Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Lý thuyết, thực trạng nợ công của Việt Nam hiện nay và giải pháp 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.5 KB, 21 trang )

ĐH KINH TẾ QUỐC DÂN
KINH TẾ PHÁT TRIỂN

→ Nhóm

3 ←

Diễn biến tác động và mức độ an toàn
nợ công ở Việt Nam.


1.

Lí luận chung về nợ công ở Việt Nam

A.

Nợ công là gì?

Theo nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của
Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và
các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước quyết định hay
trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước phải trả
nợ thay).
Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương, các cấp
chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo lãnh
thanh toán.
Theo pháp luật Việt Nam, nợ công có thể hiểu là khoản nợ do các cơ quan nhà
nước vay trong và ngoài nước nhằm trang trải các khoản chi tiêu theo luật định và
góp phần thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Việc vay nợ là hình thức huy động vốn cho phát triển khá phổ biến của các quốc gia


trên thế giới.
Có thể khẳng định nếu một quốc gia quản lý nợ công không tốt, để xảy ra khủng
hoảng nợ công thì quốc gia đó sẽ bị hy sinh một phần chủ quyền của mình vào tay
các chủ nợ.


B.

Phân loại nợ công :
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm
là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
-

Nợ Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền
tệ trong từng thời kỳ.

-

Nợ được Chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.

-

Nợ chính quyền địa phương: là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành
hoặc uỷ quyền phát hành.


C.

Đặc trưng nợ công ở Việt Nam:

- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước.

Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà
Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản
nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và
gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và
do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ
Việt Nam hoặc chính quyền địa phương). Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà


nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường
hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra
bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước
ngoài).

- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của
cơ quan nhà nước có thẩm quyềrn.
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích: một là,
đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán
cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được những mục tiêu
của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn
có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và xã hội.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước
quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến
việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.


- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích chung.
Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của
bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất
của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân,
do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên
lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải coi
đó là điều kiện quan trọng nhất.


D.

Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công.



Cân bằng ngân sách cơ bản: Thâm hụt nhỏ thì những khoản vay sẽ giảm đi và
ngược lại.



Lãi suất thực tế: Khi lãi suất tăng lên : các khoản vay của chính phủ sẽ trở nên
đắt hơn và khó khăn hơn. Nếu không có kế hoạch vay nợ rõ rang thì sẽ không
đảm bảo vay nợ đúng thời hạn để đáp ứng nhu cầu đầu tư cho Chính phủ, làm
ảnh hưởng đến sự bền vững của chính sách tài khoá.



Tốc độ tăng trưởng thực tế: Nền kinh tế càng phát triển thì khoản vay của

Chính phủ sẽ dễ dàng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng chậm. Ngoài ra,khi kinh
tế tăng trưởng chậm, người dân cũng như Doanh nghiệp thắt chặt chi tiêu hơn,
việc tích lũy ít đi và nguồn vay của Chính phủ sẽ giảm đáng kể.Còn có thể đi
kèm với lạm phát và thất nghiệp, lúc này những khoản trả nợ vay đến hạn phải
cấp bù lạm phát.



Lãi suất ngoại tệ: Lãi suất ngoại tệ thực tế tăng lên thì khoản vay của CP sẽ tở
lên đắt hơn và ngựoc lại.



Tỷ giá thực tế: Ảnh hưởng đến những khoản vay và trả đối với nợ công khi có
những khoản vay nợ nứoc ngoài. Nếu tỷ giá tăng thì khoản nợ vay đến hạn sẽ
tăng và ngược lại. Còn khi vay nợ thì tỷ giá tăng đối với khoản vay nợ sẽ có lợi
hơn khi tỷ giá giảm.

E.

Những tác động cơ bản của nợ công đối với nền kinh
tế:
Nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có một số tác động tiêu cực.

Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế


mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản
lý nợ công.



Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:


Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường
nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ
của Nhà nước. Việt Nam đang trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là
yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh
chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy
động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để
đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.



Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi
trong dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm,
thông qua việc Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được
đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu
vực tư.



Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài
chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế ngoại giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến
các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu
Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn
vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích
nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước.




Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những
tác động tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ,
đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà


nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng
phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý
nợ công.

2.

Thực trạng nợ công ở Việt Nam.

Thực hiện chiến lược huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, trong nhiều
năm qua Chính phủ, một số Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các doanh nghiệp được chính
phủ bảo lãnh đã tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước thông qua hình
thức vay nợ công. Các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới đã làm nóng lên tình
hình nợ công trong nước, trong đó có ba vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là quy mô,
tính an toàn và tài trợ nợ công.

