Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Ánh sáng trong studio

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.47 KB, 19 trang )

Ánh sáng trong Studio
Bài viết này giới thiệu một số nguồn sáng và cách cơ
bản để bố trí nguồn sáng trong các ứng dụng thực tế ở
studio truyền hình hiện nay.

Ánh sáng nhân tạo được sử dụng cho 4 mục đích chính sau:
- Đảm bảo đủ ánh sánh để thu được cảnh (scene) gốc đạt được các yêu cầu
về kỹ thuật. Mức độ yêu cầu phụ thuộc vào độ nhạy của hệ thống sử dụng,
số đèn chiếu, các bộ lọc màu hoặc bộ khuyếch tán, và các thiết bị dùng thêm
như đèn soi diễn viên...
- Đảm bảo được độ tương phản của scene phù hợp trong giới hạn cho phép
của hệ thống TV. Hiện nay, phần lớn các camera màu đang dùng có tầm xử
lý độ tương phản là 30:1, nhưng các cảnh chiếu sáng ngoài trời có thể có tầm
tương phản là 500:1. Do đó, cần chiếu sáng thêm cho các vùng tối để giảm
độ tương phản đến mức chấp nhận được.
- Tạo độ sắc nét cho các đối tượng và độ sâu cho hình ảnh. Ảnh truyền
hình là ảnh 2 chiều, ánh sáng được sử dụng để tạo bóng, độ sâu cho ảnhhhh
được xem như chiều thứ ba cho ảnh.
- Để gia tăng yếu tố cảm nhận cho nội dung của scene, đạo diễn ánh sáng
sẽ sử dụng các hiệu ứng ánh sáng để mang đến cho người xem sự thú vị hay
tạo các hiệu ứng cảm xúc nhờ kết hợp khéo léo giữa ánh sáng và bóng tối.
Bài viết này giới thiệu một số nguồn sáng và cách cơ bản để bố trí nguồn
sáng trong các ứng dụng thực tế ở studio truyền hình hiện nay.
1.

Các nguồn sáng

Nguồn sáng sử dụng để ghi hình được phân làm hai loại: cứng (hard) hoặc
mềm (soft). Nguồn cứng thường là nguồn ánh sáng chiếu trực tiếp, nguồn
mềm thường là nguồn sáng hình thành qua sự phản xạ ánh sáng (nguồn
chiếu sáng gián tiếp). Ví dụ, mặt trời là nguồn cứng, và ánh sáng phản chiếu


của ngày trời u ám là minh họa của nguồn mềm. Các nguồn mềm thường có
vùng chiếu sáng lớn (xét trong không gian scene). Ví dụ, với một ngày trời
xám, nửa bán cầu của bầu trời là nguồn sáng, khi đó ánh sáng không có
hướng nên các đối tượng không có bóng. Nguồn cứng thường có vùng chiếu


sáng trực tiếp nhỏ (xét trong không gian scene). Với nguồn cứng, một đối
tượng được đặt trong vùng chiếu sáng của ánh sáng mặt trời sẽ tạo ra một
bóng sắc nét.
Nguồn mềm
Phần lớn các sản phẩm thương mại cho nguồn mềm phải đáp ứng được yêu
cầu chiếu sáng trong vùng lớn như nhu cầu thực tế và phải đảm bảo đủ ánh
sáng trên toàn bề mặt. Những nguồn mềm nhỏ hơn có thể bố trí linh hoạt và
được thiết kế dùng trong những trường hợp có không gian giới hạn (nhưng
có thể tạo bóng). Đèn trong nguồn mềm thường có các bộ phản xạ gợn sóng
(dimpled reflector) đặt phía sau để giúp phân tán ánh sáng. Ngoài ra, chúng
cũng thường dùng thêm một số mặt nạ để tránh tạo bóng trực tiếp từ ánh
sáng đèn.
Trong nhiều phông nền, các vật liệu phản xạ trắng có thể được dùng để cung
cấp nguồn mềm hiệu quả. Các vật liệu này khi được chiếu sáng bởi một hoặc
nhiều nguồn cứng thì ánh sáng phản xạ sẽ là nguồn mềm. Trong thực tế, vải
màn vây, các mặt phẳng chất liệu polystyrene, thường được dùng để lấy
nguồn sáng mềm. Các nguồn mềm trong vùng lớn thường không tạo bóng
nhưng khó dùng trong vùng có không gian giới hạn. Nguyên lý sử dụng của
ánh sáng mềm là để điều khiển độ sâu của bóng tạo ra do ánh sáng cứng, tuy
nhiên đôi khi cũng xảy tra xung đột về bóng từ hai nguồn sáng này trong
một số trường hợp.
Nguồn cứng.
Spotlight fresnel tạo bên mềm (Soft edged fresnel spotlight)
Đây là nguồn sáng có gắn ống kính được thiết kế để tập trung ánh sáng

thành những chùm sáng có thể điều chỉnh được. Khi đèn và bộ phản xạ được
điều chỉnh dời xa so với ống kính, cường độ chùm sáng tăng nhưng vùng
chiếu sáng giảm đi. Chế độ đèn được cài đặt để chùm sáng đạt cực đại gọi là
fully flood. Đi kèm chế độ này là việc điều chỉnh trực tiếp các barn door
(bóng tạo từ điều chỉnh các blades) để điều khiển dạng của chùm sáng. Các
bộ lọc màu, bộ khuếch tán (diffuser) hoặc jelly (bộ làm suy giảm ánh sáng)
có thể được gắn thêm vào và được xem như là một flag. Flag là blade có
chức năng tương tự như barn door, nhưng dùng để lắp với đèn trong nhà bởi
cần gắn gồm quả cầu và chuôi đèn. Nó được dùng như lớp chắn có thể điều
chỉnh để ngăn ánh sáng phân tán chiếu vào ống kính camera và gây hiện
tượng lóe sáng.


