Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Vận dụng quan điểm triết học mác lênin về con người vào xây dựng con người ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.88 KB, 65 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ CHIẾN

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƢỜI
VÀO XÂY DỰNG CON NGƢỜI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ GIANG

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo - ThS. Nguyễn Thị Giang,
ngƣời đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong trƣờng Đại học
Sƣ Phạm Hà Nội 2. Đặc biệt là các thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục Chính
trị đã giảng dạy, dìu dắt em trong suốt thời gian qua, cùng gia đình, bạn bè đã
tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thiện khóa luận của mình.
Thông qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn tới tập thể cán bội trung
tâm thƣ viện thông tin ĐHSPHN2 đã tạo điều kiện cho em đƣợc mƣợn tài liệu
tham khảo có liên qua tới tới đề tài khóa luận này.
EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!
Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện



Bùi Thị Chiến


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên
cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn, chỉ bảo tình của ThS.Nguyễn Thị Giang,
không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiên

Bùi Thị Chiến


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƢỜI .......... 6
1.1. Quan điểm về con ngƣời trong lịch sử triết học .................................... 6
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng con ngƣời ở Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................... 19
1.3. Nội dung sự vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin về con ngƣời
vào xây dựng con ngƣời ở Việt Nam hiện nay ........................................... 26
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ XÂY DỰNG CON NGƢỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY ...................................................................................................... 29
2.1. Những phẩm chất ở con ngƣời Việt Nam hiện nay ............................. 29
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân của nó trong việc xây dựng con ngƣời
Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 36
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÂY DỰNG CON

NGƢỜI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN ....................................................................................... 40
3.1 .Quan điểm và định hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc .............................. 40
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay .. 45
3.3. Xây dựng những phẩm chất mới ở con ngƣời Việt Nam hôm nay phù
hợp với sự phát triển của đất nƣớc và thời đại ............................................ 53
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 60


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tƣ tƣởng về con ngƣời của triết học Mác - Lênin đƣợc hình thành trên
có sở kế thừa biện chứng những tƣ tƣởng tiến bộ của nhân loại, từ đó triết học
Mác - Lênin đã khẳng định vai trò cải tạo của thế giới, làm nên lịch sử của
con ngƣời. Trong tƣ tƣởng khoa học và cách mạng ấy, con ngƣời vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển của lịch sử. Bản chất nhân đạo, mục tiêu cao
cả, thƣớc đo nhân văn của sự phát triển xã hội là phát triển vì con ngƣời đƣa
con ngƣời từ vƣơng quốc của tất yếu sang vƣơng quốc tự do.
Từ xa xƣa cho đến thời đại ngày nay, con ngƣời đƣợc xem là vị trí
trung tâm và có vai trò quyết định sự tồn vong, phát triển của xã hội. Con
ngƣời đƣợc xem là chủ thể của lịch sử, con ngƣời làm ra lịch sử xã hội.Vì vậy
con ngƣời đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác
nhau nhƣ: sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học và trong đó có triết
học. Vấn đề con ngƣời đã trở thành một nội dung lớn trong lịch sử triết học
nhân loại và là nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết
học Mác - Lênin nói riêng. Con ngƣời cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch
sử triết học cổ đại đến trung đại.
Ở nƣớc ta trong mỗi thời kì cách mạng, Đảng và Nhà nƣớc luôn chú
trọng đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và giải phóng con ngƣời Việt Nam.

Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới 20 năm qua, bằng việc thay đổi cơ chế
quản lý kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho đất
nƣớc tiến lên. Và cũng chính sự nghiệp đổi mới ấy đã tạo ra nhiều điều kiện
thuận lợi để xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ con ngƣời Việt Nam đang trở lên
lạc hậu hơn, suy thoái về đạo đức, không bắt kịp với lại sự tiến bộ của khoa

1


học kĩ thuật trên thế giới nó đã làm ảnh hƣởng đến công cuộc xây dựng đất
nƣớc và con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề con ngƣời và vận dụng một cách sáng tạo những
quan điểm đó vào việc xây dựng con ngƣời Việt Nam nhằm phát huy nhân tố
con nguời trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta
luôn là vấn đề cấp bách. Giải quyết vấn đề này vừa mang tính lý luận đồng
thời cũng mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “Vận dụng quan điểm triết học Mác Lênin về con ngƣời vào xây dựng con ngƣời ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Con ngƣời luôn là trung tâm của mọi học thuyết khoa học xã hội, là
động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Do vậy, đây cũng là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
tác giả với nhiều bài viết, nhiều đánh giá, bàn luận trên thế giới và nó còn
đƣợc viết dƣới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó có thể kể đến một số tác
phẩm tiêu biểu nhƣ:
Vấn đề con ngƣời lần đầu tiên đƣợc Mác - Ăngghen đề cập đến vào
năm 1848 trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”. Với luận điểm
bất hủ mà hai ông đã đƣa ra: “Sự phát triển tự do của mỗi ngƣời là điều kiện

cho sự phát triển tự do của tất cả mọi ngƣời” [15, 628].
Đề tài này cũng thu hút nhiều nhà khoa học Việt Nam, các nhà khoa
học nghiên cứu con ngƣời trên nhiều bình diện, khía cạnh khác nhau… Tiêu
biểu phải kể đến:
“Đề tài khoa học cấp Nhà nước về con người thuộc chương trình
nghiên cứu KHXH-04”, của tập thể giáo sƣ, phó giáo sƣ thuộc viện nghiên