Cơ cấu nợ công.
Theo khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm
tất cả các khoản nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền
địa phương. Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010 gồm nợ chính phủ
chiếm 78,1%, còn lại là nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa
phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 61,9%; nợ trong nước chiếm
38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm 2009, nợ

công của Việt Nam gồm nợ chính phủ chiếm 79,2%, nợ được chính phủ bảo
lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm 3,1%; trong nợ chính
phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%,trong đó có 85% là ODA.


Bảng 1: Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010.
Đơn vị

Nợ
chính phủ

2006

2007

2008

2009

2010

Bình
quân

Tỷ USD 23,7

24,1

31,2


37,8

45,3

32,4

%GDP

39,0

33,8

36,5

40,4

44,6

38,9

% Nợ

85,0

68,0

76,2

79,2


82,1

78,1

14,6

17,3

18,9

23,9

25,1*

20

61,6

71,6

60,7

60,0

55,4%** 61,9

% GDP 26,7

28,3


25,1

29,3

N/A

% Nợ

56,9

52,4

57,5

N/A

công

Nợ nước

Tỷ

ngoài của

USD

chính phủ
% Nợ
chính
phủ

Nợ nước
ngoài của
khu vực
công

58,2

công

Nguồn: Bộ Tài Chính, Bản tin nợ nước ngoài số 6


Bảng 2: Số liệu nợ công ở Việt Nam từ năm 2007-2012
Năm

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Tổng
Nợ
công


19,252.56

21,816.50

27,928.67

58,913.07

66,391.18

77,480.98

Quy mô nợ công.

Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là
11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp
xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD,
tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có
mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy
mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm
(Biểu đồ 1). Nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm
2016, nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên
EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen
(129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối với một nền
kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm
nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.


Biểu đồ 3: Tình hình nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam từ năm

2006-2010

Giai đoạn từ 2006 - 2012, xu hướng vốn vay nợ công tăng: năm 2006 là 91.757 tỷ
đồng (22,7%) đến năm 2012 là 989.300 tỷ đồng (41,1%); riêng năm 2008, do ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế nên nợ công xuống thấp (23,7%). Đa phần vốn vay nợ
công chiếm một tỷ lệ rất quan trọng trong vốn vay đầu tư phát triển.

Về phân bổ, sử dụng vốn vay:


Chúng ta vay để bù đắp bội chi ngân sách. Tỷ lệ bình quân bội chi ngân sách




tính cả giai đoạn 2006 - 2012 là 5%.
Vay để đầu tư từ TPCP cho y tế, giáo dục, giao thông, thủy lợi...
Vay để cho vay lại, chủ yếu đối với các công trình trọng điểm quốc gia đang
cần huy động vốn; trong đó nguồn vay này chủ yếu từ nguồn vốn ODA.


Về thực hiện nghĩa vụ trả nợ công giai đoạn 2006 - 2012:
Con số trả nợ cho Chính phủ là rất cao (từ 42.440 tỷ đồng/2006 - 108.186 tỷ
đồng/2012). Tỷ lệ bình quân trả nợ Chính phủ, thu NSNN chiếm khoảng 15%.

Về thực trạng nợ công giai đoạn 2006 - 2012:
Nếu tính chỉ số nợ công/ GDP thì giai đoạn 2006 — 2012 nợ công đã tăng
đáng kề, từ 41,5% (404.556 tỷ đồng) năm 2006 lên 55,6% (1.641.296 tỷ đồng)
năm 2012.


Về cơ cấu dư nợ công:
Tính đến 31/12/2012 thì nợ Chính phủ chiếm 77,6%, nợ Chính phủ bảo lãnh
chiếm 20,9% và nợ chính quyền địa phương chiếm 1,5%.
Nợ công ở nước ta chủ yếu được vay bằng Việt Nam đồng, đồng yên, đồng
đô la, điều này cũng đồng nghĩa với việc rủi ro về tỷ giá, lãi suất. Vay nước ngoài
lớn nhất chủ yếu là vay Nhật Bản 17%;
Vay World Bank (WB) thông qua nguồn vốn đặc biệt 13%.
Vay của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) 8%. Vay trong nước thì chủ yếu
là đầu tư trái phiếu 28%, bảo hiểm xã hội 5%, vay tạm ứng tồn ngân kho bạc
9%, vay khác là 20%.
Như vậy, cơ cấu dư nợ công chia theo chủ nợ thì sẽ liên quan nhiều tới tỷ giá,
lãi suất.

