Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.43 KB, 23 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dưới ngọn cờ lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh
và Bác Hồ vĩ đại nhân dân ta đã từng đánh bại 2 đế quốc hùng mạnh nhất thế
giới: Đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng kinh tế
đất nước, Đảng lại lãnh đạo nhân dân đi hết từ thành công này đến thành công
khác, mang lại sự đổi thay từng ngày từng giờ cho nền kinh tế Việt Nam cũng
như mang lại sức sống mới cho nhân dân cả nước. Tuy rằng trước đây chúng ta
đã duy trì kinh tế bao cấp, việc đó làm trí tuệ nền kinh tế, thế nhưng Đảng ta đã
nhanh chóng nắm bắt tình thế và đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào tình hình mới, thời đại mới, Đảng ta đã chủ trương chuyển từ kinh tế bao cấp
sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vào năm 1986 công cuộc đổi
mới đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng sang phát triển nhanh. Từ
một nước phải nhập khẩu gạo trong những năm đầu giải phóng đất nước, đến
nay, Việt Nam đã trở thành một trong 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới
sau Mỹ và Thái Lan. Quan hệ thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở
rộng với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới ”.
Nước ta đã gia nhập ASEAN, AFTA... và sắp tới Việt Nam mong muốn được
gia nhập WTO – tổ chức thương mại thế giới và đến khi đó thì nền kinh tế của
Việt Nam sẽ có những bước tiến mới, hứa hẹn một sự tăng trưởng cao. Không
chỉ trong lĩnh vực thương mại mà trong những ngành khoa khọc cơ bản cũng dần
dần được đầu tư thích đáng hơn và có sự chú ý hơn của Nhà nước, bằng chứng là
ngân sách Nhà nước cho những ngành này đã tăng lên đáng kể so với những năm
đầu thập kỷ 90. Trong quá trình lãnh dạo đất nước để thực hiện mục tiêu “Dân
giầu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” tiên lên CNXH Đảng ta đã kiên
định đường lối lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ nghĩa Mác – Lênin và biết áp
dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác một cách linh hoạt trong những đường
lối, định hướng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế xã hội trong nước. Phép
phủ định biện chứng với hai đặc trưng cơ bản là tính tất yếu khách quan và tính
kế thừa được thể hiện rõ trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Đó là
sự ra đời của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phủ định lại nền
1




kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam qua những thành tựu mà nó mang lại ta có thể khẳng
định chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc, là
kim chỉ nam dẫn đường. Nhận thức được tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mác – Lênin đặc biệt là phép phủ định biện chứng đối với công cuộc
đổi mới kinh tế của Việt Nam mà bộ môn triết học Mác – LêNin đã nâng lên
thành một đề tài nghiên cứu khoa khọc cho sinh viên, do đó em chọn đề tài
“Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân
tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam ” để nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài, em rất vui khi được tiếp xúc với những lý luận cơ bản cần thiết và rất vui
mứng khi đựơc nâng cao kiến thức qua việc nghiên cứu. Tuy nhiên, vì đây là lần
đầu tiên thử sức với một đề tài vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn
cao nên em khơng tránh khỏi sai sót, em mong các thầy cơ thơng cảm và giúp đỡ
em trong q trình hồn thiện tư duy và kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã tận tình cung cấp phần lớn kiến
thức và phương pháp để em hoàn thành bài tiểu luận này.
Hà Nội, ngày

