương mại. Thời gian hữu dụng đối với lợi thế thương mại
bây giờ được xem là không xác định được. Do đó, lọi thế thương mại phân bổ vào chi phí không còn
tồn tại trên báo cáo tài chính 11. Bất kỳ lợi thế thương mại tồn tại được đưa vào mà không điều chỉnh
cho đến khi khoản đầu tư đã được bán hoặc giảm vĩnh viễn về giá trị xảy ra.
Lợi thế thương mại có thể theo dõi giá trị của nó và theo lý thuyết có thể ghi tăng theo thời gian.
Quan điểm về thời gian không xác định được đối với lợi thế thương mại công nhận lập luận rằng sự
phân bổ lợi thế thương mại trong một thời gian tùy ý làm sai lệch phản ánh thực tiễn kinh tế và vì vậy
không cung cấp thông tin hữu ích. Một lý do chính đối với giả định về thời gian hữu ích không xác
11 Những tài sản vô hình khác (như là giấy phép, nhãn hiệu) cũng có thể được xem là không xác định được thời gian
hữu ích và do đó không được phân bổ ngoại trừ và cho đến khi thời gian hữu ích xác định được. Thảo luận thêm về
tài sản vô hình mà không xác định được thời gian hữu ích trình bày ở Chương 3.



Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

18
định được đối với lợ thế thương mại liên quan đến kế toán hợp nhất kinh doanh (đề cập trong Chương
2 đến 7). Lợi thế thương mại liên quan đến các khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ, đa số, được
hạch toán cùng một cách thức như là lợi thế thương mại phát sinh từ một hợp nhât kinh doanh. Một
điều khác biệt là lợi thế thương mại phát sinht từ một cuộc hợp nhất kinh doanh tùy thuộc vào kiểm
tra tổn thất hàng năm, trong khi lợi thế thươn mại từ các khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ thì
không. Các khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ được kiểm tra toàn bộ đối với sự tổn thất vĩnh
vĩnh về giá trị12.
Giả định rằng thiết bị có thời gian còn lại là 10 năm, bằng sáng chế là 5 năm, và lợi thế thương mại
không xác định được thời gian. Nếu phương pháp phân bổ theo đường thẳng được sử dụng và không
có giá trị thu hồi, thì chi phí của nhà đầu tư nên được phân bổ ban đầu tư sau 13:
Chi phí đã phân
bổ
Thiết bị
$18,000
Bằng sáng chế
12,000
Lợi thế thương mại
35,000
Chi phí hàng năm (cho 5 năm đến khi nguyên
giá của bằng sáng chế đã phân bổ hết)
Tài khoản

Thời gian sử dụng
10 năm
5 năm
Không xác định


Phân bổ hàng năm
$1,800
2,400
0
$4,200

Khi ghi nhận chi phí hàng năm này, Big làm giảm một phần số dư khoản đầu tư trong cùng một
cách thức cách mà nó sẽ phân bổ nguyên giá của các tài sản khác mà có thời gian xác định. Do đó, tại
cuối năm đầu tiên, nhà đầu tư ghi nhận bút toán nhật kỳ như sau theo phương pháp vốn chủ:
Thu nhập từ bên nhận đầu tư
Đầu tư vào Little
Ghi nhận phân bổ phần vượt của thiết bị và bằng sáng chế

4,200
4,200

Bởi vì sự phân bổ này liên quan đến tài sản của bên nhận đầu tư, nên nhà đầu thư không thiết lập
một tài khoản chi phí cụ thể. Thay vào dods, như ở bút toán trước đây, khoản chi phí này được ghi
nhận thông qua ghi giảm vào thu nhập từ bên đầu tư.
Để minh họa toàn bộ quy trình, giả định rằng công ty Tall mua lại 20% lợi ích trong công ty Short
với giá 200,000. Tall có thể gây ảnh hưởng đáng để đến Short; do đó, phương pháp vốn chủ là thích
hợp được áp dụng. Cuộc mua được thực hiện vào ngày 01/01/2011, khi đó Short có tài sản thuần với
giá trị sổ sách là $700,000. Tall tin rằng nhà của của Short (10 năm sử dụng) bị đánh giá thấp trên sổ
sách tài chính là $80,000 và thiết bị với thời gian sử dụng 5 năm bị đánh giá thấp $120,000. Bất kỳ lợi
thế thương mại tạo ra bởi cuộc mua này được xem là không xác định được thời gian hữu ích. Trong
năm 2011, Short báo cáo thu nhập thuần $150,000 và trả cổ tức tiền mặt vào cuối năm là $60,000.
Ba bút toán cơ bản của Tall cho năm 2011 đặt ra một số vấn đề:
Ngày 01/01/2011
Đầu tư vào Short