2


cứu giáo dục. Đã bổ sung và làm rõ, hoàn thiện quan điểm triết học Mác Lênin về con ngƣời. Vai trò của nhân tố con ngƣời đối với sự phát triển của
đất nƣớc. Qúa trình xây dựng con ngƣời mới trong thời gian qua. Trên cơ sở
đó tác giả đã nêu lên những giải pháp nhằm phát triển con ngƣời mới ở Việt
Nam hiện nay.
Ngoài ra còn một số cuốn sách cũng viết về vấn đề con ngƣời nhƣ:
Cuốn sách “Về phát triển con ngƣời toàn diện thời kỳ CNH, HĐH” - do
Giáo sƣ Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên tính cấp thiết của việc xây dựng và
phát triển con ngƣời toàn diện phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Các tiêu chí của một con ngƣời toàn diện và đề ra một số biện pháp
xây dựng và phát triển con ngƣời toàn diện thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nƣớc ta hiện nay.
Trong cuốn giáo trình: “Triết học Mác - Lênin” do GS,TS: Nguyễn
Hữu Vui-GS,TS: Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên). Cuốn sách này đề cập
đến những nội dung liên quan đến vấn con ngƣời nhƣ bản chất của con ngƣời,
vị trí, vai trò của con ngƣời trong thế giới nhƣ thế nào.
Bên cạnh đó viết về con ngƣời còn có nhiều tác phẩm, các báo cáo,
các nghiên cứu khác cũng đề cập đến con ngƣời và xây dựng con ngƣời.
Nhƣng nhìn chungcác tác giả điều nghiên cứu con ngƣời một cách khái quát
mà chƣa đi sâu vào nghiên cứu sâu sắc cụ thể những phẩm chất quý giá của

con ngƣời Việt Nam và xây dựng con ngƣời XHCN. Do vậy, đề tài khóa luận
của tôi không có sự trùng lặp với các công trình trên. Các công trình trên chỉ
có tác dụng tham khảo cho khóa luận.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích: Mục đích của khóa luận nhằm làm rõ sự vận dụng quan
điểm triết học Mác - Lênin về con ngƣời vào xây dựng con ngƣời ở Việt Nam
hiện nay.

3


- Đề tài có nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu quan niệm triết học Mác - Lênin về con ngƣời.
Phân tích thực trạng xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay.
Đề ra một số giải pháp cơ bản cho vấn đề xây dựng con ngƣời Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Khóa luận là những quan điểm triết học Mác - Lênin về con nguời và
vận dụng quan điểm đó vào xây dựng con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Trong khóa luận này chúng ta chỉ đi nghiên cứu quan điểm triết học
Mác - Lênin về con ngƣời vào xây dựng con ngƣời trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài tôi đã sử dụng các phƣơng pháp
cơ bản sau:
- Dựa trên phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sửcủa chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
về bản chất con ngƣời và xây dựng con ngƣời xà hội chủ nghĩa.
Nhóm phƣơng pháp cụ thể:

- Phƣơng pháp lôgíc và lịch sử.
- Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp.
- Phƣơng pháp so sánh và đối chiếu…
6. Ý nghĩa của đề tài
* Đóng góp về mặt lý luận:
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ và khẳng định sự đúng đắn, khoa học của
quan điểm về bản chất con ngƣời trong triết học Mác - Lênin.

4


- Để làm rõ tính khoa học của quan điểm triết học Mác - Lênin về con
ngƣời và vận dụng nó vào xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay. Chỉ ra
thực trạng của con ngƣời Việt Nam hiện nay và đóng góp một số giải pháp cơ
bản vào xây dựng con ngƣời Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
* Đóng góp về mặt thực tiễn:
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, học
tập và có ý nghĩa góp phần đẩy mạnh công tác xây dựng con ngƣời hoàn thiện
trong điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chƣơng; 8 tiết.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƢỜI
1.1. Quan điểm về con ngƣời trong lịch sử triết học
1.1.1. Quan điểm về con người trong lịch sử triết học phương Đông

Để nghiên cứu sâu vào vấn đề “Xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện
nay” thì chúng ta không thể không đi nghiên cứu một cách có hệ thống các
quan điểm về con ngƣời qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Đó là cơ sở lý
luận cơ bản để xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay.
Trƣớc hết, chúng ta xem xét về con ngƣời trong triết học phƣơng Đông.
Lục địa Châu Á là một châu lục có rất nhiều dân tộc và quốc gia sinh sống.
Trong quá trình phát triển của lịch sử mỗi quốc gia, dân tộc đã có ít nhiều đóng
góp cho loài ngƣời những kiến thức, những tƣ tƣởng về nhiều phƣơng diện.
Trong đó có đất nƣớc Trung Quốc là nƣớc mà có ảnh hƣởng nhiều nhất, mạnh
nhất trong khu vực này về con ngƣời bởi nó có diện tích rộng, dân số đông và
đã có nền văn hóa, tƣ tƣởng phát triển sớm vƣợt ra ngoài lãnh thổ, dân tộc
mình và có ảnh hƣởng đến các nƣớc láng giềng dân tộc khác.
Trên cơ sở của một nền kinh tế chậm phát triển, lạc hậu mà trong đó
luôn có sự chia rẽ, đối kháng giai cấp, vấn đề quan hệ giữa con ngƣời với con
ngƣời luôn luôn đƣợc đặt ra. Ở Trung Quốc sự phân chia đẳng cấp là hết sức
gay gắt, sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô với nô lệ, giai cấp phong kiến
với nông dân hết sức nặng nề. Có thể nói đó là nguồn gốc cơ bảncủa nhiều
học thuyết về con ngƣời đã thịnh hành ở Trung Quốc. Nhƣng trong khuôn khổ
của đề tài này ta chỉ đề cập tới ba học thuyết cơ bản có ảnh hƣởng lớn nhất trong
tƣ tƣởng cổ đại cổ đại Việt Nam là “Nho Giáo, Phật giáo và Đạo giáo”.
Các học thuyết này điều đề cập tới mối quan hệ giữa con ngƣời với tự
nhiên, giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội và các vấn đề

