Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích bài thơ thuật hoài của phạm ngũ lão

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.58 KB, 5 trang )

Phan tich bai tho to long – Đề bài: Phân tích
bài th ơThu ật hoài (t ỏlòng) c ủa Ph ạm Ng ũ
Lão
Bài làm
Thuật hoài là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chia thành hai phần khá rõ: ở hai câu đầu là hình tượng con
người và hình tượng quân đội thời Trần, hai câu sau là “nỗi lòng” của tác gia. Mở đầu bài thơ là hình ảnh
tráng lệ với âm hưởng hào hùng, sảng khoái:
Hoàng sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Hai câu thơ có hai hình ảnh: hình ảnh tráng sĩ (con người thời Trần) và hình ảnh ba quân (quân đội thời
Trần, thời đại, dân tộc). Tráng sĩ hiện lên trong hành động cắp ngang ngọn giáo với mục đích giữ gìn non
sông đã mấy thu rồi. Các bản dịch thơ dịch “hoành sóc” bằng “múa giáo”. Theo tôi, cách dịch như vậy là
hay nhưng chưa có sức âm vang. “Múa giáo” thể hiện sự điêu luyện, bền bỉ, dẻo dai nhưng thiếu đi độ
cứng rắn, mạnh mẽ. “Cầm ngang ngọn giáo” khắc hoạ được tư thế hiên ngang, lẫm liệt, vững chãi của
người trai thời Trần. Câu thơ nguyên tác dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất
nước. Đó chính là dáng đứng của con người Việt Nam đời Trần.
Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ thì câu thơ
thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh dân tộc.
Tam quân tì hổ khí khôn ngưu
“Tam quân” là chỉ quân đội, dân tộc; “Ngưu” có nghĩa: là sao Ngưu, là trâu. Hình ảnh ba quân trong tư thế
xông lên giết giặc với khí thế bừng bừng. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hoá sức mạnh vật
chất vừa hướng tới sự khái quát hoá sức mạnh tinh thần của “hào khí Đông A”. Câu thơ gây ấn tượng
mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực và lãng mạn.
Tác giả Trần Trọng Kim dịch là “Ba quân hùng khí át sao Ngưu”, còn Bùi Văn Nguyên dịch là “Ba quân
khí mạnh nuốt trôi trâu”. Tôi thích cách dịch của Trần Trọng Kim, bởi lẽ dịch “Ba quân khí mạnh nuốt trôi
trâu” nói được sức mạnh, khí thế dũng mãnh “Sát Thát” của quân đội, sẵn sàng lăn xả vào bọn giặc dữ
một khi chúng tràn tới… nhưng chưa nói được tầm vóc. Hơn nữa dịch “át sao Ngưu”… câu thơ có lẽ giàu
hình ảnh, gợi cảm hơn, kết hợp với câu thơ thứ nhất mở ra cả một không gian rộng lớn, vì thế ý thơ cũng
giàu sức khái quát hơn.
Hai câu thơ nhỏ mà mang hai hình ảnh lớn: Hình ảnh một tráng sĩ cắp ngang ngọn giáo đi cứu nước
ròng rã bao năm mà chưa hề mảy may mệt mỏi. Hình ảnh “ba quân” xông lên giết giặc bừng bừng hùng


khí át cả sao Ngưu, nghĩa là át cả trời cao. Bút pháp miêu tả, so sánh, phóng đại, phép đối hài hoà, giọng
thơ hào hùng, sôi nổi tạo ra cách nói hấp dẫn và ấn tượng. Hình ảnh tráng sĩ còn có tính chất cụ thể ít
nhiều, hình ảnh ba quân thì rõ ràng chỉ từ ấn tượng, từ cảm hứng chủ quan, dĩ nhiên là rất mãnh liệt và
sảng khoái. “Ở đây chủ quan mà lại chân thực, chân thực của ấn tượng chứ không phải chân thực của
thị giác. Chân thực ở cái hồn của sự việc chứ không phải ở sự việc cụ thể. Xét cho cùng, chính đó là cái
chân thực của thời đại, của đất nước” (Nguyễn Đình Chú).