Nợ công nhìn dưới góc độ chỉ số tín nhiệm quốc gia:
Nợ công của Việt Nam bắt đầu tham gia vào bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia
từ năm 2005. Giai đoạn 2005 - 2007, chúng ta đã thăng hạng, từ 2007 - 2011 đi
xuống và năm 2011 - 2012 lại đi lên. Chỉ số xếp hạng quốc gia đánh giá thực
trạng khả năng trả nợ quốc gia và đánh giá mức độ uy tín quốc gia. Nếu được
xếp hạng cao, chúng ta sẽ đi vay trên thị trường quốc tế với lãi suất và chi phí
thấp hơn. Mức nợ công của Việt Nam hiện nay theo đánh giá của các tổ chức
Moody’s, S&P, Fitch đều ở mức ổn định. Nếu so sánh với các nước trong khu
vực như Indonesia, Philippin, Mông Cổ, Sri Lanka, thì chỉ số tín nhiệm của chúng
ta cao hơn.


Những kết quả đạt được.
Đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và cân đối NSNN.
Nợ công giai đoạn 2006 - 2012 là 23%, bù đắp bội chi NSNN khoảng 5% GDP.
Ngoài ra, nhiều dự án cơ sở hạ tầng, các chương trình xóa đói giảm nghèo, cải
thiện môi trường, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, các dự án tăng trọng quốc

gia... đều được đầu tư bằng nguồn vốn vay công.
Các chỉ số nợ công hiện nay nếu theo chiến lược dài hạn và chương trình nợ
công trung hạn thì đang trong giới hạn an toàn.
Các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và
ưu đãi; Chẳng hạn như các dự án của WB hay ADB thường khoảng 20 - 30
năm, thậm chí có dự án 40 năm; thời gian ngắn hạn từ 5 đến 10 năm; lãi suất 11
- 12%. Thực tế khoảng 80% khoản vay của chúng ta là khoản vay ưu đãi nên áp
lực nợ công không lớn lắm và có thể nói là nằm trong tầm kiểm soát được.
Cơ cấu đồng tiền vay đa dạng; đặc biệt những năm gần đây tỷ giá đồng Việt
Nam và đồng đô la tương đối ổn định; Nhật Bản nới lỏng chính sách tiền tệ nên
đồng yên yếu đi, chúng ta sẽ có lợi rất nhiều trong chính sách tỷ giá, giảm thiểu
rủi ro.
Xu hướng giảm tỷ trọng nước ngoài trong cơ cấu Chính phủ với tiêu chí: tỷ
trọng hàng năm là nợ trong nước tăng lên và nợ nước ngoài giảm đi.
Hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, linh hoạt: không chỉ vay từ các tổ
chức tài chính mà hiện nay vay rất nhiều từ các dịch vụ phái sinh và các văn
phòng tài chính khác.
Thể chế chính sách dần được hoàn thiện, công tác quản lý nợ ngày càng tốt
hơn và tiếp cận được thông lệ quốc tế.

Những hạn chế cơ bản:
Trong tình trạng lạm phát toàn cầu đang gia tăng, nguy cơ bùng nổ một cuộc
chiến về tiền tệ trên thế giới thì quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề
đáng quan tâm hàng đầu tại Việt Nam. Vấn đề nợ công của Việt Nam mặc dù
được đánh giá là an toàn nhưng cũng đang tiềm ẩn hàng loạt các mối lo ngại từ


quy mô, đến tính an toàn và khả năng tài trợ nợ công. Rõ ràng, nợ công ở Việt
Nam đang tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh
niên, đầu tư không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất tăng cao khiến

cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ và tạo áp lực tín dụng dài hạn.
Cụ thể, các rủi ro và yếu kém trong việc sử dụng và quản lý nợ công có thể
được nhắc tới bao gồm:

Nợ công của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh.
Cả nợ trong nước và nợ nước ngoài tang nhanh với mức bình quân 57%GDP/năm. Bản tin nợ nước ngoài của Bộ Tài chính cho thấy gánh nặng nợ
nước ngoài đang ra tăng liên tục cả về quy mô nợ, nợ phải trả, và điều kiện nợ.
Tỷ lệ nợ công Việt Nam hiện chiếm 55,7% GDP năm 2012, mặc dù tỷ lệ nợ này
vẫn nằm trong tầm kiểm soát (dưới 60% GDP theo cách tính chỉ tiêu tỷ lệ nợ
công/GDP của Liên hợp quốc) nhưng quá cao so với mức phổ biến ở các nền
kinh tế đang phát triển (từ 30% – 40% GDP) và so với một số nền kinh tế mới
nổi như Trung Quốc (17,4% GDP), Inđônêxia (25,6% GDP). Mức nợ công tính
trên đầu người của Việt Nam tăng từ 638,55 USD (năm 2011), lên 698,71 USD
(năm 2012) vẫn thấp hơn so với 817,22 USD (Trung Quốc), 808,52 USD
(Inđônêxia), 4.626,4 USD (Malaixia), 1.195,29 USD (Philippin), 2.261.78 USD
(Thái Lan). Nhưng so với mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam xấp
xỉ 112 USD (năm 2001) thì mức nợ công đã tăng gấp 6 lần trong một thập kỷ
(2001 – 2011). Theo đánh giá của CIA World Factbook, nợ công Việt Nam đứng
ở vị trí 41/50 quốc gia có tỷ lợ nợ công trên đầu người cao nhất thế giới (năm
2011). Gánh nặng nợ/đầu người đang ngày càng gia tăng. Theo ước tính với tốc
độ tăng nợ công như hiện nay thì sau 5 năm, nợ công Việt Nam sẽ vượt quá
100% GDP và có thể xảy ra khủng hoảng nợ công.

Tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn:
Tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN và nguồn vốn
trái phiếu Chính phủ diễn ra khá thường xuyên. Tình trạng dự án, công trình thi
công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục.
Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động
của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư
dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý

dự án đầu tư.


Nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững đó là nợ công ngày hôm
nay phải được trả bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Nhưng thực tế tại Việt
Nam, thâm hụt ngân sách đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa
ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, đe dọa đến tính bền vững của
nợ công.
Trong thời gian qua, lãi suất và tỷ giá liên tục biến động theo hướng tiền đồng
Việt Nam bị mất giá nên đã tạo ra áp lực lãi suất đối với nợ trong nước và áp lực
tỷ giá đối với nợ nước ngoài. Trong tương lai, các nguồn vay ưu đãi sẽ giảm
dần, chi phí vay nợ sẽ tăng lên do Việt Nam đạt ngưỡng nước cho thu nhập
trung bình. Bên cạnh các khó khăn nội tại, Việt Nam cũng giống như các quốc
gia khác trên thế giới, chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tiền
đồng Việt Nam bắt đầu mất giá so với các đồng tiền có sức mạnh khác điều này
vô hình chung đẩy giá trị các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam lên cao. Song
song với đó, giới đầu tư đã không còn coi Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn
như trước nữa. Mặc dù việc tiền đồng mất giá có thể gia tăng xuất khẩu và cán
cân thương mại, nhưng tác động tích này không nhiều do Việt Nam chỉ xuất
khẩu những hàng hóa thô với giá cả thấp.
Khả năng so sánh và giám sát quốc tế về độ an toàn nợ thông qua các chỉ số
giám sát của Việt Nam thấp do hạch toán NSNN chưa được chuẩn hóa và công
khai. Có sự chênh lệch khá lớn về Tỷ lệ nợ công/GDP của Bộ Tài chính và các
tổ chức tài chính quốc tế. Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy vì chúng ta đã bỏ sót
2 tiêu chí tương đối quan trọng là lương hưu và không thống kế hết các khoản
vay được chính phủ bảo lãnh khi thống kê nợ công. Ngoài các khoản thu đưa
vào ngân sách, còn một số khoản thu và hơn 20 quỹ ngoài ngân sách thực hiện
các chức năng của chính phủ trong các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, thực
hiện chính sách xã hội, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước,… Những khoản chi
ngoài NSNN đều không được tính vào ngân sách tổng hợp hoặc trong các tính

toán thâm hụt NSNN. Việc chưa tập trung thống nhất thu chi của tất cả các
khoản thu chi công ở một đầu mối cho thấy nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với
GDP thì chưa thấy đầy đủ quy mô cũng như sự mở rộng của chi tiêu công.
Ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng lớn trái phiếu Chính phủ phát hành
để đầu tưcác công trình giao thông và thủy lợi, công trái giáo dục được phát
hành để đầu tưkiên cố hóa trường lớp học đã để ngoài cân đối NSNN. Nếu cộng
tất cả các loại trên vào cân đối, thì bội chi trong những năm qua không phải chỉ
là 5% GDP. Tính cảtrái phiếu Chính phủ thì bội chi ngân sách lên tới 9,7% GDP
và 8,7% GDP trong hai năm 2009 và 2010. Việc thống kê ngân sách chưa chuẩn
xác dẫn đến rất khó tính toán chính xác các chỉ tiêu tài chính quan trọng như
thâm hụt ngân sách hay ngưỡng nợ công.