6


nhân sinh… Nhƣng điều chú trọng ở đây là bản chất con ngƣời, bởi vì các tôn
giáo này đặt ra nhiệm vụ chủ yếu là giải quyết các vấn chính trị - xã hội, các
vấn đề có liên quan trực tiếp tới con ngƣời.
Trên phƣơng diện ba học thuyết trên phải kể đến:

Trƣớc tiên là Nho giáo: đứng đầu là Khổng Tử (551- 479 TCN) cho
rằng: Trời sinh ra con ngƣời và vạn vật, không có trời thì không sinh ra đƣợc
con ngƣời, con ngƣời có mệnh có số đều do trời quy định. Tƣ tƣởng duy tâm
này đƣơng thời đã bị các nhà duy vật phảnđối đả kích kịch liệt, sau này đến
thời Tống xuất hiện với bộ mặt “lý”, “lý sinh ra khí” (âm dƣơng ngũ hành)
sinh ra ngƣời và vật. Chính vì nhân danh “trời” và “lý” giai cấp phong kiến
các nƣớc phƣơng đông đã gieo bao đâu khổ chết chóc cho con ngƣời, tiến
hành các cuộc áp bức bóc lột các dân tộc nhỏ để hòng bắt buộc họ phải khuất
phục đầu hàng.
Bản chất con ngƣời trong Nho giáo đã đƣợc nhiều nhà nho trình bày
dƣới nhiều quan điểm đa dạng, ví dụ nhƣ:
Khổng Tử đề cao tính thiện của con ngƣời, theo Khổng tử ngay từ khi
con ngƣời sinh ra đã vốn tính thiện (thiện tính) nhƣng do quá trình tồn tại và
phát triển, nó đã bị ảnh hƣởng bởi những thói hƣ tật xấu trong xã hội do đó
tính thiện của con ngƣời dần mất đi trong quá trình phát triển.
Mạnh Tử đề xuất để con ngƣời giữ đƣợc tính thiện của mình phải trau
dồi đạo đức, từ đó hai ông khẳng định tầm quan trọng của cách quản lý đất
nƣớc bằng đức trị và lễ trị, còn Tuân Tử thì ngƣợc lại, con ngƣời bản tính vốn
ác, phải luôn ngăn chặn bằng pháp trị, nhƣng quan điểm này đƣợc Hàn Phi rất
coi trọng. Thuyết “thiên - nhân hợp nhất” cho rằng, ngƣời với trời hòa hợp, có
tác động lẫn nhau. Đây cũng là một quan điểm mang nhiều yếu tố tích cực,
thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa con ngƣời với tự nhiên, nhƣng cũng vì
thế mà con ngƣời phải tuân theo mệnh trời thiếu sự quyết đoán. Thuyết “thiên

7


- nhân bất tƣơng quan” (Tuân Tử) thì ngƣợc lại, về phƣơng diện sinh dƣỡng,
ngƣời mang ơn trời, về phƣơng diện xã hội, đạo trời không giúp cũng không
hại đến đạo ngƣời, vì vậy, con ngƣời phải chủ động giải quyết các vấn đề xã

hội, tránh thái độ bị động, trông chờ vào mệnh trời.
Đạo giáo: Khác với quan điểm của Nho giáo khi nói về nguồn gốc con
ngƣời, các nhà sáng lập ra đạo giáo cho rằng “Đạo là nguồn gốc của con
ngƣời và vạn vật, đạo là vạn vật chi tông” (nguồn gốc của vạn vật), đạo sinh
ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Nhƣng vấn đề đạo
họ đề cập ở đây là gì? Trang Tử nói “đạo là vô vi vô hình” “từ gốc từ rễ, chƣa
có trời đất tự cổ đã sinh ra trời, sinh ra đất”. Đã có ngƣời tƣởng “đạo” có tính
vật chất và cho đạo duy vật. Nhƣng thực ra tƣ tƣởng của Đạo giáo là duy tâm,
vì Thiên hạ, vạn vật sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vô do đó Đạo giáo mang
tính duy tâm khách quan. Do chống lại Nho giáo thần bí Đạo giáo lại rơi vào
tƣ tƣởng thần bí khác, làm cho con ngƣời càng mơ hồ rắc rối.
Tiêu biểu cho quan niệm Đạo giáo mà đứng đầu là Trang Tử xem con
ngƣời là một bộ phận của tự nhiên, nhƣng chỉ là một loại tự nhiên trong các
loai tự nhiên khác, rằng con ngƣời không cao hơn tự nhiên, vì con ngƣời có
quan niệm xấu đẹp, ƣa thích thì con vật cũng vậy, không biết bên nào làm
thƣớc đo cho bên nào. Cho nên vì thế con ngƣời cũng đừng có kiêu hãnh rằng
mình đƣợc làm ngƣời. Nhƣng đôi khi ông cũng cho con ngƣời có những quan
điểm khác biệt với bộ phận khác của tự nhiên ông nói: Trâu và Ngựa có bốn
chân đó là trời (chỉ giới tự nhiên), thắng cƣơng ngựa, xỏ mũi trâu đó là
ngƣời.Với quan điểm này ông đã nhầm lẫn con ngƣời với vạn vật đã gây tổn
hại làm mất đi giá trị cao quý của con ngƣời. Nhƣ vậy thế giới quan của Đạo
giáo là hết sức tiêu cực, không thấy đƣợc khả năng nghiên cứu khoa học cũng
nhƣ cải tạo hoàn cảnh của con ngƣời.
Trong lịch sử, quan niệm về bản chất con ngƣời nhƣ trên đã từng thống
trị, là cơ sở đạo đức để giai cấp thống trị giáo dục đạo đức con ngƣời. Nhƣng