Các spotlight được dùng cho các đối tượng shape và texture để tạo bóng, sự
chuyển sắc thái màu.
Profile spot
Với thiết kế quang, profile spot tương tự máy chiếu hình ảnh, nhưng nó
được hướng đến phục vụ để chiếu các ảnh có hình dạng cơ bản ở các khoảng
cách ngắn. Những ảnh này được tạo từ các gabo thiết kế đặt biệt từ các lá
thép hoặc tự tạo bằng tay từ các tấm nhôm.
Các bộ chiếu hiệu ứng cho các hình mẫu di chuyển, thu được hình ảnh liên
tục từ các hình mẫu đặt trên đĩa thủy tinh quay bởi mô tơ điện. Một số loại
khác có thể sử dụng gabo kim loại đặt trên đĩa quay tròn. Nếu profile spot
được treo, chú ý đến vấn đề thông gió trong studio để các hiệu ứng không bị
lắc lư.
Follow spot
Follow spot là một đèn định hướng có góc chiếu rất hẹp và có thể dùng với
khoảng cách lớn, mục đích chính là chiếu sáng quét (soi) theo sự di chuyển
của nghệ sĩ trình diễn. Nó có thể tập trung ánh sáng để cho bóng sắc nét, và
ngắt theo yêu cầu. Ánh sáng được chiếu sáng thông qua: shutter (màn chập

tạo dạng cho chùm sáng), iris diaphragms (màn chập ống kính) với đĩa
blackout (giảm sáng), và các color frame.
Các nguồn khác
Nhiều studio dùng đồng thời hai loại nguồn sáng nhưng có thể chuyển đổi
nhanh chóng từ nguồn cứng đến nguồn mềm hoặc ngược lại. Các nguồn
sáng này có thể điều chỉnh mức tiêu thụ công suất để cho phép mức chiếu
sáng thay đổi giữa các nguồn sáng nhưng vẫn duy trì được thông số nhiệt độ
màu không thay đổi. Điều này có ý nghĩa khi đèn được lắp đặt bão hòa, nơi
đèn được treo và duy trì sử dụng lâu trong toàn studio với mật độ cao, khi đó
nếu các đèn cùng sáng và hoạt động hết công suất thì nhiệt độ studio sẽ cao.
Thiết kế đèn mật độ cao này có các khuyết điểm như trọng lượng nặng và
kích thước spotlight phải được hạn chế tối đa, nhưng lại có ưu điểm khi thiết
lập, bố trí nhanh hệ thống chiếu sáng, linh hoạt khi sử dụng.
Một số đèn có thiết kế đặc biệt để chiếu sáng toàn cảnh (cyclorama), và
được phân thành 2 nhóm sau:
- Top cyclorama: Nhóm này thường là các đèn pha (floodlight) dùng để
chiếu sáng vùng đỉnh của cyclorama. Hoặc là giải pháp tổng hợp thiết kế


chiếu sáng từ đỉnh đến đáy của cyclorama bằng cách dùng các bộ phản xạ
cong đa đường (multi-curve reflector) đặt tại 4 vị trí phù hợp. Mỗi vị trí
được điều khiển riêng và được gắn thêm các bộ lọc màu khác nhau để có thể
tổng hợp được nhiều loại màu sắc.
- Ground row: Nhóm đèn này thường nằm ở phần đáy của cyclorama, cần
cân nhắc khi sử dụng hiệu ứng fall off của ánh sáng để tạo đường ngang
nhân tạo. Một nhóm đèn có thể bao gồm 4 vị trí lắp trên một đường thẳng,
dây kết nối được thiết kế riêng cho từng vị trí để thuận lợi trong việc trộn
màu. Ngoài ra, Ground row có các thiết kế tùy chọn để tương thích với
cyclorama cần các vị trí đèn lắp trên 1 đường cong, và điều này được thực
hiện nhờ khớp nối ở phía sau tại các vị trí đèn lắp đặt cho phép điều chỉnh

phù hợp với chỗ cong của cyclorama.
Có một nhóm đèn luôn có sẵn được mô tả chung là disco lighting. Liệt kê
toàn diện của nhóm đèn này khó đầy đủ được khi thị trường luôn thay đổi và
chịu tác động của tính hiện đại, thời trang. Một trong những yêu cầu quan
trọng của nhóm đèn này khả năng sử dụng kết hợp tốt với các hiệu ứng khói.
Bản thân các nguồn sáng này có độ trễ nhiệt rất thấp, vì thế chúng đáp ứng
ngay tức thì đối với các thay đổi điện áp ngõ vào.
Ví dụ, các nguồn sáng với góc hẹp hoặc chùm sáng song song dùng để chiếu
sáng khói, tạo các chùm ánh sáng màu theo nhịp điệu của nhạc, hoặc chiếu
sáng theo chuỗi các xử lý đã lập trình trước. Một số nhóm đèn sẵn có cho
phép điều khiển từ xa thay đổi màu, cùng các cơ chế điểu khiển pan & tilt từ
xa. Hơn nữa, một nhóm các hiệu ứng động lực điều khiển các chùm sáng
song song lắp đặt trên giàn cấu trúc, gá đỡ có thể điều khiển quay cả theo
mặt phẳng ngang hoặc dọc, hoặc quay đồng thời cả hai mặt sử dụng các tốc
độ motor khác nhau. Hay một số nhóm đèn thiết kế để làm cháy đỏ ánh đèn
flash khi chụp ảnh, trong khi một số khác cho hiệu ứng như các vì sao nhấp
nháy, bởi tạo cháy ngẫu nhiên từ một chuỗi ống tạo lửa nhỏ.
Các hệ thống ánh sáng tự động cho phép điều khiển từ xa tất cả các chức
năng hoạt động của từng đèn. Một số đèn spotlight dùng metal halide arc, và
loại tráng tungsten. Với bộ vi xử lý bên trong, mỗi bộ điều khiển có thể lưu
đến 1000 lệnh điều khiển: sắc màu ánh sáng, độ bão hòa, cường độ sáng, góc
chùm sáng, biên chùm sáng, các mẫu gabo, và các điều khiển pan & tilt.
Chúng cũng có thể kết nối giữa các bàn điều khiển để cho phép điều khiển
bằng tay hoặc lập trình điều khiển kết hợp giữa các nhóm đèn.


