Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.99 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ HỒNG HẠNH

CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Công tác xã hội

Mã số

: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Công tác
xã hội về “Công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện
nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị. Những kết quả trong luận văn


này chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Học viện Khoa học xã hội về
sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả

Lê Thị Hồng Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN .................................................................................. 12
1.1. Các khái niệm chủ yếu được sử dụng trong đề tài ........................................... 12
1.2. Nhu cầu, quan điểm về công tác xã hội trong phát triển nông thôn ................ 17
1.3. Nguyên tắc, nội dung, kỹ năng, kỹ thuật và tiến trình của công tác xã hội trong
phát triển nông thôn ................................................................................................. 21
1.4. Thể chế về công tác xã hội trong phát triển nông thôn ..................................... 31
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong phát triển nông thôn ............ 35
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................. 39
2.1. Thực trạng công tác xã hội trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2015 ở Việt Nam ............................ 39
2.2 Thực trạng vận dụng công tác xã hội trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2015 tại tỉnh An Giang ............................... 47

2.3. Những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện công tác xã hội trong phát
triển nông thôn hiện nay ........................................................................................... 58
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................... 61
3.1. Định hướng thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn ................... 61
3.2. Các giải pháp thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn ................ 63
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 74
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 81


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG SỐ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH

Sơ đồ 1.1

Tiến trình thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn

Hình 2.1

Bản đồ hành chính tỉnh An Giang


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.
Tính đến năm 2011, Việt Nam có khoảng gần 70% dân số là nông dân (chiếm
69,4% dân số) với xấp xỉ 32 triệu người trong độ tuổi lao động (chiếm 71,5%
lực lượng lao động xã hội) [24, tr.29]. Mặc dù trong những năm gần đây tỷ lệ
dân số là nông dân ở Việt Nam có giảm nhưng vẫn chiếm chủ yếu trong cơ cấu
dân số. Theo thống kê đến ngày 01/4/2014, nông thôn Việt Nam có tỷ lệ dân số

chiếm 66,92% dân số của cả nước [25]. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông
dân và nông thôn ở Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước nói chung và việc cải thiện điều kiện sống về kinh
tế, xã hội cho những cư dân vùng nông thôn nói riêng. Nhận biết được tầm
quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách phát triển
nông nghiệp, nông thôn nhằm “cởi trói và thúc đẩy” sự phát triển kinh tế, xã
hội nông thôn. Chính sách “tam nông” được cụ thể hóa trong Nghị quyết 26NQ/TƯ của Ban chấp hành Trung ương Đảng, ban hành ngày 05/8/2008 là nền
tảng quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Sau những đổi mới mạnh
mẽ, hiện nay “xã nông thôn mới” của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn về mặt kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, phát triển nông thôn ở
Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức, chẳng hạn như tình
trạng cơ sở hạ tầng thấp kém; nghèo đói; không đầy đủ các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, giáo dục; nhiều nông hộ vẫn còn chưa có nước sạch sinh hoạt, nhà
tắm và nhà xí hợp vệ sinh; môi trường bị ô nhiễm; đạo đức bị băng hoại và xuất
hiện nhiều tệ nạn xã hội…[5], [43]. Những khó khăn, thách thức trên đã tác
động đến hiệu quả của nhiều chính sách phát triển nông thôn, cản trở việc thực
hiện quyền con người và kìm hãm vị thế kinh tế, xã hội của cư dân vùng nông
thôn, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, thậm chí là cả xung đột xã hội.
Ngày nay, với sự ra đời và phát triển của nghề công tác xã hội, những khó
khăn, thách thức trong quá trình phát triển nông thôn ở Việt Nam đã trở thành
vấn đề và đối tượng của công tác xã hội. Đánh giá một cách cụ thể thì công tác
xã hội có vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa ở nông thôn, nhằm phối

1


hợp với các chuyên gia phát triển kinh tế và các nhà làm công tác qui hoạch
nông thôn để đáp ứng nhu cầu về nhà ở, việc làm cho người nghèo, người yếu
thế và giải quyết các vấn đề xã hội trong nền kinh tế hiện đại [43]. Tuy nhiên,
về mặt khoa học, công tác xã hội trong phát triển nông thôn vẫn còn là một lĩnh

vực khoa học khá mới mẻ, hệ thống cơ sở lý luận vẫn chưa được định hình cụ
thể mà mới chỉ được thể hiện trong một số bài giảng của các trường đại học có
đào tạo ngành phát triển nông thôn. Còn trong thực tiễn, công tác xã hội cũng
chưa được quan tâm nghiên cứu và vận dụng hiệu quả. Vậy bản chất của vấn đề
là ở đâu? Cần có những cơ sở gì để công tác xã hội trong phát triển nông thôn
phát huy được vai trò của mình? Và hiện nay, công tác xã hội có được vận
dụng trong quá trình phát triển nông thôn hay không? Đây cũng là vấn đề cần
thiết mà thực tiễn đào tạo và thực hành công tác xã hội trong phát triển nông
thôn ở Việt Nam đang đặt ra.
Từ những trình bày trên, có thể kết luận rằng, thực tiễn đào tạo và thực
hành công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam đang đặt ra yêu cầu
về nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống vấn đề công tác xã hội trong phát
triển nông thôn trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tế nhằm hỗ trợ cho công tác
đào tạo nhân viên công tác xã hội, phối hợp với chuyên gia phát triển nông
thôn thúc đẩy giải quyết các vấn đề xã hội tại các vùng nông thôn. Vì vậy, đề
tài “Công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay” có ý
nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, nhất là trong giai đoạn thực hiện các
chính sách phát triển nông thôn mới, bền vững với tôn chỉ “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Hướng nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân và phát triển nông thôn:
Các nhà nghiên cứu thực tiễn trên thế giới đã đúc kết rằng việc phát triển
và tăng trưởng khu vực nông thôn sẽ giúp xóa đói giảm nghèo không chỉ ở khu
vực nông thôn, mà còn ở cả khu vực thành thị, trong khi đó tăng trưởng ở khu
vực thành thị không đủ đảm bảo cho việc xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông
thôn [60]. Chính vì vậy, các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp, nông thôn