2

tháng

năm 2002


B. NỘI DUNG
PHẦNI: NỘI DUNG LÝ LUẬN
I. KHÁI NIỆM PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG:


1. Định nghĩa phủ định biện chứng.
Thế giới vật chất vận động và phát triển không ngừng. Một dạng nào đó
của vật chất được sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng vật
chất khác. Triết học Mác sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng
về chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự
vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Triết học goị sự thay thế đó là sự phủ định.
Phủ định bao gồm phủ định siêu hình và phủ định biện chứng. Trái với phủ định
siêu hình làm chấm dứt sự phát triển thì phủ định biện chứng lại tạo ra những
điều kiện tiền đề cho sự phát triển hay một thay đổi nào đó làm cho sự vật phát
triển. Ở đây ta chỉ nghiên cứu về phủ định biện chứng là hình thức giải quyết các
mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định sự phủ định mà mỗi sự thay
thế chuyển hố làm thành một mắt khâu trong sợi dây xích phát triển của hiện
thực và của tư duy. Từ những sự nhận định trên chủ nghĩa duy vật đã đưa ra khái
niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân vận động phủ định, tự thân phát
triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra
đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng.
- Tính khách quan:
Những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là do những nguyên
nhân bên ngoài đưa lại, xem sự vật và hiện tượng là những cái cô lập, tách rời
nhau. Phương pháp biện chứng khẳng định cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm
ngay trong bản thân sự vật, nó là kết quả của những mâu thuẫn được giải quyết
trong bản thân mỗi sự vật.

3


Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật có phương thức
phủ định biện chứng riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả

hoạt động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất trong đó mâu thuẫn
mới phủ định mâu thuẫn cũ, chất mới thay thế chất cũ và xuất phát từ xu hướng
vận động của sự vật hiện tượng, từ chính trong nội lực của sự vật.
Ví dụ: CNXH phủ định CNTB là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ
bản, khách quan, vốn có trong lịng xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hố của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu
sản xuất được biểu hiện về hoc thuyết khoa khọc ngày càng phát triển là kết quả
của quá trình phủ định của những tri thức đúng đắn, sâu sắc đối với những tri
thức sai lầm hoặc kém sâu sắc, không đầy đủ.
- Tính kế thừa:
Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái giữ lại trong đó những yếu tố tích cực
tiến bộ từ cái cũ cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự
thân phát triển trên cơ sở giải quyết những mâu thuẫn vốn có của các sự vật và
hiện tượng, cho nên cái mới ra đời không thể là một sự phủ định tuyệt đối, phủ
định, sạch trơn, đoạn tuyệt siêu hình đối với cái cũ, mà là một sự phủ định có kế
thừa. Để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm
trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái phủ định. Phủ định biện
chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với ý nghĩa như vậy, phủ định
đồng thời là khẳng định, diễn đạt tư tưởng đó, LêNin viết:
“Khơng phải sự phủ định sạch trơ, không phải sự phủ định không suy
nghĩ, không phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự, cũng không phải
sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà lại sự
phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự
duy trì cái khẳng định”.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trị của nó trong
sự ra đời của cái mất. Khơng có cái mới nào lại ra đời từ hư vô, nhờ việc giữ lại

4



nhân tố tích cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của
mình.
Cái q khứ không biến đổi đi mà không để lại một dấu vết nào trong
dịng chảy vơ tận của thời gian. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện
tại, nó tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình
thức quan trọng của cái được kế thừa trong đòi sống xã hội là truyền thống.
Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo
ra cái mới.
Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái phủ đinh được giữ lại, nó
vẫn được duy trì dưới lớp lọc bỏ. Thực chất của sự phát triển là sự biến đổi, mà
gia đoạn sau còn bảo tồn tất cả những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn
trước chẳng hạn trong khi phủ định. Chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ
lỗi thời chủ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển
tiến bộ xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, song, những yếu tố được giữ
lại đó cũng phải được cải tạo, đựơc biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ
nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố nội tại của CNXH.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản
tích cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc
khai thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại
có lúc có nơi lại phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết
đứng trên yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó
cho phủ hợp.
3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình để thấy nguyên
nhân, động lực của sự phát triển là gì.
Đối lập với quan điểm biện chứng, những người theo quan điểm siêu hình
coi phủ định là sự xố bỏ hồn tồn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự vận động,
sự phát triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình khơng thấy được
5