Ánh sáng tự động có ứng dụng hiệu quả trong các buổi trình diễn disco và
rock, và vì có khá nhiều chức năng nên chúng là công cụ hữu dụng trong bất
kỳ hiệu ứng, kỷ xảo, yêu cầu nào nhờ điều khiển từ xa.
Bàn điều khiển ánh sáng

Truyền hình có đặc điểm cho hình ảnh ngay tức thì. Đặc điểm này yêu cầu
phải điều chỉnh nhanh độ sáng của bất kỳ đèn nào, và cần nhớ trước các chế
độ thường dùng để gọi lại khi cần. Đây là chức năng của bàn điều khiển ánh
sáng (lighting console). Việc kết hợp của monitor hình ảnh và bàn điều
khiển ánh sáng hỗ trợ thêm cho đạo diễn ánh sáng trong việc chọn lựa yếu tố
nghệ thuật, nhất là khi việc kết hợp của các đèn còn phụ thuộc vào mức
dimmer (điều chỉnh độ sáng) chọn khác nhau, và hiệu ứng được nhìn thấy
(tác động) tức thì.
Các thay đổi xảy ra về hình ảnh có thể được cài đặt như: thay đổi tức thì,
thay đổi punch, hoặc fade cross từ trạng thái này sang trạng thái khác. Nhiều
biến đổi ánh sáng khó nhận thấy có thể làm người xem không nhận biết
được, điều này có thể thay bằng nhóm các điều chỉnh ánh sáng hoặc điều
chỉnh bằng tay.
2.

Phông cảnh tĩnh

Thực ra, không có qui luật rõ ràng trong bố trí ánh sáng truyền hình, và việc
bố trí chiếu sáng thường được xác định theo yêu cầu của nội dung và quan
điểm của đạo diễn ánh sáng. Phần sau giới thiệu một số bố trí ánh sáng trong
một số tình huống cơ bản.
Đối diện camera
Hình 1 trình bày bố trí ánh sáng cho một người ngồi. Trong bố trí này, A là
đèn chính (modelling hoặc keylight), thường là đèn định hướng fresnel
(fresnel spotlight). Chùm sáng của đèn có thể điều khiển nhờ các barn door
để tránh hắt sáng về phía sau. Đèn này thường đặt bên cạnh camera. Vùng
bóng tối của của gương mặt sẽ lớn hơn khi keylight được nâng lên cao, hoặc
góc ngang gia tăng. Khi đó, bóng của mũi sẽ không kéo dài, và hốc mắt sẽ
không quá tối. Vị trí của keylight sẽ được lựa chọn theo trạng thái tròn và
sâu của gương mặt, thường là từ góc ngang 0-300 đến camera.

B là fill light và là nguồn mềm. Nó được đặc bên cạnh camera, phía đối (so
với đèn A với camera là trung tâm) và ở vị trí gần nhất có thể, có độ cao
ngang ống kính camera. Nó có một số chức năng: điều khiển độ sâu của
bóng tạo bởi keylight phía trước của mặt, cổ và áo quần; có vai trò như eye


light đảm bảo khi người ngồi nhìn xuống ánh sáng vẫn cho phép nhìn rõ
mắt; nếu có đường không phẳng hoặc nếp nhăn thì ánh sáng này sẽ giảm
thiểu được chúng.
C là nguồn mềm nhưng khác với fill light, nó điều khiển bóng từ đèn chính ở
một bên gương mặt. Nó được đặt ở chiều cao ngang mắt, và vị trí 900 so với
camera vì thế không tạo ra bóng của mũi.
D là đèn blacklight, là đèn fresnel spot treo trên đỉnh, ở backing (phần phông
nền phía sau) chiếu trực tiếp vào phía sau người ngồi. Nó cho ánh sáng nổi
bật trên tóc nhìn từ vị trí camera và thêm độ sâu cho bờ vai. Barn door hoặc
flag sẽ được điều chỉnh để ánh sáng không chiếu trực tiếp vào ống kính
camera. Đôi khi không gian studio bị giới hạn nhưng đối tượng (người ngồi)
không được đặt quá gần với backing, điều này sẽ gia tăng góc của backlight
và làm phông nền trở nên sắc nét, giảm linh động. Góc lý tưởng của
backlight là 30-400.
Một biến thể của việc chỉ dùng một đèn backlight là dùng hai backlight. Hai
đèn định hướng (E và F) ở phía sau gắn phía trên đầu của người ngồi với góc
ngang xấp xỉ 400 so với trục. Việc chiếu sáng giờ nổi bật, rõ ràng hơn trên
cả hai phía của mặt như: tóc, hai má, đường viền của hàm dưới. Thay vì tạo
sáng nổi bật, bóng được sử dụng để tạo chiều thứ ba với đèn C không sử
dụng, đèn E chiếu sáng phần tối của gương mặt mà đèn keylight không
chiếu được, hiệu quả sẽ mạnh hơn ở phía này của gương mặt. Hai đèn
backlight đồng sử dụng thường được ứng dụng trong các sản phẩm giải trí
cần nhiều hiệu ứng hơn.
Đèn G dùng để chiếu ánh sáng cho backing. Tuy nhiên backing được chiếu