8


do không hiểu đạo đức con ngƣời là sản phẩm sinh hoạt xã hội và mỗi giai

cấp trong xã hội điều có đạo đức riêng cho nên ngay từ đầu giai cấp bị thống
trị đã chống lại kịch liệt đạo đức của giai cấp thống trị.
Cùng song song, tồn tại với quan niệm của Nho giáo, Đạo giáo về
nguồn gốc bản chất con ngƣời là quan niệm của Phật giáo.
Phật giáo: xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ, Phật giáo lại có quan điểm khác
Đạo giáo không thừa nhận một đấng sáng thế tạo ra con ngƣời, không thừa
nhận linh hồn thế giới là linh hồn cụ thể, mà họ cho rằng con ngƣời là nguyên
nhân của chính mình, con ngƣời của quá khứ là nguyên nhân của con ngƣời
hiện tại, con ngƣời hiện tại là nguyên nhân của con ngƣời tƣơng lai (thuyết
nhân duyên). Luận điểm này có ý nghĩa tích cực trong việc chống lại chủ
nghĩa số mệnh, nhƣng vẫn còn luẩn quẩn trong vòng duy tâm thần bí.Vì vây,
nó không làm ta tiếp nhận tri thức khoa học mà khiến ngƣời ta chấp nhận tín
ngƣỡng, dù thế nào đi nữa thì Phật giáo cũng cho rằng: con ngƣời điều do luật
nhân quả, do nghiệp mà ra, sự tồn tại hay diệt vong đều do vong luôn hồi tạo ra.
Về bản chất con ngƣời Phật giáo không thừa nhận con ngƣời là một
thực thể khách quan, vì con ngƣời là “vô thƣờng” (luôn luôn biến đổi) không
có dạng ổn định “vô ngã” (không có bản thân mình) “giả tƣởng” (giả tạm
không thực). Song Phật giáo cùng thừa nhận con ngƣời khác con vật ở chỗ có
“tâm” và “thức”. Tuy vậy tâm là cái thần bí, không sinh ra từ bất cứ cái gì,
nhƣng lại có nguồn gốc từ “thức”, đó chính là sự giác ngộ về tâm linh. Do vậy
quan niệm của Phật giáo tuy không hƣ vô nhƣ Đạo nhƣng cũng không có một
cơ sở khoa học nào, hơn nữa lại đƣa con ngƣời vào chỗ u tối, mù mịt.
Tóm lại: Qua việc tìm hiểu nguồn gốc, bản chất con ngƣời phƣơng
Đông cổ đại, chúng ta thấy ba học thuyết trên là sản phẩm của chế độ kinh tế
chính trị phƣơng đông, tất nhiên không phải toàn bộ nội dung đó là tiêu cực.
Mà ta vẫn thấy đƣợc nét tích cực của nó: nhƣ khích động lòng cao thƣợng

9



trong con ngƣời của đạo Phật, điều nhân nghĩa của đạo Nho, coi thƣờng phú
quý của Đạo giáo. Chúng điều là sản phẩm của chế độ nô lệ, phong kiến
không còn lí do nào để tồn tại nữa, nhƣng những ảnh hƣởng của chúng còn
khá dai dẳng và nặng nề.
Ba học thuyết trên đã thịnh hành ở Việt Nam thời xƣa và đã đƣợc chế
độ phong kiến đƣơng thời coi đó là quốc giáo và ra sức truyền bá. Khi nghiên
cứu con ngƣời, đặc biệt là xây dựng con ngƣời ở Việt Nam hiện nay mà bỏ
qua các quan điểm trên, sẽ là một thiếu sót rất lớn của nƣớc ta khi đi lên xây
dựng CNXH từ một nƣớc nông nghiệp, phong kiến lạc hậu.
Nhìn chung, quan điểm về con ngƣời trong triết học phƣơng Đông thể
hiện rất phong phú nhƣng mang nặng tính duy tâm. Các học thuyết ấy lấy đạo
đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đềtrong cuộc sống.
Song các chuẩn mực đạo đức, các quan niệm về bản tính con ngƣời,
đạo làm ngƣời và hình mẫu con ngƣời lại rất đa dạng chứa đựng những tƣ
tƣởng lâu dài trong lịch sử và giữ vai trò nền tảng cho thế hệ sau tiếp tục hoàn
thiện, để thể hiện quan điểm của mình.
1.1.2. Quan điểm về con người trong lịch sử triết học phương Tây
Triết học phƣơng Tây trƣớc Mác đã thể hiện nhiều quan niệm khác
nhau về con ngƣời:
Trong đó, phải kể tới triết học Hy Lạp cổ đại: Con ngƣời đƣợc xem là
điểm khởi đầu của tƣ duy triết học. Con ngƣời và thế giới xung quanh là tấm
gƣơng phản chiếu lẫn nhau. Con ngƣời là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la.
Prôtago, một nhà ngụy biện cho rằng “con ngƣời là thƣớc đo của vũ trụ”. Hay
quan điểm của Arixtốt về con ngƣời, theo ông chỉ có linh hồn, tƣ duy, trí nhớ,
ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con ngƣời nổi bật lên, con ngƣời là
thang bậc cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao nhà nƣớc thì ông xem con ngƣời là
“một động vật chính trị”.