Tiền mặt
Ghi nhận cuộc mua 20% cổ phiếu đang lưu hành của Short
Ngày 31/12/2011
Đầu tư vào Short
Thu nhập từ Short
Ghi nhận 20% từ thu nhập đã báo cáo của Short

200,000
200,000

30,000
30,000

12 Bời vì lợi thế thương mại theo phương pháp vốn chủ không thể tách ra khỏi khoản đầu tư, lợi thế thương mại không
nên được kiểm tra một cách riêng lẻ đối với tổn thất. Xem FASB ASC đoạn 350-20-35-59.
13 Ngoại trừ có phát biểu khác, tất cả tính toán phân bổ được dựa trên phương pháp đường thẳng và không có giá trị
thu hồi.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

19

($150,00 × 20%)
Tiền mặt
Đầu tư vào Short
Ghi nhận cổ tức đã nhận ($60,000 × 20%)

12,000
12,0000


Một phân bổ giá mua $200,000 của Tall phải được thực hiện để xác định có hay không một bút
toán điều chỉnh thêm nữa là cần thiết để ghi nhận phân bổ hàng năm liên quan đến khoản thanh toán
thêm.
Thanh toán bởi nhà đầu tư
Tỷ lệ giá trị sổ sách ngày 01/01/2011
($700,000 × 20%)
Thanh toán khoản vượt giá trị sổ sách
Phần vượt phân bổ cho tài sản xác định được:
Nhà cửa ($80,000 × 20%)
Thiết bị ($120,000 × 20%)
Phần vượt phân bổ cho lợi thế thương mại

$200,000
140,000
60,000
$16,000
24,000

40,000
$ 20,000

Như có thể thấy, $16,000 trong giá mua được phân bổ cho nhà cửa, $24,000 cho thiết bị, phần còn
lại $20,000 cho lợi thế thương mại. Với mỗi tài sản có thời gian hữu dụng xác định được, phân bổ
định kỳ được yêu cầu.
Tài khoản
Thiết bị
Bằng sáng chế
Lợi thế thương mại
Tổng cho năm 2011


Chi phí đã phân
bổ
$16,000
24,000
20,000

Thời gian sử dụng
10 năm
5 năm
Không xác định

Phân bổ hàng năm
$1,600
4,800
0
$6,4 00

Tại cuối năm 2011, Tall phải ghi nhận điều chỉnh sau đây liên quan đến các phân bổ chi phí này:
Thu nhập từ Short
Đầu tư vào Short
Ghi nhận phân bổ cho 2011,
nhà cửa ($1,600) thiết bị ($4,800)

6,400
6,400

Mặc dù những bút toán được trình bày một cách riêng lẻ ở đây để giải thích tốt hơn, nhưng Tall sẽ
dồn tích thu nhập thuần cho năm ($30,000) và phân bổ ($6,000) để tạo ra một bút toán duy nhất ghi
tăng khoản đầu tư và ghi nhận thu nhập vốn chủ sở hữu là $23,600. Do đó, thu nhập năm đầu tiên trên

số dư đầu tư đầu kỳ của Tall (xác định như là thu nhập vốn chủ sở hữu ÷ số dư đầu tư đầu kỳ) bằng
11.80% ($23,600/$200,000).