Thông tin về nợ công không minh bạch.
Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã bước đầu có những thông tin công khai về nợ
công. Trong nợ công cũng mới chỉ quan tâm đến nợ chính phủ nên khó có thể
thấy được toàn cảnh vấn đề tài chính công và nợ công vì khu vực Nhà nước là
rất lớn và Chính phủ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với khu vực này. Thực trạng
này dẫn đến việc khó kiểm soát chính xác quy mô, tính chất của các khoản nợ.
Thông tin không minh bạch làm cho các tổ chức đánh giá tín dụng quốc tế không
có căn cứ để đánh giá thực chất tình hình tài khóa của quốc gia đi vay nợ, dẫn
đến đánh giá không chính xác, quốc gia vay nợ cũng sẽ phải chịu mức chi phí
vay nợ cao. Các bằng chứng cho thấy, các nước có tài khóa minh bạch cũng có
chi phí đi vay thấp hơn bởi vì thị trường có được bức tranh chuẩn xác hơn về
các nguy cơ tài khóa. Hệ số rủi ro xếp hạng tín dụng của Việt Nam còn ở mức
cao, lại thêm thanhkhoản thấp, nên khi đi vay bao giờ cũng phải vay với lãi suất
cao. Trong khi đó, Inđônêxia và Philippin có hệ số rủi ro tương đương Việt Nam
nhưng họ vẫn được ưu đãi hơn khi đi vay nhờ tính thanh khoản cao hơn và tích
cực hơn trong hợp tác quốc tế. Sự không minh bạch trong số liệu về nợ công
dẫn tới việc không hình thành được cơ chế cảnh báo sớm, hoặc nếu xây dựng

được thì cũng sẽ đưa ra các cảnh báo thiếu chính xác. Thực tế này dẫn đến
nguy cơ nếu xảy ra khủng hoảng nợ thì cuộc khủng hoảng sẽ đến rất đột ngột,
khả năng ứng phó khó kịp thời.
Việt Nam mới chỉ quan tâm quản lý nợ bắt buộc, trực tiếp mà chưa quan tâm
tới nợ ẩn. Các nghĩa vụ nợ thường được phân loại thành nợ bắt buộc trực tiếp,
nợbắt buộc gián tiếp (hay nợ bắt buộc bất thường), nợ ẩn trực tiếp, nợ ẩn gián
tiếp (nợ ẩn bất thường). Nợ ẩn trực tiếp là khoản nợ mà việc hình thành nó phụ
thuộc vào các quyết định chính sách của Nhà nước. Chẳng hạn, nếu trong
tương lai, Chính phủ thực hiện điều chỉnh chính sách lương hưu hoặc các
chương trình bảo hiểm xã hội, tài trợ cho các chương trình y tế thì sẽ hình thành
các khoản nợ của Chính phủ. Ngoài ra nợ ẩn trực tiếp còn bao gồm chi phí
thường xuyên trong tương lai của các khoản đầu tư công. Nợ ẩn gián tiếp các
loại nợ mà nghĩa vụ nợ không được bảo lãnh của chính quyền địa phương, tổ
chức thuộc Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước, nợ phát sinh từ việc giải
quyết các nghĩa vụ của Nhà nước khi tư nhân hóa, giải quyết vấn đề phá sản
của các ngân hàng, phá sản của các quỹ lương hưu không có bản lãnh hoặc các
quỹ bảo hiểm xã hội khác, các khoản chi khắc phục môi trường, khôi phục sau
thảm họa thiên nhiên. Các khoản nợ này chính phủ không có nghĩa vụ phải trả
nợ mà phụ thuộc vào quyết định can thiệp, hỗ trợ chính phủ. Nếu Chính phủ
thấy cần thiết phải trả nợ thay để giúp hệ thống ngân hàng khỏi bị đổ vỡ thì khi
đó các khoản nợ tư nhân trở thành nợ chính phủ.


Cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế, chẳng hạn như trường hợp của Vinashin,
Vinaline... là một bài học lớn cho chúng ta.

Quyền hạn của các cơ quan còn chồng chéo, phân tán.
Chẳng hạn, đối với cấp Bộ, ngành: Theo Luật Ọuản lý nợ công thì Bộ Tài chính
(BTC) giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về nợ công (bao gồm tất cả
các khâu từ xây dựng mục tiêu, định hướng huy dộng, quản lý và sử dụng vốn