tiền đề của sự nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến kế thừa, thì họ lại hiểu
kế thừa một cách nguyên xi, không phê phán, không cải tiến cải tạo chúng hoặc
lắp ghép các yếu tố của cái cũ vào cái mới một cách đơn giản, máy móc.
Những người thuộc “Phái văn hố vơ sản” ở Nga đầu những năm cách
mạng có thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn hố
vơ sản khơng có liên quan gì với nền văn hoá trước họ chủ trương xây dựng lại
từ đầu nền văn hố mới của giai cấp vơ sản. Đây là quan điểm siêu hình xem
phát triển chỉ là sự phát triển tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lương, khơng có
sự thay đổi về chất. Tất cả tính mn vẽ về chất bất biến trong tồn bộ q trình
tồn tại của nó. Sự phát triển chỉ là thay đổi số lượng của từng loại đang có,
khơng có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy định mới về chất, có
thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vịng trịn khép kín.
Quan điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như là một
quá trình tiến lên liên tục, khơng có những bước quanh co phức tạp.
Như vậy, việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ
căn cứ để phân biệt một quan điểm biện chứng với một quan điểm siêu hình.
Điều chủ yếu để phân định hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển
diễn ra như thế nào. trong quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm
trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm đó, phát triển là một trường hộp đặc biệt của sự vận động.
Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất,
nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả
cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn
có của nó ngày càng hồn thiện hơn.
Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay
đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoay

6



trơn ốc, nghĩa là trong q trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm
xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
Với đặc điểm như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc
phục cái cũ, mà còn là gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ
định. Phủ định biện chứng trở thành vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát
triển.
II. TÍNH ĐẶC THÙ CỦA PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG VỚI ĐỔI MỚI TRONG LĨNH VỰC
KINH TẾ XÃ HỘI.

Nền kinh tế xã hội nào cũng có những khuyết tật, những mâu thuẫn tồn tại
trong lịng nó, và một xã hội mà luôn giữ một kiểu tổ chức sản xuất, phương thức
sản xuất thì chắc chắn sẽ khơng thể tiến lên được. Vì vậy nền sản xuất phải ln
được đổi mới phù hợp với phép phủ định biện chứng. Nền sản xuất lỗi thời,
khơng cịn năng động nữa sẽ được thay thế bởi nền sản xuất tiến bộ, năng động
và phát triển hơn phù hợp với thời đại.
Công cụ sản xuất bằng cơ khí ra đời thay thế cơng cụ sản xuất bằng lao
động thủ công là một tất yếu. Đến lượt nó sản xuất tự đồng hố ra đời thay thế
cơng cụ bằng cơ khí của q trình sản xuất cũng là một tất yếu. Nguyên nhân của
quá trình thay thế này là do những động lực tự thân của nền sản xuất xã hội quy
định, do những nhu cầu không ngừng biến đổi và phát triển của con người. Sự
thay thế đó khơng phải là vứt bỏ, phủ định sạch trơn phương thức sản xuất cũ mà
chúng vẫn đựơc giữ lại, tồn tại song song với phương thức sản xuất mới và trở
thành các ngành, các phương thức sản xuất truyền thống đôi khi chúng rất cần
đối với nền kinh tế của một số nước.

7


PHẦN II: PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI QUÁ

TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ VIỆT NAM
I. TÍNH KHÁCH QUAN TẤT YẾU CỦA SỰ RA ĐỜI NỀN KINH TẾ HH CÓ SỰ QUẢN
LÝ CỦA NHÀ NƯỚC, PHỦ ĐỊNH LẠI NỀN KINH TẾ TẬP TRUNG QUAN LIÊU BAO
CẤP ĐÃ KHƠNG CỊN PHÙ HỢP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT
NAM.