LOẠI TRỪ LÃI CHƯA THỰC HIỆN TRONG HÀNG TỒN KHO14
ELIMINATION OF UNREALIZED PROFITS IN INVENTORY

Nhiều cuộc mua vốn chủ sở hữu thiết lập sự ràng buộc giữa các công ty để tạo điều kiện thuận lợi cho
mua và bán hàng tồn kho trực tiếp. Các giao dịch nội bộ (liên công ty) này có thể xảy ra hoặc theo
một cơ sở đều đặn (regular basis) hoặc chỉ thỉnh thoảng. Ví dụ, Coca-Cola công bố rằng nó bán $6.3
tỷ si rô, sản phẩm cô đặc, và các thành phẩm khác cho một công ty nhận đầu tư 35% sở hữu của nó là
Xí nghiệp Coca-Cola.
Bất kể là tần số của chúng, hàng tồn kho bán giữa nhà đầu tư và bên nhận đầu tư yêu cầu phải có
các thủ tục kế toán đặc biệt để đảm bảo tính toán thời gian đúng đắn về ghi nhận doanh thu. Một
14 Lãi chưa thực hiện có thể liên quan đến bán các khoản mục khác ngoài hàng tồn kho. Chuyển giao nội bộ tài sản cố
định có khấu hao và đất đai được thảo luận trong một chương sau.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

20
nguyên tắc cơ bản của kế toán là “doanh thu không được ghi nhận cho đến khi đã thực hiện…và
doanh thu được xem là đã thực hiện khi đơn vị kinh doanh đã hoàn thành một cách đáng kể điều mà
nó phải làm để được phép xem là lợi ích thể hiển bởi doanh thu ”. 15 Khi bán hàng tồn kho cho một bên
không liên quan, ghi nhận doanh thu không thường không có vấn đề gì; hoàn thành đáng kể đạt được
khi trao đổi diễn ra ngoại trừ các điều khoản đặc biệt được đưa vào hợp đồng.

15 15 FASB, Statement of Financial Accounting Concepts No. 6, “Recognition and Measurement in Financial Statements
of Business Enterprises” (Stamford, CT: December 1984), para. 83.



Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

BẢNG MINH HỌA
1.2

21

Bán hàng thuận hướng & nghịch hướng

Nhà đầu tư
Bên nhận đầu tư
Bán thuận hướng
Nhà đầu tư
Bên nhận đầu tư
Bán nghịch hướng

Đáng tiếc rằng, quy trình tạo thu nhập không được phác họa một cách rõ ràng trong bán hàng được
thực hiện giữa các bên liên quan. Bởi vì mối quan hệ giữa công ty đầu tư và công ty nhận đầu tư, nên
người bán hàng hóa được cho là giữ lại một phần tiền vốn trong hàng tồn kho chỉ cần người mua
nắm giữ nó. Do đó quy trình tạo thu nhập không được xem là hoàn tất tại thời gian bán hàng ban đầu.
Đối với kế toán thích hợp, công nhận thu nhập phải được hoãn lại cho đến khi hoàn thành đáng kể
được chứng minh. Kết quả là, khi nhà đầu tư áp dụng phương pháp vốn chủ, lập báo cáo lợi nhuận
liên quan đến chuyển giao nội bộ được hoãn lại cho đến khi sự chuyển nhượng hàng hóa cho người
mua cuối cùng. Khi hàng tồn kho được tiêu dùng thực sự trong hoạt động kinh doanh hoặc được bán
cho một bên không liên quan, doanh thu ban đầu được ghi nhận và lãi gộp được ghi nhận toàn bộ.
Trong kế toán, các giao dịch giữa các ty công có quan hệ được xác định như là thuận hướng hoặc
ngược hướng. Bán hàng thuận hướng đề cập đến một nhà đầu tư bán hàng cho bên nhận đầu tư.
Ngược lại. Bán hàng ngược hướng mô tả là bên nhận đầu tư bán hàng cho nhà đầu tư (xem Bảng minh
họa 1.2). Mặc dù hướng bán hàng nội bộ không ảnh hưởng đến các số dư theo phương phương pháp
vốn chủ sở hữu đã báo cáo đối với các khoản đầu tư khi ảnh hưởng đáng kể tồn tại, nhưng nó có kết

quả rõ ràng khi kiểm soát tài chính yêu cầu sự hợp nhất báo cáo tài chính, sẽ được thảo luận ở
Chương 5. Do đó, hai loại bán hàng nội bộ này được xem xét một cách riêng lẻ thậm chí ngay giai
đoạn giới thiệu.