10



Nhƣ vậy, trong triết học Hy Lạp cổ đại bƣớc đầu cũng có sự phân biệt
con ngƣời với tự nhiên, nhƣng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại của con
ngƣời mà thôi.
Tiếp đến làTriết học Tây Âu thời trung cổ: xem con ngƣời là sản phẩm
của Thƣợng đế sáng tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, lỗi buồn, sự may rủi của
con ngƣời điều do thƣợng đế sắp đặt. Trí tuệ của con ngƣời thấp hơn lý trí anh
minh sáng suốt của Thƣợng đế. Con ngƣời trở lên nhỏ bé trƣớc cuộc sống
nhƣng đành bằng lòng trƣớc cuộc sống, cam chịu và sống một cuộc sống tạm
bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Triết học thời kì phục hƣng và cận đại: đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý
tính của con ngƣời, xem con ngƣời là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong
những yếu tố quan trọng nhằm để giải thoát con ngƣời khỏi những gông cùm
chặt hẹp, mà chủ thần bí thời trung cổ đã kìm hãm, áp đặt cho con ngƣời. Tuy
nhiên để nhận thức đầy đủ bản chất con ngƣời cả về mặt sinh học và mặt xã
hội thì chƣa có trƣờng phái nào đạt đƣợc. Con ngƣời mói chỉ nhấn mạnh về
mặt cá thể mà xem nhẹ xã hội.
Triết học cổ điển Đức: là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở
phƣơng Tây và có ảnh hƣởng lớn tới triết học hiện đại. Trong đó, lĩnh vực bàn
về bản chất con ngƣời đƣợc các nhà triết học thời kỳ này đặc biệt quan tâm
nghiên cứu, cụ thể trong đó phải kể tới các nhà triết học nhƣ.
Can tơ là ngƣời sáng lập ra triết học cổ điển Đức, đã có một bƣớc tiến
xa so với các nhà triết học trƣớc đó về quan niệm con ngƣời, trong triết học
trƣớc đó về quan niệm của con ngƣời trong triết học khi ông cho rằng: Các
nhà triết học xƣa nay “từ Arixtốt đến Đêcáctơ” thƣờng chỉ biết bàn đến các
vấn đề bản thể luậnvà nhận thức nói chung nhƣ: Vũ trụ là gì? Nhận thức của
con ngƣời có đạt tới chân lý hay không?... mà vấn đề quan trọng nhất là con
ngƣời. Nhƣ vậy trong triết học của Cantơ, con ngƣời đƣợc bàn với tƣ cách là

11



chủ thể hoạt động gắn liền với thực tiễn chứ không chỉ đơn thuần là dừng lại
ở hoạt động nhận thức, mặc dù Can tơ coi thực tiễn là những hoạt động tinh
thần nhƣ: đạo đức, chính trị … Đây là luận điểm quan trọng và là một bƣớc
tiến của triết học trong quan điểm của con ngƣời. Đồng thời Cantơ cho rằng
con ngƣời là chủ thể cũng là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình.
Giới tự nhiên cũng chính là kết quả hoạt động của con ngƣời.
Hêghen, các quan điểm duy tâm về bản chất con ngƣời đã tìm thấy sự
hoàn thiện, Hêghen cho rằng: Con ngƣời là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”,
ý niệm tuyệt đối là một thực thể tinh thần tồn tại tha hóa thành thế giới tự
nhiên và con ngƣời. Nhƣ vậy, tức là Hêghen đã hạ thấp con ngƣời xuống địa
vị của các cái chỉ giữ vai trò thể hiện, chỉ là sự khách quan hóa ý niệm.
L.Phoiơbắc, nhà triết học duy vật, ngƣời đã làm nền triết học cổ điển
Đức phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm thần bí của Hêghen, đã cố gắng
tìm cách giải thích nguồn gốc, bản chất con ngƣời không theo lối thần bí khó
hiểu của Hêghen song cũng chƣa thoát khỏi quan điểm duy tâm về vấn đề
này. Tuy nhiên Phoiơbắc khi bàn tới con ngƣời ông lại tuyệt đối hóa mặt sinh
học của con ngƣời. Đây làtƣ tƣởng xuyên suốt nội dung triết học của ông.
Ông quan niệm con ngƣời là sản phẩm của tự nhiên, con ngƣời là biểu
hiện của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên, “là cái gƣơng của vũ
trụ” thông qua đó giới tự nhiên nhận thức chính bản thân mình. Hơn tất cả các
sự vật hiện tƣợng khác trong giới tự nhiên, con ngƣời là một thực thể sinh vật
có cảm giác, biết tƣ duy, có ham muốn, có hoài bão, khát vọng, khẳng định sự
thống nhất hữu cơ giữa con gƣời và tự nhiên, ông nói: Có thể tách con ngƣời
khỏi giới tự nhiên hay không. Con ngƣời là sản phẩm của giới tự nhiên, của
văn hóa và của lịch sử, là một bộ phận của giới tự nhiên mà xét theo bản chất
có tình thƣơng yêu. Hơn nữa, ông còn cho tôn giáo là bản chất của con ngƣời
song tôn giáo lại là thứ tình yêu nam nữ. Ở đây Phoiơbắc đã rơi vào duy tâm