sáng phụ thuộc vào màu, độ chói và texture. Một số đề xuất trước đây hạn
chế đèn keylight chiếu sáng backing bằng các barn door, và chiếu sáng riêng
cho backing. Theo cách này, việc điều khiển chiếu sáng backing độc lập với
đèn chính. Để có thể điều khiển tách biệt quá trình cài đặt ánh sáng, mỗi
nguồn sáng chỉ đảm nhận một chức năng.
Khi tất cả các đèn được cài đặt, chúng phải được cân bằng, nghĩa là độ chói
cuối cùng của đèn sẽ được xác định bởi bàn điều khiển ánh sáng. Trước tiên,
đèn chính được điều chỉnh để thu được đầy đủ các chi tiết quan trọng trên
camera. Các đèn fill light B và C phải được sử dụng thận trọng, với mức
sáng quá cao sẽ phá hủy mô hình đã chọn cho keylight. Đèn backlight và các
phông nền được lựa chọn dựa theo loại chương trình được làm, và được điều
chỉnh phù hợp với phong cách của chương trình. Monitor hình ảnh sẽ giúp
kiểm tra nếu có dấu hiệu sai màu không như mong muốn do điều chỉnh


dimmer vượt quá yêu cầu cho một nguồn sáng. Điều này thường xảy ra với
đèn fill light, khi chỉ yêu cầu một mức sáng nhỏ. Nếu cần thiết một đèn công
suất nhỏ hơn được sử dụng, hoặc ánh sáng phải được giảm bởi bộ lọc như
neutral density filter.
Khi quan tâm đến phông cảnh tĩnh chỉ gồm một camera, các đèn gắn sàn có
thể dùng bất ở cứ nơi nào vì cơ động, dễ điều chỉnh cho phù hợp. Khi có
nhiều camera được sử dụng, các đèn sàn khó bố trí hơn vì chúng cản trở sự
di chuyển của camera và có thể gây lóe sáng ống kính. Khi đó, việc sử dụng
các đèn treo sẽ thuận lợi, tuy nhiên khi đó khoảng cách chiếu sáng gia tăng
đến 4-5 mét, nên sẽ cần có công suất chiếu sáng cao hơn.

Phỏng vấn giữa hai người
Ánh sáng dùng cho phỏng vấn 2 người minh họa trong hình 2. Camera 1 và
3 ở vị trí gần với người tham gia trong khi camera 2 lấy cảnh shot của 2
người. Hai đèn định hướng A và B mỗi cái có hai chức năng: là đèn

blacklight của người gần nhất và là đèn keylight đối với người còn lại. Các
barn door được điều chỉnh để tránh hắt sáng về phía sau. Các nguồn mềm C,
D, E là fill light, và phông nền được chiếu sáng với đèn định hướng F, G, H,
và J.


Mặc dầu, cách bố trí này nhanh nhưng có hai khuyết điểm. Ánh sáng của A
và B được điều chỉnh là nguồn chiếu sáng chính trên mặt và điều này có thể
dẫn đến quá nhiều ánh sáng phía sau của một hoặc cả hai người tham gia.
Vấn đề này có thể giảm được bằng cách dùng vật liệu gọi là jellyyyy ở nửa
dưới của mỗi spotlight nhằm làm suy giảm độ chói của chỉ phần backlight.
Vấn đề khác xảy ra là nếu chọn vị trí của A và B để tối ưu cho backlight có
thể dẫn đến không đạt được góc chiếu tốt cho keylight. Những vấn đề này
được khắc phục bằng cách cài đặt các blacklight riêng, như các đèn K và L
trình bày trong hình 3.

Các đèn backlight này được đặt tại các vị trí lý tưởng, chiếu trực tiếp trên
đường thẳng nối với ống kính mỗi camera, và barn door được điều chỉnh để
ánh sáng chỉ chiếu vào phía sau của người tham gia. Các đèn keylight A và
B có thể di chuyển đến vị trí phía trước và cho bóng của mũi nhỏ hơn. Các


barn door của chúng được điều chỉnh để chỉ chiếu sáng trên mặt, không
chiếu phía sau của đầu hoặc phần phía sau. Cách bố trí các đèn có thể được
điều chỉnh để thích ứng với những trường hợp khi có nhiều người tham gia
(ví dụ: có hai nhóm đối diện với nhau). Đèn keylight phải chiếu sáng đủ
rộng để bao phủ mỗi bên và các đèn backlight có thể thêm vào khi cần thiết.
Phỏng vấn giữa ba người
Bố trí đèn cho phỏng vấn 3 người với 1 người ở vị trí trung tâm, thường là
người giới thiệu và kết thúc chương trình (lấy hình trên camera 2) được

minh họa trong hình 4.

Camera 1 ghi hình người được phỏng vấn bên phải và camera 2 ghi hình
người còn lại. Camera 1 và 3 cũng dùng để lấy cảnh shot của người ở giữa
khi quay sang hỏi hai người còn lại. Vấn đề khó là đảm bảo ánh sáng cho vị
trí trung tâm này. Nếu sử dụng bố trí đèn như trong hình 4, kết quả là hơi
thiếu sáng khi nhìn từ camera 2 trong khi cả hai phía của mặt được chiếu
sáng chói do ánh sáng từ đèn A và B, nhưng mắt và phần trước tối (hình ảnh
không cân bằng về ánh sáng). Vị trí này phải được chiếu sáng riêng. Hai đèn
keylight A và B phải được điều chỉnh barn door để chỉ chiếu sáng trên mặt
của người được phỏng vấn, không chiếu sáng vị trí trung trung tâm.
Kinh nghiệm, khi bố trí các đèn keylight thường có khuynh hướng lắp đặt về
phía trước chủ thể (người tham gia phỏng vấn) nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu
các đèn keylight đặt thiên về phía trước lại không phù hợp khi dùng các cần
thu tiếng vì những cần thu này có thể tạo bóng không mong muốn. Đèn định
hướng M được lắp đặt trước camera trung tâm đóng vai trò đèn keylight cho