Bán hàng tồn kho thuận hướng
Downstream Sales of Inventory

Giả định rằng công ty Big sở hữu 40% cổ phần của công ty Little và hạch toán khoản đầu tư này theo
phương pháp vốn chủ. Trong năm 2011, Big bán hàng tồn kho cho Little tại một mức giá là $50,000.
Giá bán này bao gồm một khoản lãi gộp là 30%, hay $15,000. Trước ngày cuối năm 2011, Little đã
bán $40,000 hàng hóa này ra bên ngoài và còn lại $10,000 trong hàng tồn kho để bán trong các năm
tiếp theo.
Nhà đầu tư đã thực hiện bán hàng thuận hướng cho bên nhận đầu tư. Khi áp dụng phương pháp
vốn chủ, sự công nhận lợi nhuận liên quan phải được hoãn lại cho đến khi người mua chuyển nhượng
những hàng hóa này. Mặc dù tổng chuyển giao nội bộ trị giá là $50,000 trong năm 2011, nhưng
$40,000 hàng hóa này đã bán ra bên ngoài, do đó chứng minh báo cáo lợi nhuận bình thường. Đối với
$10,000 vẫn còn trong hàng tồn kho của bên nhận đầu tư, quá trình tạo thu nhập chưa hoàn thành. Khi
tính toán thu nhập vốn chủ, phần lợi nhuận nội bộ này phải được hoãn lại cho đến khi Little bán hết
hàng hóa này.


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

22
Lãi gộp trong doanh thu ban đầu là 30% của giá chuyển giao; do đó, lợi nhuận của Big liên quan
đến các khoản mục còn lại này là $3,000 ($10,000 × 30%). Tuy nhiên, bởi vì chỉ nắm giữ 40% cổ
phiếu của bên nhận đầu tư, chỉ $1,200 ($3,000 × 40%) của lợi nhuận này là chưa thực hiện. Tỷ lệ sở
hữu của Big phản ánh tỷ lệ lãi nội bộ. Tổng lãi gộp $3,000 trong số dư hàng tồn kho cuối kỳ không
phải giá trị hoãn lại. Hơn nữa, 40% lãi gộp này được xem như là giá trị chưa thực hiện hiện hành.
Tồn kho cuối

kỳ
$10,000

Tỷ lệ lãi gộp
30%

Lãi gộp trong
hàng tồn kho
$3,000

Tỷ lệ sở hữu của
nhà đầu tư
40%

Lãi nội bộ chưa thực hiện
$1,200

CÂU HỎI THẢO LUẬN
ĐIỀU NÀY CÓ THỰC SỰ ẢNH HƯỞNG ĐÁNG KỂ KHÔNG?
Công ty Coca-Cola hạch toán cổ quyền của nó trong Coca-Cola Enterprises, Inc. (CCE), bằng
phương pháp vốn chủ sở hữu như đã mô tả trong chương này. Năm 2008, Coca-Cola nắm giữ gần
35% cổ phiếu biểu quyết của CCE. Theo báo cáo tài chính của CCE, sản phẩm của Coca-Cola hạch
toán gần 93% tổng doanh thu của Coca-Cola. Hơn nữa, ban giám đốc CEE là các lãnh đạo của
Coca-Cola. CCE thực hiện kinh doanh chủ yếu theo hợp đồng với Coca-Cola. Những hợp đồng này
trao cho CCE độc quyền thị trường, phân phối và sản xuất nước giải khát của Coca-Cola theo các
thùng chứa có ủy quyền và các khu vực đã xác định. Những hợp đồng này trao cho Coca-Cola với
khả năng, tùy theo quyết định của nó, thiết lập giá, điều khoản thanh toán và các điều khoản và điều
kiện khác để mua hàng tập trung và si rô từ Coca-Cola.
Nếu Coca-Cola mua lại hơn 16% của CCE, thì nó sẽ nắm giữ cổ phiếu đa số vì thế yêu cầu phải
hợp nhất. Tuy nhiên, quy mô cổ quyền và tính phụ thuộc hiện tại mà CCE có trên Coca-Cola về sản