2



trên thế giới đã được quan tâm từ rất sớm, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển.
Bằng chứng cho thấy, ngày nay Mỹ, Nhật và các quốc gia Châu Âu có nền
nông nghiệp và nông thôn phát triển gấp nhiều lần các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở các quốc gia
đang phát triển cũng ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả
Frans Elltis khi nghiên cứu về “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang
phát triển” đã nêu lên mô hình thành công, thất bại trong việc phát triển nông
nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân [63]. Cũng đề cập đến mô
hình phát triển nông thôn, đặc biệt là phát triển nông thôn mới ở các quốc gia
xã hội chủ nghĩa, dịch giả Cù Ngọc Hưởng đã giới thiệu khái niệm, bối cảnh,
nội hàm, ý nghĩa, mục tiêu, tiêu chuẩn đánh giá quá trình xây dựng nông thôn
mới xã hội chủ nghĩa, lý thuyết, nguyên tắc, phương pháp và sự đảm bảo thực
hiện kế hoạch xây dựng nông thôn mới [23]. Đây là những nghiên cứu có giá
trị tham khảo rất cao cho Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề của
chính sách phát triển nông thôn cũng như kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện xây dựng nông thôn mới
Hướng tiếp cận về công tác xã hội trong phát triển nông thôn:
Song hành cùng với các giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, nhiều quốc gia trên thế giới cũng chú ý tới phương pháp tiếp cận và thực
hiện xây dựng nông thôn cũng như cách thức giải quyết các vấn đề xã hội ở
khu vực nông thôn. Mặc dù chưa chính thức nhưng công tác xã hội trong phát
triển nông thôn đã được thực hiện như một hướng tiếp cận trong việc phát triển
toàn diện vùng nông thôn. Điều này được minh chứng qua sự ra đời của hoạt
động công tác xã hội nông thôn vào năm 1908 tại Mỹ [30]. Và kinh nghiệm
phát triển cộng đồng của công tác xã hội được bắt đầu lan rộng ở hầu hết các
thuộc địa của Anh tại châu Âu và Châu Phi từ những năm 1940. Năm 1950,
Liên hợp quốc đã công nhận khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích
các quốc gia sử dụng phát triển cộng đồng như một công cụ thực hiện các

chương trình phát triển quốc gia, trong đó phát triển cộng đồng chủ yếu là phát
triển nông thôn và các cộng đồng nông thôn (dân cư nông thôn chiếm 80 - 90%

3


ở các nước). Cho đến nay, các nghiên cứu về thực hành công tác xã hội trong
phát triển nông thôn đã được thực hiện khá phong phú, điển hình là nghiên cứu
của Kyamak Kabadaki về “Exploration of Social Work Practice, Models for
Rural Development in Uganda”. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đánh
giá sự đóng góp của công tác xã hội trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người dân nông thôn ở Uganda cũng như xem xét các mô hình thực hành
công tác xã hội nhằm giải quyết vấn đề, nhu cầu và tạo điều kiện để phát triển
nông thôn [65].
Từ yêu cầu thực tiễn, vào thập kỷ 60, môn tổ chức cộng đồng - một
phương pháp của công tác xã hội được giảng dạy ở đại học [54, tr.10 - 11].
Hiện nay, công tác xã hội trong phát triển nông thôn trên thế giới đã được xem
là một ngành khoa học. Các giáo trình đào tạo cử nhân và thạc sĩ ngành công
tác xã hội trong phát triển nông thôn đã được chú trọng tại các trường: The
Tata Institute of Social Sciences (TISS), Ấn Độ; Thames International College,
Nepal… nhưng trong chương trình đào tạo của các trường này, công tác xã hội
trong phát triển nông thôn không có một giáo trình riêng mà bao gồm nhiều
học phần chuyên sâu khác nhau. Những vấn đề được các tác giả đề cập nhiều
nhất trong công tác xã hội phát triển nông thôn là: lịch sự hình thành, khái
niệm, vai trò của nhân viên công tác xã hội nông thôn, vị trí và vai trò của công
tác xã hội đối với cộng đồng nông thôn, các kỹ năng thực hành, mục tiêu của
công tác xã hội trong phát triển nông thôn, các dịch vụ xã hội nông thôn, công
tác xã hội cộng đồng ở khu vực nông thôn, mô hình thực hành công tác xã
hội…[65], [69], [64], [68]. Đây là những thành tựu và kinh nghiệm cần được
nghiên cứu để tham khảo, học hỏi trong đào tạo nhân viên công tác xã hội cũng

như thực hành công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Hướng nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển nông thôn:
Phát triển nông thôn là một ngành khoa học. Chính vì vậy nghiên cứu về
lý luận và thực hành về phát triển nông thôn ở Việt Nam được thực hiện khá
nhiều. Về mặt lý luận các tác giả thường đề cập đến: khái niệm nông thôn; phát
triển bền vững; phát triển nông thôn; ý nghĩa và tầm quan trọng của phát triển

4


nông thôn; các chỉ số đo lường; phát triển kinh tế nông thôn; phát triển cơ sở hạ
tầng, dịch vụ xã hội và môi trường nông thôn; vai trò của các tổ chức và Nhà
nước trong phát triển nông thôn, phương pháp nghiên cứu phát triển nông thôn;
quy hoạch nông thôn và đặc biệt là những khó khăn mà nông dân gặp phải; các
mô hình phát triển nông thôn… [5], [37], [59], [48], [33]. Điểm nổi bật nhất
trong lý luận về phát triển nông thôn là phương pháp tiếp cận toàn diện trong
phát triển nông thôn và phương pháp tiếp cận phát triển nông thôn có sự tham
gia của cộng đồng hướng đến sự phát triển bền vững. Điều này cho thấy,
phương pháp tiếp cận của phát triển nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ với tôn
chỉ thực hành của phát triển cộng đồng, một phương pháp của ngành công tác
xã hội.
Về mặt thực tiễn, các tác giả thường đi sâu tìm hiểu các hoạt động phát
triển kinh tế nông thôn như xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư và phát triển
sản phẩm nông nghiệp nông thôn [53]; những kết quả bước đầu trong nghiên
cứu về làng nghề truyền thống [62]; các vấn đề trong phát triển nông nghiệp,
lâm nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn, môi trường,
khí hậu và những khó khăn, thách thức trong phát triển nông thôn [67], [1]; đặc
biệt là những hạn chế của các chính sách đến sự phát triển nông nghiệp, nông
thôn như chính sách đất đai [31]; các vấn đề liên quan đến đất, chợ và nghèo