vị trí trung tâm, các barn door được điều chỉnh để chỉ chiếu sáng cho vị trí
này. Hai đèn blacklight (N và P) được sử dụng để tạo các hiệu ứng tích cực
từ tất cả các vị trí camera.
Khoảng cách giữa vị trí trung tâm và người được phỏng vấn phải đủ để bố trí
đèn thỏa mãn yêu cầu về ánh sáng. Trong thực tế, một số game đố có hình
thức như phỏng vấn 3 người nhưng có khoảng cách lớn hơn. Thay vì hai
người được phỏng vấn là hai đội chơi và người điều khiển trò chơi ở vị trí
trung tâm. Về nguyên lý, ánh sáng cũng được bố trí như đã trình bày ở trên
nhưng phải điều chỉnh lại cho phù hợp với từng tình huống.
Ánh sáng trong Studio (phần 3)
Bài viết này giới thiệu một số nguồn sáng và cách cơ
bản để bố trí nguồn sáng trong các ứng dụng thực tế ở

studio truyền hình hiện nay.
Hình minh họa
3. Phông cảnh chuyển động
Trong những cảnh có cả sự di chuyển của cả nghệ sĩ và camera, như trong
ghi hình kịch tuồng, hài kịch,.. các yêu cầu về bố trí ánh sáng trở nên phức
tạp hơn.
Có nhiều cách xử lý khác nhau được áp dụng khi bố trí ánh sáng, nhưng các
gợi ý ở đây được dựa trên những tình huống cụ thể trong các ứng dụng cơ
bản. Để đơn giản, các sơ đồ sau đây sẽ không trình bày tác động ánh sáng từ
cửa chính hoặc cửa sổ. Ảnh hưởng của ánh sáng cửa sổ đến bố trí nguồn
sáng bố trí sẽ được xem xét ở mục tiếp theo. Giả sử phải sử dụng các cần thu
tiếng (gắn microphone) để thu âm thanh, khi đó phải xét đến việc tránh bóng
tạo từ cần thu tiếng trong khi sử dụng. Toàn khu vực diễn xuất (gọi là set)
được phân loại thành 3 cấu trúc: single-sided, two-sided, hoặc three-sided.
3.1. Single-sided set
Single-sided set là đơn giản nhất nên cũng có nhiều hạn chế trong quá trình
sản xuất chương trình. Nó được dùng khi có yêu cầu hạn chế về chi chí và
giới hạn về không gian. Backing phía sau được lắp như trong hình 5. Nó có
thể phức tạp hơn nhưng thường yêu cầu có một bức tường được xây dựng.
Rõ ràng khi camera hoặc nghệ sĩ di chuyển nhiều sẽ không đủ backing để
tránh 'shoot off' như tại vị trí ghi hình của camera 'b'. Nếu nghệ sĩ khác di


chuyển, các shot cũng chỉ có thể lấy từ phía trước, trên trục trung tâm vì
cùng lý do như vậy.

Do các camera chỉ ghi hình giới hạn các shot phía trước, đèn keylight có thể
đặt ở góc phù hợp để có thể chiếu sáng được những đặc tả cần thiết. Nếu đèn
ở ngay trước camera, hình ảnh thu được sẽ có ánh sáng chính (high-key), và
khi di chuyển đến 1 bên sẽ có nhiều bóng xuất hiện (low-key). Đèn softlight

được đặt tại vị trí tương đối giống như vị trí minh họa trong hình 1 để điều
khiển độ sâu cho bóng tạo từ đèn keylight. Đèn backlight là tùy chọn. Nếu
không có cửa sổ hoặc các nguồn sáng khác ở sau diễn viên, khi dùng thêm
đèn blacklight có thể xuất hiện nhiều hiệu ứng lạ trên hình ảnh ghi hình
được. Ánh sáng chiếu riêng cho phông nền phải hạn chế sử dụng trừ khi
dùng chiếu sáng riêng cho một vùng cục bộ vì khi diễn viên di chuyển gần
đến backing sẽ xuất hiện nhiều bóng. Tốt nhất là sử dụng đèn keylight cho
mục đích này và sẽ được bố trí phù hợp với yêu cầu của người thiết kế sân
khấu, tương thích phong cách thể hiện trên backing.
3.2. Two-sided hoặc L-shaped set
Có những set bao gồm hai bức tường có cấu trúc nối nhau hình thành một
góc. Cấu trúc này linh hoạt hơn so với single-sided set, backing đủ cho
camera 1 và 2 (hình 6) lấy được các shot phía trước của 2 hoặc nhiều người
ngồi đối diện lẫn nhau và được gọi là cross shooting. Camera thứ 3 được sử
dụng để lấy shot cho cả hai người.


Việc di chuyển của những người tham gia trong set cũng tương đối bị giới
hạn. Các diễn xuất ở các bên của set khi lấy shot sẽ khó đạt yêu cầu về tầm
nhìn của mắt (eye lines), hoặc bị shoot off. Nếu người diễn xuất di chuyển
về phía sau, gần hơn đến góc, các camera sẽ trở nên bị gò bó bởi các bức
tường.
Sơ đồ chiếu sáng này dựa trên trường hợp phỏng vấn 2 người không di
chuyển (hình 2) nhưng không sử dụng chiếu sáng riêng cho phông nền. Mỗi
đèn A và B có 3 chức năng: keylight, backlight, và background light. Những
khuyến nghị trước đây đề nghị mỗi chức năng sử dụng riêng một đèn tuy
nhiên lại bị ràng buộc do hạn chế về không gian. Trên thực tế, trong trường
hợp không có sự di chuyển của diễn viên những chức năng này có thể được
tách riêng bằng cách bố trí thêm đèn. Các đèn fill light mềm C, D và E được
đặt sau camera và lắp ở vị trí thấp nhất có thể. Trong các set nhỏ, đèn