1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự
cung tự cấp ở Việt Nam.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất
nước ta bắt đầu xây dựng mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung dựa trên hình
thức sở hữu cơng cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nổ lực của nhân dân ta và sự
giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác mơ hình kinh tế kế hoạch hố đã phát
huy đựơc tính ưu việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng cơng
cụ kế hoạch hố Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất
quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra
phủ định, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội.
Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trị quan
trọng việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà
nước huy động ở mức độ cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sai giải phóng Miền Nam, bức tranh tồn cảnh về hiện trạng kinh
tế đã có nhiều thay đỏi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3
loại hình kinh tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế
hh. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục
chủ trương xây dựng kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ
kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện nền
kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách
mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu
8



của Nhà nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy
luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho
tình hình lưu thơng tiền tệ, giá cả bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu
thơng tiền tệ , giá cả khơng kiểm sốt được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm
phát của nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vơ cùng khó
khăn và tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất
kém phát triển được sự bảo hộ của Nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy
quản lý doanh nghiệp khơng hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và
khơng năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính sách bù lỗ của Nhà
nước ngày càng khơng đem lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào.
Đồng thời do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phủ hợp của cơ
chế quản lý kinh tế, chúng ta đã khơng quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên
sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm
trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường
bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những
việc đó gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp
nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nền,
thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như khơng có
vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80,
giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liều với lạm phát cao đã làm cho đời
sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập.
Ngun nhân sâu xa về sự xuy thoái nền kinh tế ở nước ta là do đã áp dụng dập
khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ
nước ngồi bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải
đổi mới. Đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên.
2. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan.

Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội
Đảng VI (1986) đã chủ chương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực
9


hiện hạch tốn kinh doanh XHCN. Đến Đại hơi Đảng VII Đảng ta xác
định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên
thực tế đã diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây
là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như
trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết
học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp với quy luật
phủ định của phủ định và xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì
khơng thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn
để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ được
thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế nhưng hiệu quả đạt được của nèn sản xuất xã hội rất thấp sản
xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng xã hội tích luỹ hầu như khơng có đơi
khi cịn ăn làm vào cả vón vay nước ngoài.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung cịn rất cứng nhắc nên nó
chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác
dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
q dài do đó nó khơng những khơng có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy
phát triển sản xuất mà nó cịn sản sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm
năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có rất
nhêìu ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là thị
trường mới hình thành cịn non yếu và là thị trường sơ khai. Thực tế thị trường
đã hình thành và phát triển được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các

đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông
suốt và vươn tới những vùng hẻo lánh xa xôi và đang được mở rộng với thị
trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu
hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị
trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà

10


nước cịn tất thấp, chưa có sự quản lý chặt chẽ sự hệ thống và liên kết các thị
trường một cách đồng bộ theo pháp luật.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta
đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch
vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước
ta gần gủi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại
hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển
kinh tế của mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự
cạnh tranh giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, khơng cịn là dân số
đơng, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiền lực kinh tế. Mục đích của các quốc
gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình đạt tốc độ phát
triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực
kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc là
công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
Vì vậy chúng cần phải đổi mới để phát triển kinh tế cũng như những mặt xã hội
khác để khẳng định vị trí của Đảng của dân tộc mình trên trường quốc tế.
Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường
không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và bản thân đời
sống kinh tế- xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô
nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác.

những tình trạng và hiện tượng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp
đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội
nói chung và của nền kinh tế hàng hố nói riêng, vì vậy, sự tác động của Nhà
nước một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan
vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng
nền kinh tế cơ chế kế hoạch hố tập trung, phủ định “bàn tay vơ hình” của thị
trường, cơ chế này đã có một vai trị lịch sử trong những năm 1950-1979 và đã
có tác dụng đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đáp ứng nhu cầu của
11


cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song cơ chế này đã
được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung ở mức cần thiết chuyển sang tập trung
cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và cản trở sự phát triển kinh tế
trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi thay đổi, đồng thời
nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu khách quan ra
đời thay thế cho cái cũ khơng cịn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần thứ IV
của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh
tế tư nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế
nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự
đổi mới cơ chế quản lý đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được
Đại hội VII Đảng khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước ”.
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam.

Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần
khiết XHCN, Nhà nước ta đã xây dựng mọt nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ
yếu mà không chú ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn
và không tuân theo những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó
đã là vật cản đối với sự phát triển kinh tế. Do đó nền kinh tế hàng hố nhiều
thành phần ra đừi mang tính khách quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn
tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế
hàng hố nhiều thành phần khơng có nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những gì
của nền kinh tế cũ mà là một sự chuyển đổi có tính chất kế thừa, trên cơ sở khắc
phục, sửa đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những mặt tốt, mặt tích
cực của nó, điều này được thể hiện như sau:

12


Trước hết đó là việc cơng nhấn sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác
bên cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các
thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tập thể,
thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân..... Như vậy mặc dù đã phủ định
loại bỏ những mặt yếu kém của nền kinh tế cũ nhưng nền kinh tế mới đã biết kế
thừa những yếu tố tích cực của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn
diện tốt hơn. Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể
vẫn giữ vai trò chủ đạo trong đường lối phát triển kinh tế. Những bước đổi mới
quan trọng của Đảng của Nhà nước là việc thừa nhận sự tồn tại của các thành
phần kinh tế khác như kinh tế ư bản tư nhân. Với sự chuyển đổi đó, phân cơng
lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hố chẳng những
khơng mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. bên

cạnh những ngành nghề mới ra đời và phát triển đó, những ngành nghề cổ truyền
có tiếng khơng chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị
cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ
từng khu vực, từng ngành, địa phương, phân cơng lao động ngày càng chi tiết
hơn. Điều đó được phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn
của sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chun mơn hố và hợp tác hoá
lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành quốc tế.
Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau
là sự đa dạng hố các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động
như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thhể của những người sản xuất
hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản
Nhà nước, Công ty cổ phần.
Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo
điều kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất và phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại.
Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về việc đa dạng hoá các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới ở
13


nước ta còn được thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy cơng cụ kế
hoạch hố một cách linh hoạt bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “bàn tay
hữu hình”. Nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc
hoàn toàn vào sự quản lý của Nhà nước đã chuyển sang nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần, tơn trọng những quy luật khách quan của thị trường như quy
luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... nhưng không phải để cho
những quy luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở đây có sự can thiệp
của Nhà nước. Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể kinh tế hoạt
động kinh doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể quản lý, bằng
những chính sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động của thị trường. Nhà

nước khơng cịn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu mà vấn đề
này sẽ được thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định
hướng, điều tiết trên cơ sở đưa ra các kế hoạch dài hạn.
Như vậy nền kinh tế mới khơng thổi phồng, tuyệt đối hố vai trị kinh tế
của Nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trị chủ thể kinh tế của các Cơng ty,
Xí nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế
của Nhà nước trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái
lại vịn vào việc xây dựng và phát triển vận động của các quy luật khách quan mà
lại bỏ vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước cũng không đúng. Ở Việt Nam hiện
nay để xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tức là một mặt phải tiếp tục củng cố lại
nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, mặt khác phải khơng ngừng
phát huy vai trị của Nhà nước, của Đảng, luôn bảo đảm niềm tin của người lao
động.
Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Việc bổ sung
pháp luật tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá, về giá, tỷ giá, tài
chính, Ngân hàng, lao động, tiền cơng, đất đai... đang tạo môi trường thuận lợi
cho các doanh nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm trong
sản xuất kinh doanh.