đói [70]; thực trạng nông thôn nước ta ở khía cạnh; vị trí, vai trò của nông
nghiệp, nông thôn, sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực, những thành tựu,
khó khăn, thách thức cũng như thực trạng nông nghiệp nông thôn của nước ta
qua các thời kỳ [3], [47], [49], [9]. Riêng những nghiên cứu về xây dựng nông
thôn mới, một chương trình phát triển nông thôn toàn diện nhất trong giai đoạn
từ 2010 đến 2020 được triển khai, thực hiện khá phổ biến do tính hiện thời và
thực tiễn. Những vấn đề mấu chốt trong thực hiện phát triển nông thôn mới đã
được tìm hiểu như thực trạng triển khai các tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở
từng địa bàn cụ thể (kết quả và hạn chế về kinh tế, xã hội, văn hóa, đời sống, cơ
sở hạ tầng…) [61], [21], [46]. Những nghiên cứu trên đã làm tiền đề cho việc
đưa ra các giải pháp hữu ích nhằm giải quyết các vấn đề ở nông thôn và các mô
hình phát triển nông thôn mới ở Việt Nam [50], [56]. Tuy nhiên, các nghiên

5


cứu thực tiễn về phát triển nông thôn lại chưa đề cập hoạt động của công tác xã
hội trong lĩnh vực này.
Hướng nghiên cứu lý luận và thực tiễn về công tác xã hội trong phát
triển nông thôn:
Tính đến thời điểm hiện nay, vấn đề liên quan đến công tác xã hội, dịch
vụ công tác xã hội, quản lý công tác xã hội và các phương pháp trong công tác
xã hội đã được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
riêng biệt về công tác xã hội trong phát triển nông thôn còn rất ít ỏi.
Xét trên khía cạnh thực tiễn thì phong trào xây dựng nông thôn lấy cộng
đồng làm trọng tâm đã được thực hiện từ thập kỷ 60 và 70 khi phát triển cộng
đồng được mở rộng ở các nước. Hiện nay, Việt Nam cũng có một số công trình
nghiên cứu đề cập sự tham gia của người dân trong phát triển nông thôn, hiệu
quả sử dụng các công cụ, kỹ thuật của phát triển cộng đồng vào phát triển nông
thôn. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về công tác xã

hội hay phát triển cộng đồng trong phát triển nông thôn.
Xét trên khía cạnh đào tạo thì phát triển cộng đồng - một phương pháp của
công tác xã hội được giới thiệu tại Việt Nam vào giữa thập kỷ 50 thông qua trường
tiểu học cộng đồng ở Bún, Lái Thiêu, sau đó mở rộng đào tạo ở một số trường cao
đẳng và sư phạm. Giáo trình giảng dạy môn học này chủ yếu là du nhập từ các
quốc gia phát triển hơn. Trong những năm gần đây, giáo trình về phát triển cộng
đồng đã được quan tâm xây dựng dựa trên bối cảnh phát triển ở Việt Nam như của
các tác giả Tô Duy Hợp [18]; Nguyễn Hữu Nhân [38]; Nguyễn Thị Oanh [42]….
Đặc biệt là tác giả Trương Văn Tuyển đã biên soạn giáo trình “Phát triển cộng
đồng, lý luận và ứng dụng trong phát triển nông thôn”. Trong công trình này, tác
giả đã đề cập đến nhu cầu, lịch sử và diễn tiến của phát triển cộng đồng, khái
niệm, mục tiêu và nguyên lý, tiến trình phát triển cộng đồng cũng như nhu cầu,
mục tiêu, khái niệm, các nguyên lý phát triển nông thôn, nghèo đói và các kỹ năng
làm việc với cộng đồng nông thôn. Điểm nổi bật trong giáo trình này là làm rõ
được vai trò và mối liên hệ chặt chẽ giữa phát triển cộng đồng và phát triển nông
thôn [54]. Trong đó, phát triển cộng đồng cũng là một trong ba phương pháp chính
của phát triển nông thôn. Trong một nghiên cứu khác của tác giả Trần Thị Thu

6


Hương, phương pháp phát triển cộng đồng trong công tác xã hội cũng được nhấn
mạnh trong quá trình phát triển nông thôn, tức là tiếp cận phát triển nông thôn theo
hướng từ dưới lên [22]. Tuy nhiên các tài liệu trên còn chưa đề cập đến nguyên
tắc, tiến trình thực hiện phát triển cộng đồng trong phát triển nông thôn. Dù vậy,
tài liệu này vẫn được coi là tiền đề cơ bản về lý luận cho lĩnh vực công tác xã hội
trong phát triển nông thôn hiện nay.
Khoảng những năm 2012, học phần công tác xã hội trong phát triển nông
thôn được chính thức đề cập trong đào tạo cử nhân ngành phát triển nông thôn
của một số trường đại học như trường Đại học Nông Lâm Huế, Đại học An

Giang, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Song trên thực tế, phần lớn các giáo
trình, bài giảng trên chỉ tập trung vào lịch sử hình thành, vai trò và tiến trình
thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn cũng như các vấn đề xã
hội, môi trường cần quan tâm, giải quyết trong quá trình hoạch định, thực hiện
các chính sách, chương trình phát triển nông thôn mới.
Như vậy, xét trên cả góc độ lý luận và thực tiễn, công tác xã hội trong
phát triển nông thôn mới chỉ được thể hiện riêng rẽ trong các bài giảng của một
số trường đại học. Nói một cách cụ thể, chưa có một giáo trình toàn diện,
chuyên sâu nào về vấn đề công tác xã hội trong phát triển nông thôn. Còn xét
trên khía cạnh thực tiễn, công tác xã hội trong phát triển nông thôn cũng ít
được tìm hiểu và nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công tác xã hội
trong phát triển nông thôn và thực trạng công tác xã hội trong phát triển nông
thôn, cụ thể là thực trạng công tác xã hội trong chương trình xây dựng nông
thôn mới. Qua đó, đề xuất những định hướng và giải pháp thực hiện hiệu quả
công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung thực hiện 3 nhiệm vụ chính sau:
Nhiệm vụ thứ nhất là hệ thống hóa cơ sở lý luận chung về công tác xã hội
trong phát triển nông thôn. Đặc biệt là làm rõ các khái niệm, nhu cầu, quan