keylight được lắp nghiêng (dốc), đèn spotlight phía trước bố trí thấp để dễ
nâng góc cho ánh sáng đi vào mắt. Ngoài ra, các bộ phản xạ trắng lớn có
kích thước xấp xỉ 3.5m x 2.5m được sử dụng thêm đóng vai trò tấm nền có
khả năng di chuyển linh hoạt, nhưng cần chú ý đến vị trí của chúng để không
gây cản trở cho sự di chuyển của camera hoặc cần thu tiếng, cẩu boom..
Có những vị trí khác cũng dùng cho diễn xuất (như di chuyển gần hơn về
phía camera 3 và xa hơn so với góc, như mũi tên vẽ đường di chuyển trong
hình 6), cảnh shot khi đó được ghi hình ở vị trí camera 3b. Trường hợp này
có thể được xem như là single-sided set, và có thể bố trí chiếu sáng như


trong hình 5 dùng các đèn C, D, F, và G. Đèn keylight F phải có barn door
để chỉ chiếu ánh sáng cho vùng di chuyển để hạn chế sự xuất hiện bóng cẩu
boom khi quay cross shooting. Đèn F có thể được điều khiển bằng cách
dùng bàn điều khiển ánh sáng, ánh sáng sẽ tăng dần (fading) khi hành động
tiến dần đến vị trí gần, và sẽ mờ dần nếu hành động trở về dần phía xa hơn.
3.3. Three-sided set
Set này gồm 3 bức tường hỗ trợ sự linh hoạt tối đa khi ghi hình, cho phép
diễn viên và camera di chuyển, các shot được lấy với tầm nhìn của mắt tốt.
Sơ đồ chiếu sáng trong trường hợp này phải được bố trí cân bằng và linh
hoạt để đáp ứng được các yêu cầu khi sản xuất chương trình. Nguyên lý đề
xuất là gắn các đèn keylight để chiếu sáng cho tất cả các vùng đã được phân
cảnh diễn xuất và từng thời điểm sẽ sử dụng đúng các đèn cần thiết. Với bố
trí chiếu sáng phù hợp và kết hợp sử dụng bàn điều khiển thì sẽ hạn chế
được sự xuất hiện bóng của các cẩu boom. Tuy nhiên, điều này yêu cầu
người tham gia thực hiện phải có các kỹ năng chuyên môn mới đảm bảo
được chất lượng hình ảnh thu được tốt.
Việc bố trí lắp đặt được minh họa trong hình 7. A, B, và C là các đèn đóng
vai trò là keylight, blacklight, và background light, mỗi đèn đều chiếu sáng
vùng giống nhau nhưng góc chiếu khác nhau. D, E, và F thực hiện chức

năng tương tự nhưng ở phía khác.


Thông thường, tại mỗi thời điểm chỉ có một bên được sử dụng, nhưng chúng
vẫn có thể chiếu sáng đồng thời cả hai bên trong một số trường hợp đặc biệt.
Việc chọn chiếu sáng tùy thuộc vào cảnh quay và vị trí camera ở từng thời
điểm. Với bố trí này, có 6 sự hỗ trợ tương ứng với 6 lựa chọn đèn keylight
chiếu sáng cho vùng trung tâm của set. Dĩ nhiên, đạo diễn ánh sáng tùy
trường hợp có thể chọn sử dụng kết hợp chiếu sáng cùng lúc nhiều đèn
keylight.
Khi diễn xuất của các diễn viên tiến đến sát các bức tường, những đèn
spotlight này không đủ độ nghiên để đáp ứng được ánh sáng theo yêu cầu thì
các đèn keylight G và H sẽ chiếu sáng từ dưới lên trên, trong khi các đèn J
và K chiếu sáng từ trên xuống. Những đèn spotlight này chỉ được chiếu sáng
cho từng bên, nếu cùng chiếu sáng sẽ xảy ra vùng ánh sáng đan chéo. Đối
với hai vùng bên, đèn L và M đóng vai trò đèn backlight. P và Q là các đèn
keylight ở phía trước, một trong hai sẽ được dùng khi diễn xuất ở giữa và
được ghi hình bởi camera trung tâm. Đèn N là đèn backlight được sử dụng
để chiếu sáng cho vị trí này. Các đèn R, S và T được đặt ở phía trước của set
và giữ ở mặt chiếu thấp.
Sơ đồ này phù hợp cho việc sản xuất và ghi hình liên tục sử dụng nhiều
camera. Cần thận trọng trong chiếu sáng khi ghi hình liên tục vì tác dụng
chiếu sáng của đèn keylight này có thể bị vô hiệu bởi một các đèn khác, gây
ra những ảnh hưởng không mong muốn. Cần chú ý đảm bảo là sẽ chỉ có một
đèn keylight trước một diễn viên ở bất kỳ thời điểm nào. Các đèn keylight
chiếu chéo cũng có thể gây ra các hiệu ứng không mong muốn vì bản thân
chúng cũng đóng vai trò là các đèn background đối với một góc quay nào
đó, vì thế trong một số trường hợp cần phân rõ hai chức năng keylight và
background của cùng một đèn để điều chỉnh ánh sáng cho phù hợp. Ngoài
ra, có thể gắn thêm các đèn khác trong những trường hợp cần thiết.

4.

Ánh sáng sáng tạo

Rất khó để sử dụng ánh sáng đạt đến sự miêu tả sinh động, và vẫn chưa có
nhiều thử nghiệm được thực hiện để đạt đến cảm giác thực trong hình ảnh.
Tuy nhiên, ánh sáng có thể thay đổi theo các tính toán thực tế. Một số
chương trình còn yêu cầu nhấn mạnh tính hấp dẫn khi trình diễn hơn là tính
tả thực. Ngoài ra, khả năng mô phỏng các hiệu ứng từ các nguồn sáng như
cửa sổ, hoặc các nguồn sáng nhân tạo xuất hiện trong set là các yêu cầu thực
tế cũng không dễ để thực hiện được. Phần sau giới thiệu một số mô phỏng
nguồn sáng tron thực tế và các kỹ thuật đang được sử dụng.
Mô phỏng ánh sáng ban ngày


Set với cửa sổ nhìn thấy ánh sáng ban ngày yêu cầu 3 nhóm ánh sáng:
backcloth lighting, set lighting và artist lighting.
Backcloth lighting có mức chói sáng cao để mô phỏng sự xuất hiện ánh sáng
từ phía ngoài. Điều này dễ mô phỏng bằng cách dùng các nguồn cứng (các
đèn fresnel spot A trong hình 8), nhưng phải chú ý để mức chiếu sáng đều.
Không gian giữa phần lưng của set và backcloth thường rất giới hạn nên khó
điều chỉnh độ dốc của các đèn này, và vì thế dãy các đèn B được thêm vào
để bù mức sáng ở phần dưới của backing.