vay và quản lý nợ công) nhưng trên thực tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại được
Chính phù giao cho việc huy động vốn ODA và vốn đô la. Tuy nhiên khâu huy
động lại không gắn kết với nguồn trả nợ, không gắn với mục đích sử dụng... Mặt
khác, BTC là đơn vị chủ trì xây dựng hạn mức vay nước ngoài, bao gồm cả hạn
mức tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhưng điều hành cụ thể lại do NHNN. Như
vậy, rõ ràng từ kênh huy động, trả nợ, sử dụng vẫn còn chưa thống nhất với
nhau.
Nói chung, các loại nợ ẩn rất khó dự tính, không ổn định và thường có quy mô
lớn hơn rất nhiều so với nợ bắt buộc. Trong khi đó, ở Việt Nam một số rủi ro thị
trường chưa được tính toán đo lường chính xác. Rủi ro tín dụng chưa được
phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ. Quy mô của các
khoản nợ ẩn, nợ bất thường còn chưa được xác định rõ, nhưng có thể ước đoán
rằng đó sẽ là con số không nhỏ. Nợ của doanh nghiệp Nhà nước và hệ thống
ngân hàng có nguy cơ tạo nên rủi ro đối với an toàn nợ.
Tính đến nay, nợ xấu trong các ngân hàng là gần 300.000 tỷ đồng, nợ của
DNNN khoảng 1,3 triệu tỷ đồng. Nợ xấu cho vay bất động sản khoảng 5% tổng
nợ xấu của hệ thống ngân hàng, trong khi thị trường này đang dư thừa nguồn
cung rất lớn. Theo số liệu của Bộ xây dựng, đến cuối năm 2012, cả nước tồn
kho hơn 42.000 nhà ở gồm căn hộ và nhà thấp tầng, 92.800 m2 sàn văn phòng
cho thuê, đất nền nhà ở tồn kho gần 800 ha, ước tính giá trị tồn kho ước khoảng
112.000 tỷ đồng. Số liệu tồn kho này chưa phản ánh đúng tình hình thực tế do
nhiều dự án tồn kho nhưng chưa báo cáo, nhiều dự án đã giải phóng mặt bằng,
đầu tư kinh phí xây dựng hạ tầng nhưng chưa tiếp tục triển khai được, nhiều loại
bất động sản được các nhà đầu tư thứ phát mua nhưng không bán được. Điều
đó cho thấy, rủi ro đối với nợ bất thường của Việt Nam có thể cao mặc dù cho
đến nay chưa có đủ số liệu tin cậy để có thể xác định rõ quy mô nợ. Khi có cú
sốc phá sản của các khu vực này thì nợ Chính phủ có thể sẽ tăng lên rất nhanh.
Điều đáng quan ngại là, mặc dù khá nỗ lực, nhưng Chính phủ chưa thu thập
được các số liệu tin cậy để có thể ước tính được giá trị của các khoản nợ ẩn
này. Nhiều khoản chi tiêu không thông qua quy trình phê duyệt ngân sách của cơ

quan lập pháp. Cơ quan hành pháp các cấp vẫn có nhiều thẩm quyền trong việc
quyết định nhiều khoản chi tiêu, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển. Các khoản


chi không thông qua ngân sách phê duyệt nhưng vẫn được thực hiện sẽ là
khoản nợ ẩn mà NSNN sẽ phải gánh trả trong tương lai, nhưng nguy hiểm là các
khoản nợ này bị qua trong quá trình xác định giá trị nợ công. Bên cạnh đó, việc
phân cấp quá rộng, đồng thời thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ dẫn đến tình
trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng cân đối vốn NSNN và vốn trái
phiếu Chính phủ, thời gian thi công kéo dài, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng
năm, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực của nhà nước.
Giá trị các khoản tiền Nhà nước nợ các doanh nghiệp ứng trước vốn đầu tư xây
dựng cơ bản cũng đã đến mức báo động. Năm 2011, tổng số nợ vốn đầu tư của
63 tỉnh, thành phố là 91.273 tỷ đồng của 47.209 dự án; trong đó, nợ vốn xây
dựng cơ bản hoàn thành là 25.423 tỷ đồng; nợ vốn xây dựng cơ bản của 20.921
dự án đang triển khai, nợ 41 dự án giãn tiến độ với tổng số vốn là 38.320 tỷ
đồng. Với các khoản nợ này, rất nhiều doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó
khăn. Nhu cầu trang trải các khoản nợ ngoài cân đối vốn ngân sách trở thành
gánh nặng lớn với ngân sách và đe dọa tính bền vững tài khóa.