7


điểm, nguyên tắc, kỹ năng, tiến trình và các yếu tố ảnh hưởng cũng như quan
điểm, pháp luật về công tác xã hội trong phát triển nông thôn, trong đó nhấn
mạnh đến phương pháp phát triển cộng đồng trong công tác xã hội.
Nhiệm vụ thứ hai là đánh giá thực trạng công tác xã hội trong chương

trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, một chương trình phát triển nông
thôn toàn diện nhất cho đến nay. Với nhiệm vụ này, nghiên cứu tập trung tiến
hành phân tích hoạt động công tác xã hội trong xây dựng nông thôn mới tại
Việt Nam, đồng thời làm rõ việc vận dụng hay chưa vận dụng tiến trình thực
hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn tại tỉnh An Giang, trong đó chú
trọng đến tiến trình huy động nguồn lực và công tác giảm nghèo bền vững
trong xây dựng nông thôn mới.
Nhiệm vụ thứ ba là đề xuất hệ thống định hướng và các giải pháp thực hiện
công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động
công tác xã hội trong phát triển nông thôn, cụ thể là trong chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
- Về mặt lý luận: Khái niệm, nhu cầu, nguyên tắc, phương pháp, nội dung,
tiến trình công tác xã hội trong phát triển nông thôn cũng như pháp luật và các
yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong phát triển nông thôn.
- Về mặt thực tiễn: Phát triển nông thôn mang tính toàn diện và liên quan
đến nhiều lĩnh vực như công nghiệp nông thôn, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp,
công nghệ, kinh tế - xã hội, thể chế và môi trường. Trong giai đoạn hiện nay,
phát triển nông thôn ở Việt Nam được cụ thể hóa trong chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, một chương trình
phát triển tổng hợp vùng nông thôn một cách toàn diện nhất. Nói cách khác,
thực tiễn phát triển nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chính là
việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Do
đó, về mặt thực tiễn luận văn chỉ tập trung phân tích thực trạng hoạt động công

8



tác xã hội trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 - 2015 ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh An Giang nói riêng.
Phạm vi về thời gian nghiên cứu:
Thực tiễn về công tác xã hội trong phát triển nông thôn được nghiên cứu
chủ yếu trong giai đoạn 2010- 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận chung để nghiên cứu nội dung của đề tài là quan điểm
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông thôn; lý
thuyết về công tác xã hội nói chung và lý thuyết về công tác xã hội trong phát
triển nông thôn mới nói riêng.
Đề tài vận dụng các quan điểm tiếp cận cụ thể sau:
Tiếp cận hệ thống - cấu trúc: Việc vận dụng thuyết trên nhằm giúp nghiên
cứu có cơ sở, hiểu sâu hơn về nguyên tắc, nhu cầu, vai trò cũng như mối liên hệ
giữa hai ngành khoa học: công tác xã hội và phát triển nông thôn. Theo khái
niệm của công tác xã hội và phát triển nông thôn thì không phải chỉ ưu tiên chú
trọng vào một khía cạnh, lĩnh vực nhất định mà là sự tiếp cận hệ thống. Tính hệ
thống đó nhấn mạnh đến tất cả các khía cạnh: kinh tế, văn hóa, xã hội, con
người và môi trường. Trong đó chú trọng cả các tổ chức, cơ quan “từ trên
xuống” và “từ dưới lên” theo tinh thần hợp tác.
Tiếp cận nguồn lực: Các tiếp cận này được vận dụng để xem xét đến việc
phát huy nguồn lực và sự tham gia của cư dân nông thôn trong quá trình xây
dựng nông thôn mới. Theo đó, cư dân nông thôn sẽ là người tự tổ chức và điều
hành quá trình phát triển của cộng đồng nông thôn dựa vào nguồn lực vốn có
(có năng lực và tự lực). Điều này sẽ giúp cho cư dân nông thôn trở thành những
chủ thể thực sự của quá trình phát triển.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng các phương pháp sau đây để tìm hiểu
vấn đề nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu, phân tích văn bản tài liệu:
Các văn bản tài liệu được thu thập từ các nguồn thích hợp và đáng tin cậy
như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

9


thôn; Ban chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới;
Tổng cục thống kê; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, các
ban ngành có liên quan và ủy ban nhân dân các xã. Bên cạnh đó, để phục vụ
cho mục đích nghiên cứu của luận văn, đề tài cũng khai thác các tài liệu sẵn có
từ các công trình nghiên cứu, các giáo trình và sách chuyên khảo của các tác
giả trong và ngoài nước, từ các báo cáo của cơ quan chính phủ về các vấn đề có
liên quan đến phát triển nông thôn mới và công tác xã hội trong phát triển nông
thôn. Các nguồn tài liệu này được xử lý, tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa,
khái quát hóa để có cái nhìn tổng quan về lý luận và thực tiễn vận dụng công
tác xã hội trong phát triển nông thôn ở nước ta trong giai đoạn xây dựng nông
thôn mới 2010 - 2015. Từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp thúc đẩy
việc vận dụng công tác xã hội trong phát triển nông thôn giai đoạn 2016 - 2020.
Phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp chuyên gia.
Với phương pháp phỏng vấn sâu, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn có chủ
đích 15 cán bộ thuộc ban quản lý xây dựng nông thôn mới ở 15 xã tại tỉnh An
Giang (chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản từ danh sách các xã thực hiện chương
trình nông thôn mới) để tìm hiểu về tiến trình thực hiện các nội dung trong
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và việc vận dụng
phương pháp công tác xã hội cộng đồng trong thực hiện các nội dung trên (chi
tiết tại phụ lục). Các xã được chọn ngẫu nhiên bao gồm: xã An Phú - huyện
Tịnh Biên; xã Thới Sơn - huyện Tịnh Biên; xã Vọng Đông - huyện Thoại Sơn;
xã Vọng Thê - huyện Thoại Sơn; Phường Mỹ Bình - TP. Long Xuyên; phường
Bình Khánh - TP. Long Xuyên; phường Phú Thọ - thị xã Phú Tân; phường Tân

Trung - thị xã Phú Tân; thị trấn Cái Dầu - huyện Châu Phú; xã Bình Thủy huyện Châu Phú; xã Kiến Thành - huyện Chợ Mới; xã Long Kiến - huyện Chợ
Mới; xã Vĩnh Ngươm - huyện Châu Đốc; xã Cô Tô - huyện Tri Tôn; xã Cần
Đăng - huyện Châu Thành.
Còn riêng đối với phương pháp chuyên gia, học viên sử dụng phương pháp
này để thu thập các ý kiến từ các nhà chuyên môn trong lĩnh vực phát triển
nông thôn, phát triển cộng đồng, công tác xã hội và hoạt động công tác xã hội
thực tiễn để làm rõ thêm thực tiễn về công tác xã hội trong phát triển nông thôn
ở Việt Nam và ở tỉnh An Giang.

10


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Đóng góp về mặt khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các cơ
sở đào tạo, nghiên cứu, thực hành về công tác xã hội, đặc biệt là công tác xã
hội trong phát triển nông thôn.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là bằng chứng khoa học cho các cơ quan hữu quan
trong việc xây dựng chính sách, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác
xã hội trong phát triển nông thôn mới hiện nay (giai đoạn 2016 - 2020).
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài có 3
chương. Chương 1 trình bày một cách ngắn gọn những vấn đề lý luận về công
tác xã hội trong phát triển nông thôn. Trên cơ sở đó, chương 2 tập trung phân
tích, đánh giá thực trạng công tác xã hội trong chương trình phát triển nông
thôn mới ở Việt Nam nói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Chương 3 đưa ra
các định hướng và giải pháp nhằm thực hiện công tác xã hội trong phát triển
nông thôn ở Việt Nam.