Set lighting yêu cầu một đèn fresnel spot mạnh (C) để mô phỏng ánh sáng
trời trực tiếp chiếu qua cửa sổ. Các mẫu ánh sáng tạo bóng của các khung
kính, chiếu trên đồ gỗ, tường, sàn gần cửa sổ cho cảm giác thật như có ánh
sáng mặt trời chiếu sáng cho scene. Do nguồn sáng chiếu xuống cửa sổ, một
phần của bức tường phía sau sẽ nhận được một số hiệu ứng. Việc giữ mặt
chiếu thấp sẽ cho phép hiệu ứng (ánh sáng với bóng cửa sổ) xuyên qua sâu

hơn đến các vùng trong set. Nếu cửa sổ nhỏ, có thể bổ sung nguồn sáng này
trên tường phía sau bằng cách lắp thêm một đèn fresnel spot (D), nhưng cần
chú ý khả năng xuất hiện đồng thời hai bóng (tạo từ đèn D và C).
Artist lighting được mô phỏng bởi đèn keylight (E) soi lướt qua cửa sổ,
chiếu sáng diễn xuất của diễn viên và bức tường đối diện đến độ cao 1.75m.
Đèn này sẽ không chiếu sáng trên bức tường sau (tường đối diện camera 2)
hoặc tạo ra bóng đôi. Đèn từ hướng đối diện (counter-key) F chiếu từ dưới
lên. Barn door của F sẽ ngăn chiếu sáng đến bức tường sau nhưng vẫn có
một phần nhỏ ánh sáng chiếu trên tường của sổ. Do đó, đèn F có thể gây
chói ống kính đến camera ở vị trí 1, vì thế có thể cần một flag cho đèn này.
Nhờ đèn counter key từ vị trí chiếu hướng lên, các diễn viên với phần sau


của họ đến của sổ nhìn từ camera ở vị trí 3 sẽ xuất hiện tối hơn phần đối diện
của sổ nhìn từ vị trí camera 1.
Khi yêu cầu tính tả thực cao hơn, các nguồn mềm G có thể được dùng thay
cho đèn F. Các đèn frontal fill H và J được bố trí hoàn chỉnh thêm như trong
hình 8. Nhiều nguồn mềm H được bổ sung và đặt tại vị trí xa hơn tính từ của
sổ để điều chỉnh hiệu quả hơn vùng bóng tạo bởi đèn chiếu hướng lên F.
Các nguồn sáng nhân tạo
Nếu set không có nguồn sáng được xác định cụ thể, trong trường hợp này
giả sử nó được chiếu sáng từ phía trên và chiếu vào tường để cho ánh sáng
phản xạ, khi đó camera có thể thu được các hình ảnh đạt chất lượng nếu đèn
keylight được bố trí và chiếu sáng vào diễn viên tại vị trí phù hợp. Cảm giác
tối bên trong set có thể cải thiện tốt nhất bằng cách tăng cường mức ánh
sáng mềm phía trước, và vì thế hình ảnh thu được có độ tương phản 'mềm'
hơn. Nếu mô phỏng các cảnh có ánh sáng ban ngày các bức tường cửa sổ
phải được chiếu chói sáng hơn. Trường hợp mô phỏng ánh sáng ban đêm,
nếu set được thiết kế cùng tông màu ánh sáng chiếu trên tường sẽ dễ đạt hiệu
quả cao hơn cho người xem.

Với một kịch bản yêu cầu các nguồn sáng đặc trưng trong sence, như ánh
nến, hoặc ánh lửa,,,,thì các nguồn sáng tạo các hiệu ứng này để ghi hình phải
được lên kế hoạch và bố trí sẵn trong các phân cảnh của vở diễn. Hiệu ứng
ánh nến có thể được mô phỏng bằng cách dùng bóng đèn chiếu sáng 150W
nhưng ẩn với góc nhìn của camera. Để tả thực ánh lửa bập bùng có thể dùng
các đèn định hướng đặt trên sàn kết hợp với điều khiển âm thanh-ánh sáng
phù hợp. Các hiệu ứng này thường được dùng trong các chương trình như
trình diễn nhạc pop. Hình ảnh đạt hiệu quả cao khi sử dụng những hiệu ứng
này nhưng các shot phải được lên kế hoạch chi tiết mới có thể đạt được kết
quả như mong muốn.
Ánh sáng truyền hình (phụ thuộc vào phong cách lựa chọn) là yếu tố không
thể thiếu trong quá trình sản xuất chương trình và tham gia tạo ra các hiệu
ứng tác động đến cảm xúc của người xem. Từ đó, phong cách lựa chọn của
chương trình sản xuất phải được các thành viên của đội ngũ sản xuất thống
nhất từ giai đoạn lên kế hoạch ban đầu. Mô tả ngôn từ thường không đủ để
diễn tả các khái niệm về hình ảnh, nên sách, hình vẽ, ảnh chụp thường được
dùng để hỗ trợ cho việc trao đổi các ý tưởng trong quá trình thảo luận.
Có nhiều yếu tố cần thảo luận để thống nhất như: thuộc tính sân khấu,
phương pháp ẩn dụ, hoặc sự kết hợp của nhiều phương pháp nghệ thuật,. Khi