Nợ công của chúng ta ở mức an toàn hay báo động?
Hiện trên thế giới chưa có tiêu chuẩn chung nào về ngưỡng an toàn đối với nợ
công.
Nguyên tắc xác định chỉ tiêu an toàn nợ công thường dựa trên: Cơ sở đánh giá
thực trạng nợ; Tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài khoá, tiền tệ; Nhu cầu về
vốn đầu tư phát triển; Hệ số tín nhiệm của quốc gia; Tham khảo khuyến nghị của
IMFAVB về ngưỡng an toàn nợ nước ngoài theo phân loại chất lượng khuôn khổ
thể chế và chính sách.
Khu vực đồng tiền chung Châu Âu thì có hạn mức trần nợ công áp dụng chung
cho tất cả các nước trong khối là dưới 60% GDP; Thâm hụt ngân sách dưới 3%

GDP.
Theo Quyết định số 958/QĐ- TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn
đến 2030, chỉ tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam như sau:


Nợ công đến nám 2020 không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không
quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; nghĩa vụ
trả nợ trực tiếp Chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng thu NSNN hàng
năm dưới 25% giá trị XK hàng hóa và dịch vụ; tỷ lệ dự trữ ngoại hối nhà nước so
với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%. Như vậy Việt Nam
được đánh giá là có mức nợ năm trong tầm kiểm soát và không nằm trong nhóm
các nước có gánh nặng về nợ (HIPCs). Nợ Việt Nam đã giảm nhiều nếu so sánh
tỷ lệ nợ với GDP: Đã xử lý giảm nợ thành công qua Câu lạc bộ Paris, Luân Đôn.
Tỷ lệ nợ nước ngoài năm 1993 là gần 150% GDP về còn 42,2% GDP năm 2010
và 54,9% GDP năm 2011, đến nám 2012 còn 55,6% GDP. Nghĩa vụ trả nợ nước
ngoài trung dài hạn tương ứng từ mức 195,8% tổng kim ngạch xuất khẩu năm
1993 xuống còn khoảng 3,4% so với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010.
Các chỉ số nợ công của Việt Nam hiện nay vẫn đang ở dưới ngưỡng an
toàn (Nợ công 2012 so với GDP: 55,4%, Nợ Chính phủ so với GDP: 43,1%, Nợ
nước ngoài quốc gia so với GDP: 43,7%). Tuy nhiên trong thời gian tới các chỉ
số nợ có xu hướng gia tăng do sự gia tăng nguồn vốn vay để đáp ứng nhu cầu
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; do sự gia tăng các khoán bảo lãnh Chính phủ;
do tăng chi trả nợ trực tiếp cũng như nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà
nước, bởi tăng chi phí phát sinh từ rủi ro đối với việc tái cấp vốn cho thị trường
vốn trong nước, tăng chi phí huy động vốn.
Khuyến nghị của IMF đối với các nước như Việt Nam: nợ nước ngoài quốc gia
nên ở mức 50% GDP, dựa trên cơ sở IMF xếp chúng ta vào các nước có khuôn
khổ chính sách tương đối tốt, môi trường chính trị ổn định.
Về chiến lược nợ, trước đây chúng ta quản lý nợ mang tính thụ động thì giờ

chúng ta đã chủ động, đã có Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài quốc gia giai
đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Tất nhiên, chiến lược của này sẽ
điều chỉnh theo từng thời kỳ.


3.

Giải pháp đối phó với nợ công ở Việt Nam.
Khuyến nghị của IMF là Việt Nam phải giảm nợ công xuống 43% GDP vào năm

2017, tiếp tục giảm sau đó và tiếp tục duy trì ở mức này trong giai đoạn tiếp theo.
IMF cũng đưa ra dự báo chỉ số kinh tế vĩ mô dựa trên cơ sở dữ liệu của chúng ta
như cán cân thanh toán, nợ trên yếu tố giả định kinh tế vĩ mô là: Phải tăng nguồn
thu ngoài dầu mỏ như thuế thu nhập cá nhân; Kiểm soát chi thường xuyên và đầu
tư xây dựng cơ bản; cần ước tính những nghĩa vụ nợ dự phòng, nhất là các khoản
vay được Chính phủ bảo lãnh; Công tác thanh tra giám sát về kiểm toán cần được
tăng cường; Các chuẩn mực kế toán, cụ thể là liên quan đến phân loại nợ và trích
lập dự phòng rủi ro cần được điều chỉnh theo các chuẩn mực báo cáo tài chính
quốc tế.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ công lan rộng ở nhiều nước trên thế giới
hiện nay, Việt Nam cần xem xét một cách thận trọng hơn những rủi ro mà nợ công
có thể gây ra đối với nền kinh tế. Việc kịp thời đưa ra các giải pháp an toàn nhằm
giúp quốc gia tránh rơi vào nguy cơ khủng hoảng nợ trong dài hạn.
Giải pháp đối phó rủi ro:
 Thứ nhất, việc tính toán tỷ lệ nợ công cần nhất quán theo thông lệ quốc tế
nhằm nâng cao tính chịu trách nhiệm của các đối tượng có liên quan, tăng
cường tính kỷ luật ngân sách đồng thời giúp việc quản lý nợ công đảm bảo
tính chính xác, đồng bộ.
 Thứ hai, kiểm soát, xử lý các dự án đầu tư công kém hiệu quả. Phân cấp
đầu tư, tránh việc đầu tư dàn trải bằng vốn ngân sách trên tất cả các lĩnh

vực, các ngành nghề như hiện nay, đặc biệt là các dự án có tính chất thương
mại như điện, xi măng do các DNNN đảm nhận. Chú ý năng lực tự tồn tại của
các DN, cần có những điều chỉnh phù hợp để nguồn lực được phân bổ đến
những khu vực có năng suất cao hơn tạo điều kiện phát triển kinh tế.