11


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1.1. Các khái niệm chủ yếu được sử dụng trong đề tài
1.1.1 Khái niệm nông thôn
Nông thôn là một thuật ngữ được sử dụng để phân vùng lãnh thổ của các
quốc gia. Hiện nay, trên thế giới thuật ngữ nông thôn được định nghĩa theo
nhiều quan điểm và tiêu chí khác nhau. Có nhiều cách hiểu về nông thôn được
xây dựng dựa trên chỉ tiêu dân số, mật độ dân cư, vùng chủ yếu làm nông
nghiệp và thiết chế xã hội. Tuy nhiên cũng có cách hiểu về nông thôn được xây
dựng dựa trên chỉ tiêu kết cấu cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất hàng hóa hoặc
những quan điểm kết hợp tất cả các tiêu chí trên.
Đại diện cho tiêu chí về dân số, mật độ dân cư và nghề nghiệp là quan
điểm quản lý của chính phủ Việt Nam. Vào khoảng những năm 1990, khu vực
nông thôn được hiểu là địa bàn dân cư có số lượng dân tập trung dưới 4.000
người, mật độ dân cư ít hơn 6.000 người/km2 và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp
dưới 60%, tức là tỉ lệ lao động nông nghiệp đạt từ 40% trở lên [42]. Khi bàn
luận về chương trình xây dựng nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn quy định “vùng/khu vực nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội
thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính
cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” (Điều 1- Thông tư số 54/TT - Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn ngày 21/8/2009) [49]. Cách hiểu trên đúng với thực tế của
Việt Nam nhưng mới chú trọng đến vấn đề quản lý và ranh giới giữa đô thị và
nông thôn.
Đại diện cho chỉ tiêu kết cấu cơ sở hạ tầng hay phát triển sản xuất hàng
hóa là quan điểm của các tác giả Mai Thanh Cúc, Trương Văn Tuyển. Theo các
tác giả thì nông thôn Việt Nam được hiểu là “vùng sinh sống của tập hợp cư
dân, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt

động kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất
định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác” [5], [54]. Với cách hiểu này,
nông thôn không chỉ được biết đến thông qua ranh giới khu vực mà còn được
biết đến thông qua sự tham gia của con người trong các lĩnh vực tạo ra của cải

12


vật chất và tinh thần tại nơi cư trú. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn chưa thể
hiện được trình độ phát triển và mức độ tiếp cận với các dịch vụ xã hội của cư
dân nông thôn.
Đại diện cho sự kết hợp của nhiều tiêu chí là quan điểm của tác giả Vũ
Thị Bình (2006); Hoàng Văn Định và Vũ Đình Thắng (2002), Đỗ Kim Chung
(2009). Theo đó nông thôn là vùng khác với đô thị bởi ở đó có cộng đồng chủ
yếu là nông dân sinh sống và làm nông nghiệp, có mật độ dân cư thấp hơn; có
kết cấu hạ tầng kém phát triển hơn; có mức độ phúc lợi xã hội thua kém hơn;
có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn.
Nói một cách khác thì nông thôn bao gồm cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi
trường, văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, tổ chức và thể chế, công nghệ và hạ
tầng cơ sở [2], [8], [7]. Cách tiếp cận này tương đối toàn diện, bởi lẽ các quan
điểm xem xét nông thôn với nhiều tiêu chí quan trọng, đặc biệt là bao hàm
được nhiều vấn đề của đời sống xã hội ở khu vực nông thôn hiện nay.
Tóm lại, nông thôn là thuật ngữ cần được hiểu một cách bao quát với mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội kể cả đặc điểm dân cư, mật độ, hạ tầng, môi
trường - tài nguyên thiên nhiên, tính cố kết cộng đồng, phong tục tập quán, tín
ngưỡng truyền thống và những đặc trưng riêng biệt của nó.
Trên cơ sở quan niệm về nông thôn của các tác giả trước đó, nghiên cứu
sử dụng khái niệm nông thôn sau: Nông thôn là khu vực sinh sống trong đơn vị
làng xã của chủ yếu cư dân làm nông nghiệp, nơi đây có tài nguyên thiên nhiên
phong phú nhưng có sự cách biệt về phát triển đối với khu vực thành thị (có cơ

sở hạ tầng kém phát triển, các dịch vụ xã hội hạn chế, trình độ dân trí và khả
năng tiếp cận thị trường, sản xuất hàng hóa thấp). Tập hợp cư dân này cùng
chia sẻ và chịu ràng buộc bởi những đặc điểm và lợi ích chung như phong tục
tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống.
Hiện nay, nông thôn được xây dựng theo một mô hình mới, gọi tắt là
nông thôn mới. Nông thôn mới là nông thôn có hạ tầng kinh tế - xã hội văn
minh hiện đại, sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa, dân
trí, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, an ninh được
đảm bảo nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của nông thôn Việt Nam

13


(giá trị văn hóa, môi trường sinh thái) (Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày
5/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X).
1.1.2 Khái niệm phát triển
Phát triển bao hàm nhiều vấn đề rộng lớn và phức tạp. Điều này có nghĩa
là phát triển được hiểu với nhiều ngữ nghĩa khác nhau tùy vào từng lĩnh vực cụ
thể như phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, phát triển xã hội, phát triển chính
trị hay phát triển nông thôn, phát triển thị trường, phát triển đô thị, phát triển
giáo dục, phát triển cộng đồng, phát triển hội nhập, phát triển phụ nữ…. Tuy
nhiên, nếu chỉ xem xét phát triển ở một góc độ hay một lĩnh vực thì phát triển
đó chỉ là điều kiện cần mà chưa phải là điều kiện đủ cho sự phát triển toàn diện
của một xã hội nói chung hay một con người nói riêng.
Xét về mặt lịch sử, quan niệm về phát triển được thay đổi theo thời gian.
Theo tác giả Bùi Đình Thanh, thuật ngữ phát triển ra đời ở Mỹ với nghĩa là
Văn Minh. Đến những năm 30, thuật ngữ phát triển được gắn với kinh tế, và
đến những năm 70, phát triển được mở rộng thêm nhiều lĩnh vực khác như phát
triển nội sinh, phát triển cộng đồng, phát triển hội nhập, phát triển về sinh thái,
phát triển xã hội chủ nghĩa. Cho đến những năm 80, phát triển được hiểu là sự