một phong cách được thống nhất lựa chọn, đạo diễn ánh sáng có thể thiết kế
bản vẽ ánh sáng, cân chỉnh ánh sáng suốt các quá trình diễn tập, sau đó
hướng dẫn cả êkip thực hiện theo đúng ý đồ đã lựa chọn.
Các kỹ thuật gần đây
Có thể nói sự sáng tạo trong chiếu sáng studio là rất phong phú và bản chất
của sự sáng tạo là phá vỡ các khuôn mẫu. Tuy nhiên, nhiều ứng dụng trong
chiếu sáng thực tế có những điểm yêu cầu chung, và các kỹ thuật chiếu sáng
phát triển gần đây cũng hỗ trợ nhiều hơn để đáp ứng được các yêu cầu chung
này. Một số người làm thực tế hạn chế sử dụng ánh sáng cứng để chiếu sáng

cho các cảnh mang tính đặc tả vì cho rằng nó không thực. Do đó, trong
những trường hợp chiếu sáng cho vùng gần cửa sổ (mô tả nhận ánh sáng trời
trực tiếp) dùng ánh sáng cứng, còn những vùng khác sẽ được chiếu sáng
mềm bởi ánh sáng phản xạ từ các bức tường. Một số đạo diễn ánh sáng đã
phát triển các phương pháp để tái tạo các hiệu ứng mô phỏng chiếu sáng và
mô hình thiết kế thường sử dụng dựa trên ánh sáng mềm. Thực tế, ánh sáng
mềm thường được tạo được theo một số cách sau:
>>> Các nguồn mềm (dùng tấm phản xạ kích thước khoảng 1.25m vuông)
được đặt trên các giá đỡ trên sàn hoặc gắn phía trên đầu (có thể sử dụng đơn
lẻ hoặc nhóm các tấm) để tạo ra nguồn mềm có cường độ sáng cao. Các giá
đỡ trên sàn rất hữu dụng với các set lớn nhất là trong các quá trình diễn tập /
ghi hình (rehears/record) vì thiết lập nguồn mềm nhanh. Mặt khác, thông
thường quá trình sản xuất chia vở diễn thành nhiều phân cảnh để diễn tập và
ghi hình ngay sau đó nên trong một số trường hợp các bệ sàn lại gây cản trở
cho sự di chuyển của camera trong quá trình ghi hình các phân cảnh.
>>> Nguồn mềm tạo từ các tấm polystyrence chịu lửa kích thước 1.25m x
2.5m có thể được gắn cố định ngang trên phần đỉnh của set. Khi những tấm
này được chiếu sáng với các nguồn cứng mạnh, chúng phản xạ ánh sáng trở
lại vào set như trong hình 9. Một số mặt nạ (mask) có thể được gắn thêm ở
đáy của các tấm phản xạ để ngăn ánh sáng tạo thành vệt trên tường của set.
>>> Các bức tường set có cùng tông ánh sáng cũng được dùng như các bộ
phản xạ dù chúng không xuất hiện trên hình. Các tấm nhựa trắng có thể
được gắn ẩn trong set và dùng như các tấm phản xạ khi chiếu sáng từ phía
trên. Các tấm polystyrene nhỏ hơn khoảng 1.25m vuông gắn trên các giá đỡ
loại nhẹ (dễ di chuyển) và chiếu sáng từ phía trên đóng vai trò nguồn mềm
di động sẽ tiện ích hơn so với dùng nguồn mềm đặt trên sàn.


>>> Trong một số trường hợp cần tái tạo ánh sáng của một nguồn mềm
mạnh cho một vùng lớn. Điều này có thể thực hiện bằng cách dùng một số

lớn của các nguồn cứng chiếu sáng từ cùng một hướng. Nguồn mềm mạnh
này có thể dùng để mô phỏng hiệu ứng tỏa sáng rộng với mật độ cao của ánh
sáng ban ngày chiếu sáng toàn set. Tuy nhiên, vì dùng nhiều nguồn chứng
nên có thể có nhiều bóng sẽ xuất hiện nếu sàn và backing trơn và phẳng.

Về tổng quát, phương pháp chiếu sáng mềm (soft key) cho hình ảnh nhìn
thấy khác với dùng kỹ thuật chiếu sáng cứng (hard key). Nhiều người xem
than phiền ở một thời điểm họ luôn nhìn thấy đốm trên hình ảnh studio do
chiếu sáng cứng. Việc sử dụng soft key cho tính tả thực lớn hơn nhất là
trong những phân cảnh đặc tả trong ghi hình các vở kịch, phim. Tuy nhiên,
hard key cũng có những ưu điểm trong chiếu sáng hình ảnh, và cả hai
phương thức chiếu sáng đều được sử dụng trong ánh sáng studio của truyền
hình hiện đại. Vấn đề còn lại là của đạo diễn ánh sáng phải chọn loại chiếu
sáng nào để đạt được hiệu quả tối ưu cho quá trình sản xuất chương trình.
5.

Lời kết

Ánh sáng studio là một lĩnh vực được quan tâm không chỉ đối với người làm
truyền hình mà cả với những nhà nhiếp ảnh. Thực tế hiện nay, phần lớn kiến
thức về ánh được những người quan tâm tự học hoặc truyền đạt của những
người đi trước. Bài viết này biên tập lại khái quát một số khái niệm về ánh
sáng, các loại đèn cơ bản dùng trong lĩnh vực truyền hình của đạo diễn ánh


sáng J. Summers (đạo diễn ánh sáng của BBC). Một số đặc tính của các loại
đèn bạn đọc có thể tham khảo thêm trong tài liệu tham khảo 1.
Tài liệu tham khảo:
[1]. J Summer, 'Studio Lighting' (Formerly Lighting Director, BBC).
Nguyễn Đức Hoàng/Tạp Chí KHKT Truyền hình




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×