12


không hơn gì Hêghen. Ông xem ý thức xã hội phản ánh bản chất con ngƣời đó
là tính cảm giác, là sự sống của trí tuệ, trái tim, là những trải nghiệm nội tâm
của ngƣời đang yêu, đang yêu, đang đau khổ và vƣơn tới hạnh phúc…
Ăngghen đã đánh giá con ngƣời mà Phoiơbắc đãnói tới vẫn luôn là con ngƣời
trừu tƣợng trong triết học tôn giáo. Hay nói cách khác, hạn chế của Phoiơbắc
ở đây là ông chƣa thấy con ngƣời xã hội, không thấy con ngƣời đƣợc tạo nên
và bị chi phối bởi các quan hệ xã hội. Ông chỉ xét con ngƣời về mặt sinh học
với tƣ cách là một bộ phận của giới tự nhiên, tách rời các điều kiện tự nhiên,
tách rời các điều kiện kinh tế xã hội và lịch sự. Bởi vậy, đã bộc lộ tính trừu
tƣợng của cái gọi là “con ngƣời cụ thể” của ông.
Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lƣu triết học nhân bản phi lý tính
cũng nhƣ học thuyết khác ở phƣơng Tây hiện đại điều coi những yếu tố về
tinh thần nhƣ nhu cầu về bản năng, vô thức, tri thức, tình cảm,… là bản chất
của con ngƣời. Con ngƣời thƣờng đƣợc tuyệt đối hóa về mặt cá nhân. Mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội
thƣờng đƣợc đề cập ở góc độ hoài nghi, bi quan, bế tắc… Tất cả những điều
ấy phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị của con ngƣời trong xã hội phƣơng
Tây hiện đại. Tuy vậy nhƣng một số trƣờng phái triết học vẫn đạt đƣợc những
thành tựu trong việc phân tích quan sát con ngƣời, đề cao lý tính, xác lập
những giá trị về nhân bản học để hƣớng con ngƣời tới tự do. Đó là những tiền
đề có ý nghĩa cho việc hình thành tƣ tƣởng về con ngƣời của triết học Mácxít.
1.1.3. Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa mặt tích cực và khắc phục những
mặt hạn chế, đồng thời phát triển những quan niệm về con ngƣời đã có trong
những học thuyết trƣớc đây, để đi tới con ngƣời hiện thực, con ngƣời vừa là
sản phẩm tự nhiên và xã hội, Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con
ngƣời nhƣ một thực thể xã hội, bản chất con ngƣời là tổng hòa các mối quan

hệ xã hội.

13


Thứ nhất, con ngƣời là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với
xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con ngƣời trong lịch sử triết
học, đồng thời khẳng định con ngƣời hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con
ngƣời là sản phẩm của giới tự nhiên. Con ngƣời tự nhiên là con ngƣời mang
tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con ngƣời là điều
kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con ngƣời. Vì vậy giới tự nhiên là “thân
thể vô cơ của con ngƣời”. Con ngƣời là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cấp cao nhất, tinh hoa của muôn loài, con ngƣời là sản
phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con ngƣời
phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên
nhƣ thức ăn, nƣớc uống, hang động để ở. Đó là quá trình con nguời đấu tranh
với tự nhiên. Con ngƣời phải thay đổi từ vƣợn thành ngƣời, điều đó đã đƣợc
chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các giai đoạn mà
mang tính sinh hoạt mà con ngƣời trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi
quy định bản tính sinh học trong đời sống con ngƣời. Nhƣ vậy, con ngƣời
trƣớc hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con ngƣời, là
tổ chức cơ thể của con ngƣời và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên, Những
thuộc tính những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn
phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con ngƣời.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con ngƣời. Đặc trƣng quy định bản chất con ngƣời
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm lịch
sử khác nhau phân biệt con ngƣời với loài vật, nhƣ con ngƣời là sử dụng công

cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội” hoặc con ngƣời động vật có tƣ
duy … Nhƣng những quan niệm trên điều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một

14


khía cạnh nào đó, trong bản chất xã hội của con ngƣời mà chƣa nêu lên đƣợc
nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phƣơng pháp biện chứng duy vật, Triết học Mác nhận thức vấn đề
con ngƣời một cách toàn diện cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của
nó, mà trƣớc hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác và
Ăngghen đã nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con ngƣời. “Có thể phân
biệt con ngƣời với súc vật, bằng ý thức, bằng tông giáo, nói chung bằng bất
cứ cái gì cũng đƣợc. Bản thân con ngƣời bắt đầu từ sự phân biệt với xúc vật
ngay từ khi con ngƣời bắt đầu sản xuất ra những tƣ liệu sinh hoạt của mình đó là một bƣớc tiến lớn do tổ chức của con ngƣời quy định. Sản xuất ra những
tƣ liệu sinh hoạt của mình, nhƣ thế con ngƣời đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình” [9, tr.469].
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con ngƣời đã làm thay đổi, cải
biến toàn bộ giới tự nhiên “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con
ngƣời tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [9, tr.469].
Tính xã hội của con ngƣời đƣợc biểu hiện trong toàn bộ hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã
hội của con ngƣời.Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con ngƣời sản xuất
ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình, hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tƣ duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là
yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con ngƣời, đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con ngƣời luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhƣng lại thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên nhƣ quy

luật về sự phù hợp với môi trƣờng, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền,
biến dị, tiến hóa… quy định phƣơng diện sinh học của con ngƣời. Hệ thống