phẩm và marketing, Coca-Cola thực sự không có nhiều hơn “khả năng gây ảnh hưởng đáng kể đến
các chính sách hoạt động và tài chính” của CCE không? Phương pháp vốn chủ có thể hiện tính hợp
lý mối quan hệ đang tồn tại này không? Hoặc Coca-Cola có thực sử kiểm soát CCE mặc dù chỉ là
mức sở hữu này, và có nên yêu cầu phải hợp nhất không? FASB có nên xem xét lại ranh giới giữa
việc áp dụng phương pháp vốn chủ và hợp nhất không? Các quy định có được thiết lập lại để mà
Coca-Cola phải hợp nhất CCE thay vì sử dụng phương pháp vốn chủ không? Nếu vật, tại mức sở
hữu nào thì phương pháp vốn chủ sẽ không còn thích hợp?
Sau khi tính toán hoãn lại thích hợp, nhà đầu tư ghi giảm thu nhập vốn chủ hiện hành thêm $1,200
để phản ánh phần lợi nhuận nội bộ chưa thực hiện tương ứng. Thủ tục này tạm thời loại ra một phần
lợi nhuận khỏi sổ sách củ nhà đầu tư trong năm 2011 cho đến khi bên nhận đầu tư bán hết hàng tồn
kho trong năm 2012. Big hoàn thành khoãn hoãn lại thực sự thông qu bút toán nhật kỳ cuối năm như
sau:
Hoãn lại lãi gộp chưa thực hiện
Thu nhập từ Little (thu nhập vốn chủ)
Đầu tư vào Little
Hoãn lại lãi gộp chưa thực hiện từ bán hàng cho Little

1,200
1,200

Trong năm sau, khi hàng tồn kho này thực sự được tiêu dùng bởi Little hoặc đã bán cho các bên
không liên quan, khoản hoãn lại không còn cần thiết. Quý trình tạo thu nhập được hoàn tất, và Big
nên ghi nhận $1,200. Bằng cách đơn giản đảo lại bút toán hoãn lại trước đây, kế toán thành công trong
việc dịch chuyển loại nhuận của nhà đầu tư vào kỳ thích hợp. Sự ghi nhận dịch chuyển từ năm bán
sang năm mà quá trình tạo thu nhập được hoàn thành đáng kể.

Ghi nhận lãi nội bộ đã thực hiện năm sau
Đầu tư vào Little

1,200

1,200


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

23

Thu nhập từ Little (thu nhập vốn chủ)
Ghi nhận thu nhập từ bán hàng nội bộ mà bây giờ đã thực
hiện thông qua bán ra bên ngoài

Báng hàng tồn kho nghịch hướng
Upstream Sales of Inventory

Không giống như báo cáo tài chính hợp nhất (xem Chương 5), phương pháp vốn chủ báo có bán hàng
tồn kho ngược hướng trong cùng cách thức giống nhau như bán hàng thuận hướng. Do đó, lãi chưa
thực hiện còn lại trong hàng tồn kho cuối kỳ được hoãn lại cho đến khi hàng tồn kho này được sử
dụng hoặc bán ra ngoài. Để minh họa, giả định rằng Big (vẫn tương tự như trước) sở hữu 40% Little.
Trong năm hiện hành, Little bán hàng hóa có giá vốn $40,000 cho Big với giá $60,000. Ạt ngày cuối
năm tài chính, Big vẫn còn giữ $15,000 hàng hóa này. Little báo cáo thu nhập thuần $120,000 cho
năm.
Để phản ánh cơ sở dồn tích của thu nhập của nhà đầu tư, Big ghi nhận bút toán nhật kỳ sau tại
ngày cuối năm:
Thu nhập dồn tích
Đầu tư vào Little
Thu nhập từ Little (thu nhập vốn chủ)
Ghi nhận thu nhập từ 40% sở hữu bên nhận đầu tư
($120,000 × 40%)