14


3. Những thành tựu của công cuộc đổi mới.
Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã
đạt giải quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như:
- Thúc đẩy quá trình xã hội hố sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân
công lao động, chuyên môn sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ
kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo

tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá
sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc
người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng
suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp
với nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hố mới
thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng .... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển gắn sản xuất với thị trường.
- Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giai lưu kinh tế
trong nước và hoà nhập nền kinh tế thế giới.
- Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất
khép kín với kìm hãm sự phát triển cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế
phát triển ở trình độ cao thực hiện với hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta sau cơng cuộc đổi mới khơng những
vững mà cịn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục nhiều mặt đình đốn,
suy thối, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục, điển hình là: Lạm phát được đẩy lùi
từ 67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Đến nay lạm
phát của nước ta chỉ còn 0,1%. Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng
năm 7,2%. Sản xuất Nơng nghiệp phát triển tương đối tồn diện, vấn đề lương
thực được giải quyết tốt, sản lượng lương thực năm 1993 xấp xỉ 25 triệu tấn,
vượt mức đề ra trong năm 1995. Hiện nay, nước ta đã vươn lên là nước xuất
khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng
bình quân hàng năm 13% cao hơn chỉ tiêu đề ra cho kế hoạch. Năng lực sản xuất
một số ngành và sản phẩm quan trọng như: điện, dầu, dầu thô, thép, xi măng ....
được tăng thêm. Hệ thống thông tin liên lạc mở rộng nhanh với thiết bị công
15


nghệ mới. Các ngành xây dựng, vận tải, thương nghiệp dịch vụ khác đều phát
triển. Cơ cấu kinh tế đang biến đổi, một số ngành sản xuất kinh doanh mới xuất

hiện. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa
phương hoá. Đã khắc phục được hầu hết hậu quả do thị trường truyền thống bị
giảm sút đột ngột: mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàng mới, tăng kim ngạch
xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 20%. Tính đến năm 1993 đã cấp 836 giấy phép đầu
tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 7,5 tỷ USD nhưng tới năm 1996
đã cấp 16454 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đã là 21,8 tỷ
USD, bước đầu thu hút thêm viện trợ phát triển và vốn vay ưu đãi từ các Chính
phủ: lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc gia.
Tuy vậy theo nhận định của Đảng ta thì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
đang trong gia đoạn hình thành, các doanh nghiệp Nhà nước bước đầu được sắp
xếp và đăng ký lại. Đã giảm bớt một số lượng lớn những doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ kéo dài. Số đơn vị kinh doanh có hiệu quả tăng lên. Khu vực kinh tế Nhà
nước nhìn chung vẫn phát triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ
đạo trong nền kinh tế quốc doanh, tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên
39,9% năm 1992. Hợp tác xã Nơng nghiệp có phương hướng đổi mới rõ hơn kể
từ đại hội Trung ương Vi vai trò tự chủ của các hộ nông dân được khẳng định.
Một số loại hình kinh tế hợp tác xã mới xuất hiện. Luật đất đai chính thức giao
quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho dân. Đã giúp kinh tế hộ nơng dân
có thêm động lực phát triển mới. Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân phát
triển đáng kể. Doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn đầu tư thuộc
nhiều hình thức sở hữu xuất hiện ngày càng nhiều.

16


PHẦN III: XU HƯỚNG CỦA NỀN KINH TẾ VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP
Tại đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đối với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”

Định hướng XHCN là sự lựa chọn về mục tiêu, con đường tiến lên CNXH
của một quốc gia, dân tộc dựa trên những điều kiện khách quan cho phép và bao
hàm một nội dung kinh tế, chính trị xã hội rộng lớn (Liên hệ định hướng XHCN
nhìn từ góc độ triết học – tạp chí triết học số 4 (116) tháng 8-2000 trang 62)
Như vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có đặc
điểm mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, nền kinh tế ấy lấy
các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy
kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh
xã hội công bằng văn minh làm mục tiêu.
Muốn vậy nền kinh tế ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định
- Lấy việc giải phóng sức lao động làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ
cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu
- Làm cho nền kinh tế Nhà nước phát triển trước hết về chất để nắm vai trò
chủ đạo kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng.
- Xác định và cũng cố nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong
nền kinh tế thị trường, giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với
sự tăng trưởng kinh tế.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối:
Do đó để thực hiện chủ trương của Đảng đề ra: “Phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN cần có các giải pháp thực hiện”.