 Thứ ba, tiếp tục rà soát, cắt giảm chi thường xuyên trong đó cần tinh gọn bộ
máy hành chính trên cơ sở có lộ trình từ các biện pháp tiết kiệm đến tinh giản
biên chế.
 Thứ tư, cần có sự giám sát chặt chẽ các khoản chi từ Trung ương cho địa
phương, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả ngay từ khâu
kiểm tra, đánh giá dự án.
 Thứ năm, tiếp tục cải cách hệ thống thuế, giảm thuế thu nhập DN nhằm nuôi
dưỡng nguồn thu trong tương lai. Tăng cường hiệu quả thu ngân sách, tránh
thất thoát, thất thu thuế. Hiện tại, có thể cân nhắc đối với thuế giao dịch bất
động sản, thuế đánh vào các mặt hàng xa xỉ hay thuế ô nhiễm môi trường.
 Thứ sáu, duy trì khả năng xuất khẩu, coi xuất khẩu là yếu tố then chốt để trả
nợ; Cần có giải pháp tránh tình trạng lên giá của tiền đồng làm tổn hại đến
năng lực xuất khẩu, khuyến khích vay nước ngoài dẫn đến xói mòn khả năng
trả nợ.
 Thứ bảy, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay: đặc biệt trong sử
dụng vốn ODA, chúng ta phải khắc phục bất hợp lý và phải gắn kết từ khâu
huy động đến khâu trả nợ; Xây dựng chương trinh đầu tư công trên cơ sở rà
soát lại các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình/dự án trọng điểm
để làm căn cứ cho việc huy động, phân bổ nguồn vốn phù hợp; Tranh thủ
nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi ở mức hợp lý, tiếp tục hài hòa hóa thủ tục
vay nợ/viện trợ.
 Thứ tám, tăng cường phát triển thị trường trái phiếu trong nước: Phát triển
thị trường trái phiếu sơ cấp là ưu tiên hàng đầu; Phát triển thị trường thứ cấp
nhằm tăng cường tính thanh khoản và minh bạch của thị trường trái phiếu;

Xây dựng đường cong lãi suất trái phiếu Chính phủ.
 Thứ chín, xây dựng, hoàn thiện mô hình cơ quan quản lý nợ công theo
hướng hiện đại hóa và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế
 Mười là, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và nghiên cứu để từng bước cải
thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.
 Mười một, Để sử dụng hiệu quả nợ công, cần phải chú trọng vào các vấn đề
sau:


- Chi tiêu công phải minh bạch, hợp lý. Vay nợ công phải được chi cho đầu tư
phát triển thay vì chi tiêu dùng chính phủ. Chỉ những dự án thực sự đem lại
hiệu quả kinh tế mới được xét duyệt và đầu tư thực hiện. Tăng cường thanh
tra, giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư; tránh tình trạngtham nhũng,
quan liêu.
- Đấu thầu các dự án một cách công khai, minh bạch nhằm chọn lựa được
những nhà thầu có năng lực nhất. Để doanh nghiệp ngoài quốc doanh chịu
trách nhiệm thầu các dự án đầu tư nhiều hơn, thay cho các doanhnghiệp nhà
nước.
- Tập huấn và nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ cho các
cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước.

Những số liệu trên cho thấy, hiện tại Việt Nam chưa rơi vào vùng có nguy cơ
khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, kịch bản này có thể thay đổi nếu các yếu tố đã được
đề cập ở trên không được kiểm soát tốt. Do đó, việc nhìn nhận một cách nghiêm
khắc về những rủi ro nợ công trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt trước tình hình
xuất hiện những nhân tố mới trong vấn đề nợ công như thu không vượt dự toán,
số lượng các DN phá sản và báo lỗ ngày càng tăng, có dấu hiệu căng thẳng về
quỹ ngân sách là thực sự cần thiết. Trong đó, nhấn mạnh yếu tố kỷ luật tài khóa
cần phải được thực hiện nghiêm minh ngay từ bây giờ, tránh những nguy cơ đổ
vỡ có thể xảy ra.




×