48,000

48,000

Giá trị lãi gộp còn lại chưa thực hiện tại ngày cuối năm được tính toán sử dụng tỷ lệ 33.33 lãi gộp
của giá bán ($20,000/$60,000):
Tồn kho cuối
kỳ
$15,000

Tỷ lệ lãi gộp
33,33%

Lãi gộp trong
hàng tồn kho
$5,000

Tỷ lệ sở hữu của
nhà đầu tư
40%

Lãi nội bộ chưa thực hiện
$200

Dựa vào tính toán này, một bút toán thứ hai được yêu cầu cho nhà đầu tư tại cuối năm. Một lần
nữa, hoãn lại lãi gộp chưa thực hiện được tạo ra bởi bán hàng nội bộ là cần thiết đối với xác định thời
gian thích hợp của ghi nhận thu nhập. Theo phương pháp vốn chủ cho khoản đầu tư vớ ảnh hưởng
đáng kể, hương bán hàng giữa nhà đầu tư và bên nhận đầu tư (nghịch hướng hoặc thuận hướng)
không ảnh hưởng đến giá trị cuối cùng đã báo cáo trên báo cáo tài chính.
Hoãn lại lãi gộp chưa thực hiện
Thu nhập từ Little
Đầu tư vào Little

Hoãn lại sự ghi nhận lãi gộp nội bộ chưa thực hiện cho đến
khi hàng tồn kho được sử dụng hoặc được bán ra ngoài

2,000
2,000

Sau khi điều chỉnh, Big, nhà đầu tư, báo cáo thu nhập từ khoản đầu tư vốn chủ sở hữu này là
$46,000 ($48,000 × $2,000). Dồn tích thu nhập được giảm xuống bởi vì một phần lãi gộp nộp bộ được
xem là chưa thực hiện. Khi nhà đầu tư tiêu dùng thực sự hoặc bán $15,000 trong hàng hóa, bút toán
nhất kỳ trước được ghi đảo. Trong cách này, các ảnh hưởng của bán hàng được báo cáo trong kỳ kế
toán thích hợp khi khoản lãi này đã được thực hiện bởi bán cho một bên không liên quan.
Trong một cuộc bán hàng nghịch hướng, tài khoản hàng tồn kho riêng của nhà đầu tư chứa dựng
lãi chưa thực hiện. Mặc dù bút toán trước hoãn lại sự ghi nhận khoản lãi này băng cách ghi giảm tài
khoản đầu tư của Big hay cho số dư hàng tồn kho. Một cách xử lý thay thế là giảm trực tiếp vào số dư
hàng tồn kho của nhà đầu tư như là một cách thức của kế toán giá trị chưa thực hiện này. Mặc dù cách


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

24
thay thế này được chấp nhận, nhưng ghi giảm khoản đầu tư vẫn là phương pháp truyền thống đối với
hoãn lại lãi gộp chưa thực hiện, thậm chí đối với bán hàng nghịch hướng.
Bán hàng thuận hướng hoặc nghịch hướng, bán hàng và mua hàng của nhà đầu tư vẫn được báo
cáo như thể là các giao dịch này được thịch hiện với các bên không liên quan. Chỉ lãi gộp chưa thực
hiện được hoãn lại, và giá trị này được điều chỉnh thông qua tài khoản thu nhập vốn chủ sở hữu. Hơn
nữa, bởi vì các công ty này không được hợp nhất, nên số dư đã báo cáo của bên nhận đầu tư không
được điều chỉnh tất cả để phản ánh bản chất của hoạt động bán hàng/mua hàng này. Rõ ràng, người
đọc báo cáo tài chính cần phải biết về việc đưa những khoản này vào báo cáo thu nhập. Do đó, các
công ty lập báo cáo phải thuyết minh thông tin nhất định về giao dịch các bên liên quan. Các công bố
này bao gồm bản chất của mối quan hệ, mô tả về các giao dịch, giá trị giao dịch, và các giá trị do hoặc

từ bất kỳ các bên liên quan nào tại cuối năm.