Nếu cái tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư
thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc. Nghĩa là không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông
và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la trong
một bối cảnh không – thời gian kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính
chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần.
Đó chính là sản phẩm của “hào khí Đông A”.
Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người mang tầm vóc của vũ
trụ này vì ai mà xông pha, quyết chiến…? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái
bình đất nước… Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con
người hành động, đó chính là những biểu hiện củacon người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước.
Điều đặc biệt ở đây là, khác với văn học Trung Quốc hay Ấn Độ, con người vũ tru, con người cộng đồng
trong văn học Việt Nam nói chung và Thuật hoài nói riêng gắn với lòng tự hào, tự tôn dân tộc, gắn với
thời đại và đất nước.
Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm
lắng lại. Điều đó rất phù hợp với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ. Nói cách khác âm
hưởng thơ góp phần thể hiện nỗi lòng của Phạm Ngũ Lão.
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà còn
thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai.

Theo Phạm Ngũ Lão chí làm trai phải gắn liền với hai chữ công danh, Chí làm trai này mang tinh thần, tư
tưởng tích cực, gắn với ý thức trách nhiệm, lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm cho
đời). Chí làm trai đó được coi là món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành
nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng sống của trang nam nhi
thời phong kiến. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích
kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”. Phạm Ngũ Lão cũng


từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao
năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Nói cách khác
cái tâm thể hiện qua nỗi thẹn…
Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu
nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu
trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế
“luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với chủ tướng Trần Hưng
Đạo, “thẹn” còn được hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay,
những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn.
Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao
khiết đời Tấn. Đó là nỗi thẹn của người có nhân cách. Trong bài Thuật hoài,Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa
trả xong nợ nước. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ
bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa
lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng
đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần.
Đó chính là con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam.
Tóm lại bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được quan niệm về con người trong văn học
phương Đông. Hình ảnh tráng sĩ – con người Việt Nam đời Trần vừa mang tầm vóc vũ trụ, vừa có ý thức,
trách nhiệm cộng đồng, vừa lắng sâu một nỗi lòng cao cả. Nói cách khác ba kiểu con người: con người

vũ trụ, con người cộng đồng và con người hữu tâm đồng hiện, hài hoà. Chính ý thức trách nhiệm với đất
nước (con người cộng đồng) nên sẵn sàng xông pha cứu nước với tư thế và tầm vóc lớn lao (con người
vũ trụ) và luôn biết nghĩ suy, khát vọng (con người hữu tâm)… Dáng đứng Việt Nam, con người Việt Nam
đời Trần cao đẹp làm sao!
“Bài thơ nêu cao lý tưởng trai thời loạn. Lý tưởng trai thời loạn là “cắp ngang ngọn giáo”, luôn ở tư thế
sẵn sàng chiến đấu dẹp giặc cứu nước. “Nợ công danh” lúc này là trách nhiệm của người thanh niên đối
với đất nước khi có giặc ngoại xâm… Người thanh niên thời đại ấy đã ý thức được trách nhiệm cao cả
của mình đối với Tổ quốc. Từ bài thơ còn nổi lên hình ảnh quân đội cứu nước, ngùn ngụt khí thế của hổ
báo nuốt trâu. (Nguyễn Sĩ Cẩn)
“Cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Ngọn giáo ấy phải đo bằng chiều ngang của non sông. Thế
thì con người cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc ấy tất phải được đo bằng kích thước của trời đất.
Con người có tầm vóc vũ trụ như vậy đã đồng nhất với non sông . Tầm vóc hoành tráng, tư thế vững
chắc ấy của dân tộc ta có cơ sở từ tinh thần làm chủ đất nước sâu sắc, từ ý chí bảo vệ đất nước rất kiên
cường. Với tinh thần ấy, nhân dân ta đã làm nên những chiến công oanh liệt ở Chương Dương, Hàm Tử,
Chi Lăng, v.v… và nhất là Bạch Đằng” (Đinh Gia Khánh).