17


CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
Theo phương diện triết học khi chuyển đổi sang nền kinh tế cơ chế thị
trường với ự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, để đạt được một
nền kinh tế vững mạnh thì trước hết phải tìm ra con đường nhanh nhất để thực
hiện đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng

XHCN.
- Đẩy mạnh cách mạng khoa khọc – công nghệ nhằm phát triển nền kinh
tế theo hướng cơng nghiệp hố , hiện đại hố. Đảng ta đã xác định muốn phát
triển kinh tế thì phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ vào
sản xuất và lưu thông, đảm bảo cho nền kinh tế hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên
thị trường.
- Nhà nước cần chỉ đạo xây dựng đúng đắn quy hoạch phát triển kinh tế –
xã hội của các vùng, các tỉnh trở thành vùng, tỉnh khá giàu có. ưu tiên tập trung
đầu tư ngân sách Nhà nước đ phát triển nhanh kinh tế xã hội của các tình khó
khăn theo quy hoạch phát triển đã được duyệt.
- Mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm
vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng cơng nghiệp hố,
hiện đại hố phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chun mơn hố,
hợp tác hố, lao động cơng nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Ta phải đa dạng hố hình thức, đa
phương hố đối tác phải qn triệt ngun tắc đơi bên cùng có lợi. Phải triệt để
khai thác lợi thế của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế nhằm khai thác tiềm
năng lao động, tài nguyên thiên nhiên của đất nước, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi phù
hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh
nghiệp Nhà nước.
18


- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần coi đây là điều
kiện cơ sở, để thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển nhờ đó mà sử dụng có hiệu
quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế huy động những tiềm năng to
lớn còn bị phân tán của xã hội và phát triển sản xuất.

- Giữ vững ổn định chính trị hồn thiện về hệ thống pháp luật đổi mới các
chính sách tài chính tiền tệ, giá cả.
Q trình vận động của lịch sử nhân loại chỉ thấy mặt lý luận, mặt tư
tưởng khoa khọc hoặc đường lối hay mãi mãi chỉ là lý thuyết tồn tại trên giấy tờ
nếu chúng không được thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, thành cơ chế
chính sách của Nhà nước chỉ có bằng sức mạnh của hiện pháp, pháp luật chính
sách của Nhà nước, định hướng XHCN mới có thể đi vào cuộc sống nhờ đó các
năng lực sản xuất hiện có trong xã hội ta mới được giải phóng, được cởi bỏ
những xiềng xích của chế độ cũ, những tập quán, lề lối làm ăn, lạc hậu. Nhờ đó
chúng ta mới lập được nền kinh tế thị trường đồng bộ, mới có khả năng khai thác
được các lợi thế cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp điệu nhanh
mạnh và vững chắc.

19


KẾT LUẬN
Khi xem xét sự phát triển có một vấn đề được đặt ra là sự phát triển diễn
ra theo chiều hướng nào? Quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mác đã mang
lại câu trả lời cho vấn đề trên ở chỗ: Từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự ra đời đó là một mắt xích trong sợi
dây xích phát triển và là kết quả của sự phủ định cái cũ, cái lỗi thời trên cơ sở kế
thừa, lặp lại nhưng khơng quay trở lại mà có tính chất tiến lên của sự phát triển.
Nhìn vào quá trình phát triển nền kinh tế nước ta, chúng ta thấy việc
chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan phù
hợp với quy luật phát triển. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, chúng ta đã
xoá bỏ và khắc phục được những khuyết, hạn chế của nền kinh tế mới phù hợp
với xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới. Đây là bước phát triển

cao hơn so với nền kinh tế cũ nhưng chúng ta cần phải nhận thức sâu sắc rằng
đây không phải là sự phát triển cao nhất bởi mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại
trong lịng nó những mâu thuẫn, và cái mới sẽ ra đời để thay thế cái cũ. Chính vì
vậy mà trên con đường phát triển kinh tế của mình, chúng ta ln phải nghiên
cứu tìm tịi ra những giải pháp nhằm đạt được những bước phát triển cao hơn.

20



×