Ra quyết định và Phương pháp vốn chủ
Decision Making and the Equity Method

Quan trọng để nhận thức rằng các quyết định kinh doanh, bao gồm các khoản đầu tư vốn chủ sở hữu,
điểm hình liên quan đến việc đánh giá một loạt các hệ quả. Ví dụ, nhà quản trị thường xuyên rất thích
báo cáo tài chính ảnh hưởng đến quyết định của họ như thế nào. Sự quan tâm đến báo cáo tài chính
ảnh hưởng đến các quyết định kinh doanh phát sinh bởi vì các đánh giá thành quả tài chính thường
ảnh hưởng sau đây:


Khả năng của hãng gia tăng vốn



Thù lao quản trị



Khả năng đáp ứng các thỏa thuận nợ và lãi suất tương lai.



Danh tiếng của các nhà quản trị.

Các nhà quản trị cũng muốn biết rằng đo lường EPS (thu nhập trên cổ phiếu) có thể ảnh hưởng mạnh
mẽ sự nhận thức của nhà đầu tư về giá trị cơ sở của cổ phiếu được mua bán ngoài công chúng của một
hãng. Kết quả là, trước khi thực hiện các quyết định đầu tư, các hãng sẽ nghiên cứu và đánh giá các
ảnh hưởng trong tương lai của việc áp dụng phương pháp vốn chủ đến thu nhập đã báo cáo trong báo

cáo tài chính. Hơn nữa, các phân tích các ảnh hưởng của thu nhập đã báo cáo trong tương lai có thể
tác động các hãng liên quan đến mức độ ảnh hưởng mà họ muốn có hoặc thậm chí là quyết định có
nên đầu tư hay không. Ví dụ, các nhà quản lý có thể có một suất sinh lợi dự kiến mong muốn trên một
khoản đầu tư ban đầu. Trong một số trường hợp, một sự phân tích thu nhập dự kiến sẽ được thực hiện
để hỗ trợ trong việc thiếp lập giá đề nghị.
Ví dụ, Công ty Investmor đang xem xét một đầu tư vốn chủ tiềm năng 20% trong Marco, mà sẽ có
một mức ảnh hưởng đáng kể. Marco dự kiến thu nhập hàng năm là $300,000 cho tương lai gần. Giá trị
sổ sách của Marco là $450,000 vf nó công nghệ đã phát triển mới chưa được ghi nhận định giá tại
$200,000 với thời gian hữu dụng ước tính là 10 năm. Khi xem xét mức giá đề nghị đối với khoản đầu
tư 25% vào Marco, Investmor dự kiến thu nhập vốn chủ như sau:

Thu nhập dự kiến (25% × $300,000)
Phân bổ phần vượt bằng sáng chế ([25% × 200,000]/10 years)
Vốn chủ sở hữu kỳ vọng hàng năm trong thu nhập của Marco

$75,000
(5,000)
$70,000

Tỷ suất sinh lợi (trước thuế) năm đầu tiên được yêu cầu của Investmor trên những loại đầu tư này
là 20%. Do đó, để đáp ứng yêu cầu tỷ suất sinh lợi năm đầu tiên liên quan đến một mức giá tối đa là


Chương 1 − Kế toán đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu

25
$350,000 ($70,000/20% = $350,000). Nếu cổ phiếu này được giao dịch một cách công khai (ngoại trừ
hãng này là một “người làm giá”), các dự đoán thu nhập này có thể hỗ trợ công ty khi thực hiện một
một khuyến nghị để chờ giá cổ phiếu dịch chuyển để làm khoản đầu tư hấp dẫn.


Sự phê bình Phương pháp vốn chủ
Criticisms of the Equity Method

Qua một số thập kỹ trong quá khứ, hàng ngàn doanh nghiệp đã hạch toán các khoản đầu tư của họ
bằng cách sử dụng phương pháp vốn chủ. Gần đây, tuy nhiên, phương pháp vốn chủ đã rơi vào sự chỉ
trích như sau:


Việc nhấn mạnh 20−50% cổ phiếu biểu quyết khi xác định ảnh hưởng trọng yếu so với kiểm
soát.