15


các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của
con ngƣời nhƣ hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các
quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa con ngƣời với con ngƣời.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con ngƣời bao gồm cả mặt sinh học và xã hội. Mối quan
hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành nên hệ thống các nhu cầu sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống con ngƣời nhƣ nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu
cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hƣởng thụ các
giá trị tinh thần.
Với phƣơng pháp luận duy vật biên chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng nhƣ nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu xã
hội trong mỗi con ngƣời thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên
của con ngƣời, còn mặt xã hội là đặc trƣng bản chất để phân biệt con ngƣời
với loài vật. Nhu cầu sinh học phải đƣợc “nhân hóa” để mang giá trị văn minh
con ngƣời và đến lƣợt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của
nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để
tạo thành con ngƣời, con ngƣời tự nhiên - xã hội.
Thứ hai, trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngƣời là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con ngƣời
vƣợt lên thế giới loài vật, trên cả ba phƣơng diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con ngƣời. Cả ba mối
quan hệ đó, suy cho đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa
con ngƣời với con ngƣời là quan hệ bản chất bao trùm tất cả các mối quan hệ

khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con ngƣời.
Bởi vậy, trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán
một cách vắt tắt những quan điểm đó và xác lập quan niệm mới của mình:

16


“Bản chất con ngƣời không phải là một cái trừu tƣợng cố hữucủa cá nhân
riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngƣời là tổng hòa những
mối quan hệ xã hội” [9, tr.471].
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con ngƣời trừu tƣợng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con ngƣời luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử nhất định, một thời đại nhất định.Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con ngƣời đã tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tƣ duy trí
tuệ. Chỉ trong toàn bộ mối quan hệ xã hội đó (nhƣ quan hệ giai cấp, dân tộc,
thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con
ngƣời mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lƣu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ nhận cái mặt tự nhiên trong đời sống con ngƣời; trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con ngƣời với thế giới động vật trƣớc hết
là ở bản chất xã hội và đấy cũng là sự khắc phục thiếu sót của các nhà triết
học trƣớc Mác không thấy đƣợc bản chất xã hội của con ngƣời. Mặt khác, cái
bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là
cái duy nhất; do đó cần phải thấy đƣợc cái biểu hiện riêng biệt, phong phú và
đa dạngcủa mỗi cá nhân về cả phong cách và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Thứ ba, con ngƣời là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con ngƣời. Bởi vậy, con ngƣời là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài
của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con ngƣời luôn luôn là

chủ thể của lịch sử - xã hội.C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ
nghĩa cho rằng con ngƣời là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục… cái
học thuyết ấy quên rằng chính con ngƣời làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân
nhà giáo dục cũng cần phải đƣợc giáo dục” [9, tr.472]. Trong tác phẩm Biện

17


chứng của tự nhiên, Ph. Ăng ghen cũng cho rằng: “Trong các vật của giới tự
nhiên, con ngƣời luôn luôn phát hiện ra những đặc tính mới mà từ trƣớc tới
nay chƣa ai biết đến” [1, tr. 304]. Hay Ăngghen còn nói “loài vật chỉ lợi dụng
giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên, chỉ đơn
thuần do sự có mặt của nó thôi. Còn con ngƣời thì do tạo ra những biến đổi
đó, mà bắt giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị
giới tự nhiên” [1, tr. 317].
Nhƣ vậy với tƣ cách là thực thể xã hội, con ngƣời hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật thì dựa vào những điều kiện sẵn
có của tự nhiên. Con ngƣời thì trái lại, thông qua các hoạt động thực tiễn của
mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con ngƣời cũng làm ra lịch sử của
mình. Con ngƣời là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử của chính bản thân con ngƣời. Hoạt động lao động sản xuất vừa là
điều kiện cho sự tồn tại của con ngƣời đồng thời vừa làm phƣơng thức biến
đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở lắm bắt quy luật lịch sử xã hội, con
ngƣời thông qua các hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát
triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con ngƣời đặt ra.
Không có hoạt động của con ngƣời thì không tồn tại quy luật xã hội, và do đó,
không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài ngƣời.