phát triển kinh tế gắn với sự phát triển con người [55].
Theo nghĩa tổng quát nhất, hiện nay thuật ngữ phát triển được hiểu là sự
tăng trưởng, đặc biệt là sự tăng trưởng kinh tế cùng với sự biến chất xã hội theo
chiều hướng tiến bộ xã hội, nghĩa là theo hướng đúng hơn, tốt hơn và đẹp hơn.
Hay nói cách khác, phát triển có thể được hiểu là một quá trình thay đổi liên tục
làm tăng trưởng mức sống của con người và phân phối công bằng những thành
quả tăng trưởng trong xã hội [dẫn theo 2], [55], [32], [5], [38].
Còn theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ phát triển được gắn với từng lĩnh vực cụ
thể như phát triển nông nghiệp hoặc nông thôn, văn hóa, kinh tế…. Theo đó
phát triển được hiểu là sự tăng trưởng về kinh tế hoặc là hiện đại hóa hay sự
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Dù với nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thuật ngữ phát triển không chỉ quan tâm
đến sự tăng trưởng kinh tế mà còn cần phải đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người, tiến bộ xã hội và bền vững về môi trường. Nếu phát triển

14


chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế đơn thuần thì mới thể hiện được một
phần, một yếu tố chưa đầy đủ của phát triển [5], [2].
Tóm lại, phát triển là tạo điều kiện thỏa mãn nhu cầu sống cho con người,
bao gồm thỏa mãn về mức tiêu thụ hàng hóa, về dịch vụ xã hội, về chất lượng
cuộc sống, về văn hóa tinh thần, về môi trường sống và các quyền cơ bản khác
nhưng không làm tổn hại đến môi trường sinh thái. Phát triển mang tính thời
gian và so sánh.
1.1.3. Khái niệm phát triển nông thôn
Thuật ngữ phát triển nông thôn được đề cập với nhiều quan điểm khác
nhau và thay đổi qua các thời kỳ. Ngân hàng thế giới đã đưa ra định nghĩa
(1975) “Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện
sống về kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng

nông thôn. Nó giúp những người nghèo nhất trong những người dân sống ở các
vùng nông thôn được hưởng lợi ích từ sự phát triển” [dẫn theo 5]. Đây là quan
điểm mà nhiều tổ chức quốc tế đang vận dụng ở các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam. Tuy nhiên, một số quan điểm khác lại cho rằng phát triển
nông thôn không chỉ tập trung vào một nhóm người mà là phát triển tất cả các
lĩnh vực cho dân cư vùng nông thôn. Theo đó, các tác giả này cho rằng, phát
triển nông thôn là phát triển tổng hợp tất cả các vấn đề gắn với đời sống của
người dân và môi trường, không gian sống ở khu vực nông thôn (giáo dục, y tế,
nhà cửa, dịch vụ công cộng và cơ sở vật chất, năng lực lãnh đạo và quản lý,
phát huy giá trị các di sản văn hóa cũng như các vấn đề về kinh tế ngành nói
riêng). Đây là một quá trình đa chiều hướng tới hội nhập bền vững trong tất cả
các lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường). Đồng thời phát triển nông
thôn cũng là một quá trình cải thiện có chủ ý, ổn định và bền vững với những
thay đổi kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường (hướng tới hiện đại và sự thịnh
vượng lâu dài của cả cộng đồng) [20], [54], [5], [2, tr.10].
Hiện nay, phát triển nông thôn phải đảm bảo được sự phát triển bền vững.
Điều này có nghĩa là quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn phải phù
hợp với nhu cầu của con người, đảm bảo sự tồn tại bền vững và sự tiến bộ lâu

15


dài trong nông thôn và cho cả quốc gia. Trong đó nhấn mạnh đến hoạt động
phát triển lấy người dân và cộng đồng làm trung tâm [6], [5], [54], [20], [7].
Như vậy, tuy khác nhau về cách định nghĩa, diễn đạt nhưng có thể nhận
thấy một số đặc trưng căn bản về phát triển nông thôn như sau:
Thứ nhất là phát triển nông thôn là những thay đổi cần thiết ở từng khu
vực nông thôn và nó là một quá trình, chiến lược cải thiện;
Thứ hai là phát triển nông thôn là sự phát triển tổng hợp của các vấn đề,
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn (tiếp cận toàn

diện);
Thứ ba là phát triển nông thôn phải có tính bền vững;
Thứ năm là phát triển nông thôn phải dựa trên lợi ích và sự tham gia của
người dân và cộng đồng nông thôn; sự hợp tác giữa người dân, chính phủ và
các tổ chức khác;
Thứ sáu là phát triển nông thôn phải hướng đến hội nhập.
Từ những khái niệm và phân tích trên, có thể nhận thấy: phát triển nông
thôn là quá trình tác động có chủ ý đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế,
xã hội ở khu vực nông thôn nhằm tạo điều kiện thỏa mãn nhu cầu và cải thiện
vị thế của cư dân nông thôn thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực có
sẵn tại địa phương, góp phần vào sự bền vững và hội nhập của cả khu vực nông
thôn và của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, phát triển nông thôn được cụ
thể hóa qua các chính sách, phong trào xây dựng nông thôn mới.
1.1.4. Công tác xã hội trong phát triển nông thôn
Công tác xã hội là một một ngành khoa học, một nghề chuyên môn được
công nhận khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Công tác xã hội theo đuổi mục
tiêu vì hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã hội. Công tác xã hội ở Việt Nam
gắn liền với sự nghiệp đổi mới, sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc
tế. Công tác xã hội có ba phương pháp thực hành chính, đó là công tác xã hội
cá nhân, công tác xã hội nhóm và công tác xã hội cộng đồng. Với mỗi một
phương pháp thực hành, một lĩnh vực thực hiện, công tác xã hội lại có những
kỹ năng và kỹ thuật đặc trưng. Trong đó, công tác xã hội với cộng đồng nông
thôn và phát triển nông thôn đều dựa trên nguyên lý lấy phát triển con người và