Cho phép tài trợ ngoài bảng cân đối kế toán



Các tỷ suất hiệu quả có khả năng thiên vị

Các hướng dẫn cho phương pháp vốn chủ đề nghị rằng quyền sở hữu 20–50% cổ phiếu biểu quyết
cho biết ảnh hưởng trọng yếu mà rơi vào thiếu kiểm soát. Nhưng có thể một hãng trích dẫn “kiểm
soát” qua một hãng khác không có một lợi ích hơn 50%? Rõ ràng, nếu một hãng kiểm soát một hãng
khác, các hãng có thể nghiên cứu các cách thức để kiểm soát các hãng khác mặc dù sở hữu ít hơn 50%
cổ phiếu biểu quyết. Ví dụ, các hợp đồng với các công ty có thể hạn chế khả năng một hãng hoạt động
trong sự cho phép của một hãng khác. Kiểm soát theo hợp đồng này có thể được thấy trong các ràng
buộc về nợ (thỏa thuận nợ), các hợp đồng mua hàng và bán hàng dài hạn, và các thỏa thuận liên quan
đến thành viên hội đồng quản trị. Kết quả là, kiểm soát được thực thi thông qua nhiều ràng buộc theo
hợp đồng. Vì mục đich lập báo cáo tài chính, tuy nhiên, nếu quyền sở hữu là 50% hoặc ít hơn, thì một
hãng có thể lập luận rằng kiểm soát không tồn tại một cách chính xác.
Ngược lại với báo cáo tài chính hợp nhất, khi áp dụng phương pháp vốn chủ, tài sản và nợ phải trả

của bên nhận đầu tư không được hợp nhất với các giá trị của nhà đầu tư. Thay vào đó, bảng cân đối kế
toán của nhà đầu tư trình bày một giá trị duy nhất cho khoản đầu tư và báo cáo thu nhập trình bày một
giá trị duy nhất đối với thu nhập trong vốn chủ sở hữu của bên nhận đầu tư. Nếu hợp nhất, tài sản, nợ
phải trả, doanh thu, chi phí của bên nhận đầu tư được tổng hợp và báo cáo trong nội dung báo cáo tài
chính của nhà đầu tư.
Do đó, đối với các công ty này muốn quản lý một cách chủ động các con số trên bảng cân đối kế
toán đã báo cáo của họ, phương pháp vốn chủ cung cấp một phương tiện hiệu quả. Bằng cách duy trì
quyền sở hữu cổ phiếu biểu quyết của nó dưới 50%, một công ty có thể đáp ứng cơ bản các nguyên
tắc áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu cho các khoản đầu tư của nó và tại cùng một thời gian báo
cáo tài sản và nợ phải trả của bên nhận đầu tư “ngoài bảng cân đối kế toán (off balance sheet)”. Kết
quả là, liên quan đến hợp nhất, một hãng sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu sẽ báo cáo các giá trị
nhỏ hơn đối với tài sản và nợ phải trả. Vì vậy, tỷ suất sinh lời cao hơn đối với tài sản và doanh thu của
nó, cũng nhưng tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu thấp hơn, có thể xảy ra. Ví dụ, Accounting Horizons thảo
luận việc áp dụng phương pháp vốn chủ của Coca-Cola như sau:
Thậm chí ngày nay, nếu Coca-Cola hợp nhất các khoản đầu tư theo phương pháp vốn chủ của nó khi nso
sở hữu hơn 40% cổ phiếu biểu quyết đang lưu hành, thì tổng nợ phải trả của Coca-Cola tăng thêm gần
300%, sự gia tăng đáng kể tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu của nó từ 1.24 đến 4.79. Báo cáo của phương tiện
truyền thông cho biết rằng các cơ quan đánh giá nợ tính toán thực tế các tỷ số của Coke trên một có sở
giải định hợp nhất16.

16 16 A. Hartgraves and G. Benston, “The Evolving Accounting Standards for Special Purpose Entities and
Consolidations,” Accounting Horizons, September 2002.


×