Không có con ngƣời trừu tƣợng, chỉ có con ngƣời cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con ngƣời, trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động biến đổi, cũng phải thay
đổi cho phù hợp. Bản chất con ngƣời không phải hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tƣơng ứng với điều kiện tồn tại của con ngƣời. Mặc dù là “tổng hòa

18


các mối quan hệ xã hội”, con ngƣời có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử
với tƣ cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con ngƣời cũng vận
động biến đổi cho phù hợp. Có thể phù hợp, mỗi sự vận động và tiến lên của
lịch sẽ quy định tƣơng ứng (mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và
biến đổi của bản chất con ngƣời.
Vì vậy, để phát triển bản chất con ngƣời theo hƣớng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính ngƣời nhiều hơn.Hoàn cảnh đó chính
là toàn bộ môi trƣờng tự nhiên và xã hội tác động đến con ngƣời theo khuyh
hƣớng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có mục đích, tự giác, có ý nghĩa định
nghĩa giáo dục. Thông qua đó, con ngƣời tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích
và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phƣơng diện khác nhau: hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng sử, hành vi con ngƣời, sự phát triển của phẩm chất trí
tuệ và năng lực tƣ duy, các quy luật nhận thức hƣớng con ngƣời tới hoạt động
vật chất.Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời và
hoàn cảnh trong bất kì giai đoạn nàocủa lịch sử xã hội loài ngƣời.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng con ngƣời ở Việt
Nam hiện nay
1.2.1. Quan niệm về con người của Đảng và Nhà nước
Vấn đề con ngƣời là một trong những nội dung quan trọng của học
thuyết Mác - Lênin. Theo quan điểm các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, con ngƣời tồn tại với tƣ cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, cần có
sự phát triển hài hòa, toàn diện. Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin về con ngƣời, đồng thời xuất phát từ thực tiễn khách quan
cách mạng nƣớc ta, Đảng cộng sản Việt Nam trong mọi thời kỳ cách mạng
luôn quan tâm đến vấn đề phát triển con ngƣời và phát triển nguồn nhân lực,
nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Xây dựng con
ngƣời Việt Nam hiện đại đáp ứng đƣợc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là

19


nhiệm vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện
nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn
mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con ngƣời Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tƣ tƣởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn
hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội” [6, tr. 114].
Xây dựng con ngƣời và các thế hệ gắn bó với sự nghiệp cách mạng là
một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá
nhân, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, gắn liền với các thiết chế và
thể chế văn hóa của đất nƣớc. Vì vậy, cần phải huy rộng sức mạnh tổng hợp
và toàn diện của các nguồn lực văn hóa để giáo dục và xây dựng con ngƣời,
bằng nhiều hình thức và phƣơng pháp khác nhau, tạo điều kiện và cơ hội cho con
ngƣời phát triển toàn diện và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển đất nƣớc.
Từ những đánh giá ấy, vấn đề xây dựng một nền văn hóa “tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” là định hƣớng cần đạt tới, trong đó mục tiêu về mặt
con ngƣời đƣợc nêu ra với 5 phẩm chất (mà văn bản gọi là “những đức tính”)
rõ ràng là:
Thứ nhất: Có tinh thần yêu nƣớc, tự cƣờng dân tộc, phấn đấu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vƣơn lên đƣa đất nƣớc khỏi đói nghèo và
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Vì độc lập dân tọc tự do của Tổ Quốc và dân tộc, con ngƣời Việt Nam
sẵn sàng hy sinh tất cả, hiến dâng tất cả, chịu đựng tất cả và vƣợt qua tất cả.
Đó cũng là con ngƣời đại trí, biết đánh giặc và biết thắng giặc; là con ngƣời
đã sáng tạo ra cả một nghệ thuật đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao
độc đáo, đạt đến đỉnh cao ngang tầm với các thời đại đã qua. Trong tinh thần
dân tộc của con ngƣời Việt Nam, lòng yêu thôn xóm và bà con quê hƣơng hết

20


sức đậm đà, đoàn kết tƣơng trợ giúp đỡ lẫn nhau, chăm sóc lẫn nhau.Tóm lại,
trong con ngƣời Việt Nam luôn có truyền thống chiến đấu và chiến thắng
ngoại sâm, đặt quền lợi của Tổ Quốc và dân tộc lên trên hết, quật cƣờng bất
khuất, trí dũng song toàn - con ngƣời anh hùng.
Thứ hai: Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
Đây cũng đƣợc coi là trong những truyền thống quý báu của nhân dân
ta, là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc ta từ xƣa đến nay. Phát huy truyền
thống này trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi con ngƣời Việt Nam hãy biết
giúp đỡ nhau, dựa vào nhau, chung tay cùng nhau vì sự thành công của chế độ
XHCN ở Việt Nam, vì sự tự do, ấm lo, hạnh phúc của con ngƣời Việt Nam.
Đồng thời phải đoàn kết với nhân dân tất cả các nƣớc trên thế giới vì một thế
giới hòa bình, phát triển ổn định và bền vững.
Thứ ba: Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung
thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cƣơng phép nƣớc, quy ƣớc của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ thiên nhiên và môi trƣờng sinh thái.
Đây là những con ngƣời sẽ tạo nên một xã hội mới phát triển tốt đẹp,
ổn định, các tệ nạn xã hội đƣợc đẩy lùi. Con ngƣời quý trọng nhau sống với
nhau hòa đồng, êm ấm, hạnh phúc. Tạo điều kiện cho con ngƣời Việt Nam
hôm nay phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể mĩ. Đây vừa là mục tiêu vừa là
động lực để phát triển đất nƣớc.

Thứ tƣ: Lao động chăm chỉ với lƣơng tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật,
sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Con ngƣời Việt Nam có truyền thống lao động cần cù, lao động dũng
cảm và sáng tạo. Những đức tính này nâng lên gấp bội khi đất nƣớc bị đô hộ,
hoặc khi dân tộc đứng lên đấu tranh giữ nƣớc, khi những ngƣời nông dân
đứng lên khởi nghĩa hoặc trong nƣớc có nội chiến. Những ngƣời nông dân nói
riêng và ngƣời lao động Việt Nam nói chung đã phải làm việc trong những

21


×