16


cộng đồng làm trung tâm nhằm tạo ra các chuyển biến xã hội trong cộng đồng
giúp cộng đồng nông thôn tăng năng lực cũng như góp phần cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần, duy trì công bằng xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường ở

khu vực nông thôn.
Trên cơ sở những quan niệm về nông thôn, phát triển và phát triển nông
thôn, học viên đưa ra khái niệm: Công tác xã hội trong phát triển nông thôn là
việc vận dụng phương pháp can thiệp của công tác xã hội vào các hoạt động
phát triển nông thôn nhằm giúp cư dân nông thôn giải quyết các vấn đề trong
quá trình phát triển thông qua việc kết nối, cung cấp các dịch vụ và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực sẵn có tại địa phương để thỏa mãn nhu cầu, cải thiện
vị thế. Trong đó phương pháp can thiệp của công tác xã hội trong phát triển
nông thôn dựa trên phương pháp công tác xã hội với cộng đồng.
1.2. Nhu cầu, quan điểm về công tác xã hội trong phát triển nông thôn
1.2.1 Nhu cầu về công tác xã hội trong phát triển nông thôn
Việt Nam là một quốc gia có khu vực nông thôn rộng lớn và đông dân
nhất, nơi có tỷ lệ dân số chiếm 66,92% dân số của cả nước (tính đến 1/4/2014)
[25]. Đặc biệt, đây cũng là nơi đa dạng về thành phần tộc người, về văn hóa,
đồng thời nông thôn cũng là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập quán của
cộng đồng [41, trang 13]. Cùng với sự phát triển lớn mạnh về kinh tế, hiện nay,
nông thôn và nông dân Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề trong quá
trình phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn của Việt Nam chiếm
khoảng 92,29% so với tổng số hộ nghèo cả nước [35]. Bên cạnh đó, phần lớn
các vùng nông thôn ở Việt Nam có hạ tầng cơ sở kém, sản xuất nông nghiệp
nhiều rủi ro, đời sống nông dân còn khó khăn, người dân nhiều vùng nông thôn
có tư tưởng ỷ lại, không dựa trên nội lực và sức mạnh của cộng đồng, năng lực
sản xuất vẫn còn thấp…[36]. Những vấn đề trên đã khiến cho cư dân nông thôn
Việt Nam phải gánh chịu nhiều vấn đề về nghèo đói, việc làm, di cư, ô nhiễm
môi trường, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sạch, thiếu an toàn do xuất hiện các
tệ nạn xã hội… và thiếu cả cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội so với cư dân
đô thị. Theo một khảo sát của Nguyễn Thị Thu Hà năm 2013 về “Đổi mới công
tác xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế - lý luận và

17



thực tiễn” thì lĩnh vực công tác xã hội với xóa đói, giảm nghèo, trong đó có xóa
đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn được đa số cán bộ công tác xã hội cho
rằng là lĩnh vực đang có nhu cầu cao nhất tại Việt Nam hiện nay (51,6%).
Đồng thời nếu so sánh nhu cầu và lĩnh vực đang hoạt động mạnh nhất thì công
tác xã hội với phát triển cộng đồng đang trong trường hợp cung không đủ cầu
(35,0% so với 44,8%) [16].
Để giải quyết các vấn đề trong xã hội nông thôn cũng như tiến tới giảm
khoảng cách phát triển giữa vùng nông thôn và đô thị, các chương trình giảm
nghèo và phát triển nông thôn đã được xây dựng, triển khai. Có thể nói, các
chương trình phát triển nông thôn là những chương trình rộng lớn và phức tạp,
liên quan đến chính sách quốc gia và của từng địa phương. Hiện nay, các
chương trình phát triển nông thôn, mà cụ thể là chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới được thiết kế theo hướng dựa trên nhu cầu và năng
lực của chính cộng đồng nông thôn. Tuy nhiên để cộng đồng nông thôn khơi
dậy được năng lực của mình, tự tìm các giải pháp để xây dựng nông thôn mới
một cách bền vững lại là điều không đơn giản [20]. Bởi lẽ, trên thực tế có nhiều
cộng đồng nông thôn đã quen sống dựa vào sự hỗ trợ của nhà nước hoặc không
đủ khả năng và cơ hội để tiếp cận với các nguồn lực xã hội trong việc giải
quyết vấn đề của mình. Những vấn đề trên chính là đối tượng làm việc của
ngành công tác xã hội. Trong khi đó mục tiêu và phương pháp tiếp cận của cả
ngành công tác xã hội và phát triển nông thôn là hướng đến việc hỗ trợ cư dân
nông thôn nhận ra và phát huy tốt nhất năng lực của mình để cùng tham gia vào
quá trình giải quyết vấn đề và phát triển cộng đồng nông thôn.
Như vậy, thực tế trên cho thấy Việt Nam đang có nhu cầu về công tác xã
hội trong phát triển nông thôn. Nói một cách khác là chương trình phát triển
nông thôn ở Việt Nam rất cần thiết phải vận dụng các phương pháp can thiệp
khoa học của công tác xã hội trong quá trình giải quyết vấn đề ở khu vực nông
thôn để đem lại hiệu quả bền vững. Và hoạt động của công tác xã hội trong

phát triển nông thôn không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ hiệu quả cho việc thực
hiện các chương trình xây dựng nông thôn mà còn cùng với cán bộ phát triển
nông thôn hỗ trợ cư dân giải quyết các vần đề xã hội đang tồn tại hoặc phòng

18


ngừa những vấn đề có thể xảy ra đối với cộng đồng nông thôn. Với vai trò và vị
trí của mình, công tác xã hội hiện nay được coi là nhân tố nòng cốt trong các
chiến lược giảm nghèo và phát triển bền vững vùng nông thôn ở Việt Nam.
1.2.2. Quan điểm về công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam
Thực tiễn cho thấy, phương pháp can thiệp của công tác xã hội trong phát
triển nông thôn ở Việt Nam là phương pháp công tác xã hội cộng đồng (phát
triển cộng đồng) và thường được tập trung chủ yếu tại những khu vực nông
thôn nghèo, kém phát triển. Vì vậy có thể khẳng định công tác xã hội trong
phát triển nông thôn ở Việt Nam đã được du nhập từ những năm đầu mới xuất
hiện (những năm 50 của thế kỷ trước), nhưng cho đến nay đây vẫn là một lĩnh
vực khá mới mẻ. Đặc biệt là hệ thống cơ sở lý luận phản ánh thực trạng của
hoạt động công tác xã hội trong phát triển nông thôn vẫn chưa được định hình.
Trong thời kỳ trước đổi mới đất nước, khi mà công tác xã hội chưa được
chính thức thừa nhận như một nghề chuyên nghiệp tại Việt Nam, hoạt động của
công tác xã hội cộng đồng trong phát triển nông thôn phổ biến là theo hướng từ
trên xuống, tức là dựa vào năng lực chuyên môn của các chuyên gia đến từ bên
ngoài thay vì dựa vào nội lực của cộng đồng nông thôn [38], [52]. Với quan
điểm tập trung giải quyết các vấn đề khó khăn, nhu cầu và sự thiếu hụt của
cộng đồng cư dân nông thôn nên các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách
phát triển nông thôn thường tìm các giải pháp để bù đắp cho những khó khăn
của cộng đồng. Đặc biệt là các tại các vùng dự án, các nhà tài trợ thường chú ý
vào việc điều tra nhu cầu, phân tích hiện trạng để phát hiện những vấn đề cần
làm cho cư dân nông thôn và thực hiện sứ mệnh hay chủ đích của tổ chức