Đề bài: Phân tích bài thơ Thuật hoài (tỏ
lòng) của Phạm Ngũ Lão. Bài phân tích
của Trần Thị Mỹ Hạnh lớp 10c1 khối


chuyên văn trường THPT chuyên Lê Văn
Thiêm.
Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh
Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông
nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ
Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi
lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí
Đông Á của thời đại đó.
Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối nằm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến r ất g ần.

Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyển rộng rãi vì nó bày t ỏ khát v ọng mãnh li ệt c ủa tu ổi
trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món n ợ công danh, có ngh ĩa là ph ải
thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả
cùng khí thế hào hùng của thời đại.
Phiên âm chữ Hán:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trải,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.Dịch thơ tiếng Vi ệt:Múa giáo non sông tr ải m ấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu.
(Bùi Văn Nguyên dịch)
Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch s ử n ước nhà.
Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, m ấy l ần quét
sạch quân xâm lược Nguyên – Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truy ền
thống bất khuất của dân tộc Đại Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh th ần yêu n ước, t ự hào,
tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. ông nhận th ức r ất rõ ràng v ề trách
nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là n ỗi lòng. D ịch thành T ỏ lòng,
nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là v ị danh t ướng tr ẻ tu ổi đang ch ỉ
huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông.
Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm lu ật ch ặt ch ệ, ý t ứ
hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu th ơ đầu, tác giả bày t ộ ni ềm tự hào to l ớn v ề
quân đội của triều đình; trong đó có mình – một vị tướng. Nhà th ơ đã khắc họa vẻ đẹp gân gu ốc, lẫm li ệt,
tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thụ. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang s ơn đã m ấy mùa thu.
Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu th ơ d ịch ch ưa l ột t ả được

hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu b ảo v ệ T ổ qu ốc. Hoành sóc là
cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. T ư th ế c ủa nh ững con ng ười
chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang s ơn đất nước suốt m ột th ời gian dài. Có th ể nói


đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khu ất
phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân nh ư h ổ báo, khí th ế hùng d ũng nu ốt
trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chi ến đấu và chi ến th ắng không gì ng ăn
cản nổi của quân dân ta.
Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào th ời gian một bức tượng đài tuy ệt
đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc c ứu nước c ủa đạo quân
Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ng ũ Lão t ừ một chi ến binh dày d ạn đã tr ở thành
một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi s ục khát v ọng công danh c ủa đấng
nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chi ến đấu, c ống hi ến
đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn th ờ lí t ưởng trung quân, ái
quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì v ới núi sông (Chí làm trai – Nguy ễn
Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân t ự l ấy làm h ổ th ẹn:
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu.
(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)
Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là t ận tâm ph ụng sự tri ều đại nhà Tr ần cho đến
hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân s ư s ố
một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát L ượng nổi ti ếng l ại là lòng tuy ệt đối
trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là : Cúi mình t ận t ụy, đến ch ết m ới thôi.
Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), mu ốn
được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu th ơ th ứ t ư: Luống th ẹn tai
nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần H ưng Đạo c ủa

Phạm Ngũ Lão.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuy ển sang tr ữ
tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình.
Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ th ẹn. Cũng có thể đây là cách nói th ể hi ện
khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, mu ốn sánh VỚI V ũ h ầu.
Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu v ươn lên cho b ằng
người, đó là tòng tự ái, tự trọng đáng quý cẩn phải có ở một đấng tr ượng phu. Là một tùy tướng thân c ận
của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngụ Lão luôn sát cánh bên cạnh ch ủ t ướng, ch ấp
nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn h ết tài n ăng, tâm
huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ CÕI.
Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi
trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa
tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông
muốn sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy c ảm c ủa m ột thi nhân. Thu ật
hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão l ớn lao c ủa tu ổi tr ẻ đương th ời. Bài
thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích c ực đối v ới thanh niên m ọi th ời đại.
Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ng ũ Lão đến muôn đời sau



×