mình. Chính điều này đã khiến người dân được xem như là những khách hàng
tiêu thụ các sản phẩm của các chương trình phát triển từ chính phủ hoặc các tổ
chức phát triển. Và cư dân nông thôn tồn tại tư tưởng xem trọng các hỗ trợ từ
bên ngoài hơn là nguồn lực sẵn có từ bên trong. Điều này dẫn đến sự tan rã dần
các mối quan hệ liên kết cộng đồng cũng như không khai thác được nội lực và
khả năng nội tại của người dân ở nông thôn [60].
Sau đổi mới (thập niên 80 - 90), các nhà nghiên cứu và thực hành công tác
xã hội cộng đồng nhận thấy nhiều điểm hạn chế trong quan điểm phát triển dựa

19


vào nhu cầu, đồng thời họ cũng được kế thừa những kiến thức mới từ những
nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên thế giới. Lúc này, hoạt động công tác
xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam đã chú trọng hơn đến sự tham gia
của người dân trong tiến trình ra quyết định cũng như trong việc thực hiện các
chương trình phát triển [60], [52]. Với quan điểm này người dân nông thôn có
khả năng tự tổ chức, thông qua tổ chức của riêng họ, họ có khả năng xác định
nhu cầu của mình, chia sẻ thiết kế, thực hiện và lượng giá hành động cùng tham
gia (FAO, 1982). Và các công cụ trong phương pháp điều tra nông thôn có sự
tham gia (PRA), hành động - học tập có sự tham gia (PLA) là các công cụ
chính của quan điểm tiếp cận này. Quan điểm tiếp cận có sự tham gia của công
tác xã hội cộng đồng phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
hiện nay, đó là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn “dân biết,
dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Tuy nhiên trong quá trình phát triển xuất
hiện những nhóm người dễ bị tổn thương, mà trong đó vấn đề nghèo đói là vấn
đề nan giải ở hầu hết khu vực nông thôn. Nguyên nhân gốc rễ của đói nghèo là
do còn có các bất công, do còn tồn tại sự phân biệt đối xử. Vì vậy, công tác xã
hội cộng đồng đã áp dụng quan điểm về quyền con người để phân tích các
nguyên nhân gốc rễ của sự tổn thương và chỉ ra phạm vi trách nhiệm của các

bên liên quan. Với quan điểm này các chuẩn mực, nguyên tắc, tiêu chuẩn về
quyền con người sẽ được lồng ghép vào kế hoạch và quá trình của công tác
phát triển. Trọng tâm của quan điểm tiếp cận dựa trên quyền con người là tập
trung vào nhóm dễ tổn thương và nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, mối quan hệ
giữa cơ quan công quyền và người mang quyền để từ đó trao quyền và nâng
cao năng lực cho những nhóm người dễ bị tổn thương [60], [52].
Đến nay (cuối những năm 90 và đầu thế kỷ 21), công tác xã hội được coi
trọng, phát triển và trở thành một nghề chính thức ở Việt Nam, quan điểm thực
hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn cũng được chuyển dịch theo
hướng từ trên - xuống sang từ dưới - lên. Quan điểm này có nghĩa là trao quyền
tự chủ cho cộng đồng, các tổ chức bên ngoài cộng đồng chỉ đóng vai trò hỗ trợ,
thúc đẩy hoặc cầu nối. Và triết lý của quan điểm tiếp cận từ dưới - lên là lấy
dân làm gốc, khơi dậy tất cả tiềm năng, sự tham gia tích cực và tăng cường

20


quyền lực của cộng đồng nông thôn trong quá trình phát triển. Hiện nay, quan
điểm phát triển dựa vào nguồn lực và cộng đồng tự điều hành là hai cách tiếp
cận hiện đại của công tác xã hội cộng đồng [52], [60]. Trong đó, bộ công cụ để
nghiên cứu và thực hành công tác xã hội cộng đồng dựa vào nội lực (ABCD:
Assets based for community development) là công cụ chính của quan điểm tiếp
cận này. Quan điểm này thường tiếp cận đến nguồn lực đang tồn tại trong các mối
quan hệ xã hội, các tổ chức liên kết cùng những mạng lưới xã hội chính thức và
không chính thức. Đồng thời quyền lực sẽ được trao cho người dân trong cộng
đồng qua hình thức tạo cơ hội cho họ tham gia tích cực vào quá trình phát triển
chung của cả cộng đồng [60]. Với quan điểm tiếp cận dựa vào nguồn lực và cộng
đồng tự điều hành thì mọi khía cạnh của đời sống xã hội sẽ được phát triển đồng
bộ, người dân thay đổi về nhận thức, hành vi và các mối tương quan trong cộng
đồng, từ đó góp phần phát triển bền vững khu vực nông thôn.

Như vậy, lịch sử phát triển đã chứng minh, có nhiều quan điểm và cách
tiếp cận về công tác xã hội cộng đồng trong phát triển nông thôn. Các quan
điểm và cách tiếp cận rất phong phú do được hình thành từ tính đa dạng của
thực tiễn và sự du nhập từ hệ thống lý thuyết công tác xã hội phát triển cộng
đồng ở các nước phát triển. Theo tiến trình thời gian, các quan điểm luôn được
điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh thực tế của xã hội. Và trong một chương
trình phát triển có thể áp dụng một hay nhiều quan điểm khác nhau để đem lại
hiệu quả và sự phát triển bền vững cho từng khu vực dân cư.
1.3. Nguyên tắc, nội dung, kỹ năng, kỹ thuật và tiến trình của công tác xã
hội trong phát triển nông thôn
Công tác xã hội trong phát triển nông thôn được xây dựng dựa trên hệ
thống lý thuyết của nhiều ngành khoa học như triết học, xã hội học, dân tộc
học, thống kê học, tâm lý học, kinh tế học, phát triển nông thôn… Đây là một
hệ thống linh hoạt bởi nó cung cấp những cơ sở nền tảng phù hợp cho mọi khu
vực nông thôn vốn đa dạng và luôn có sự khác biệt.
Mục đích của công tác xã hội trong phát triển nông thôn là phát triển vì
con người [29, tr. 22]. Điều này có nghĩa là tác viên phát triển nông thôn cùng
phối hợp với các chuyên gia phát triển nông thôn cải thiện điều kiện sống, bao

21


×