Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.92 KB, 23 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
“ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước đi lên Chủ nghĩa xã
hội” là mục tiêu của Đảng và Nhà nước. Muốn đạt được mục tiêu này cần phải
phát triển nhanh và mạnh về Giáo dục và Đào tạo, phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản của phát triển nhanh và bền vững. Chính vì thế, bậc Tiểu
học là bậc nền tảng được ví như nền móng của một ngôi nhà, móng có chắc thì
nhà mới vững. Vì vậy mục tiêu đề ra với giáo dục Tiểu học là: Làm rõ hơn quan
điểm giáo dục toàn diện và thiết thực đối với người học; Chuẩn bị những kiến
thức, kỹ năng, thái độ để học sinh tiếp tục học lên các cấp trên. Như chúng ta đã
biết, chữ viết là một trong những phát minh vĩ đại của con người. Chữ viết là
công cụ đắc lực trong việc ghi lại, truyền bá toàn bộ kho trí thức của nhân loại.
Ngoài ra, chữ viết còn góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phẩm chất đạo
đức cho học sinh như tính cẩn thận, tính kỷ luật, khiếu thẩm mĩ. Cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng cũng đã nêu rõ “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người:
Dạy cho học sinh viết đúng, viết đẹp, viết cẩn thận là góp phần rèn luyện
cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy
cô và bạn đọc bài vở của mình”.
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ
thông tin, chữ viết cũng có máy vi tính làm thay, vậy việc rèn chữ viết có quan
trọng không? Từ lâu Bộ giáo dục và Đào tạo đã có tổ chức thi viết đẹp cho giáo
viên và học sinh Tiểu học. Việc này đã khơi dậy trong học sinh, giáo viên và xã
hội về ý thức cần viết chữ đẹp. Ngày 14/6/2002 Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào
tạo đã ban hành mẫu chữ viết (QĐ Số: 31/2002/QĐ-BGD&ĐT). Đây chính là
việc nhìn nhận tầm quan trọng và ý nghĩa của chữ viết. Vậy vấn đề đặt ra là làm
sao rèn chữ viết đẹp cho học sinh chính là yêu cầu bức xúc của người giáo viên.
Bởi chữ viết là hết sức cần thiết và cấp bách.
Qua nhiều năm trực tiếp đứng lớp với ý thức lương tâm, trách nhiệm nghề
nghiệp tôi luôn suy nghĩ và trăn trở, không ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ

1




viết để sớm giúp các em có được chữ viết đúng, đẹp thông qua đề tài “ Kinh
nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3”.
Đề tài mà tôi nghiên cứu cũng được nêu nhiều trong sách, báo nhưng đó là
phương pháp luyện viết chung. Do đặc điểm riêng của từng vùng miền, của từng
trường mà mức độ học sinh tiếp thu khác nhau. Mặt khác mỗi lớp có đặc thù
riêng nên tôi bắt đầu nghiên cứu tìm ra kinh nghiệm hữu hiệu nhất giúp các em
rèn chữ viết. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 3, các em vừa ở lớp hai lên nên chữ
viết của các em hầu như là chưa viết đúng cỡ và viết rất nguệch ngoạc. Do đó,
tôi tiếp tục nghiên cứu vấn đề này để có thêm một số kinh nghiệm trong việc rèn
chữ viết cho các em.
Với đề tài “ Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3” là năm học
tiếp theo tôi áp dụng thực hiện nhằm giúp học sinh viết chữ đúng, đẹp, kịp thời
đáp ứng dạy theo chuẩn kiến thức và kỹ năng ban đầu thuận lợi cho phát huy
viết chữ đẹp ở những lớp trên. Đó chính là lí do khiến tôi chọn đề tài này.

2


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1. Thực trạng:
Năm học 2014- 2015 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3B. Lớp có
27 học sinh trong đó có 15 em nam và 12 em nữ. Các em nhìn chung đều có ý
thức học tập tốt, có tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, gia đình
quan tâm, đó là thuận lợi để tôi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của mình.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 3, qua tìm hiểu học sinh tôi thấy:
- Học sinh lớp 3 viết chưa đảm bảo tốc độ, viết chữ chưa đúng cỡ theo quy định.
- Có nhiều học sinh viết bài còn chữa, xóa; chất lượng về vở sạch chữ đẹp đạt

kết quả thấp trong các đợt kiểm tra. Bên cạnh đó, giáo viên và học sinh còn gặp
rất nhiều khó khăn trong giờ viết. Cụ thể:
+ Học sinh còn viết sai nhiều về độ cao các con chữ (đặc biệt là ở những bài
chính tả đầu tiên), nét chữ chưa chuẩn, sai cách ghi dấu thanh, khoảng cách giữa
các con chữ.
+ Một số học sinh chưa nắm chắc quy tắc chính tả: ng - ngh, g - gh, c- k nên khi
viết học sinh dễ viết sai.
+ Học sinh còn sai lỗi phương ngữ: dấu hỏi, dấu ngã.
+ Trong các buổi học, học sinh thường viết chính tả đẹp và đúng hơn khi làm bài
kiểm tra trong các đợt kiểm tra định kì hoặc trong các vở khác.
Trước tình hình đó tôi đã tiến hành chấm vở sạch chữ đẹp cho học sinh và kiểm
tra việc sử dụng bút, thước của học sinh.
Kết quả như sau: Tổng số lớp 27em
Về trình bày:
Tổng số Trình bày đúng, đẹp
học
sinh
27

SL
3

%
11

Trình bày đúng nhưng Trình bày sai
chưa đẹp
SL
16


%
60

SL
8

%
29

Về đồ dùng cần thiết cho luyện viết:

3


Vở ô
ly
SL
TL

27
100%

Bút bi

Bút kim Bút mực Thước kẻ

Xếp loại chung

0
0%


21
78%

A: 10
37

6
22%

27
100%

B: 14
52

C: 3
11

Qua điều tra thực trạng của việc dùng vở và sử dụng bút của học sinh tôi thấy
về ưu điểm học sinh đã được trang bị đầy đủ vở có ô ly, thước, bút. Về bút viết,
tôi yêu cầu cả lớp viết bút kim hoặc bút mực, không viết bút bi. Một điều quan
trọng tác động rất lớn đến chữ viết của học sinh đó là việc ngồi học bàn ghế
đúng quy cách, nếu bàn ghế vừa tầm các em được ngồi thoải mái thì chữ viết
cũng sẽ đẹp hơn nếu bàn quá cao hoặc ghế quá thấp thì học sinh phải với để viết
dẫn đến dễ hư mắt và chữ viết không thể đẹp được.
Tất cả những vấn đề nêu trên chỉ là cơ sở vật chất để bước đầu phục vụ tốt cho
việc rèn chữ cho học sinh.
2. Kết quả thực trạng
a, Về học sinh:

+ Chưa nắm chắc về âm vần nên khi phân tích để viết một số tiếng khó còn lúng
túng, không phân tích được.
+ Một số học sinh tư thế ngồi viết và cách cầm bút chưa đúng.
+ Đôi lúc các em còn viết ngoáy, ý thức chưa cao, chưa tự giác rèn chữ viết.
+ Các em đa phần là con nông dân, tuy điều kiện vật chất đầy đủ nhưng điều
kiện hướng dẫn các em viết bài hoặc dạy các em tư thế ngồi hoặc cách cầm bút
thì hạn chế nên không sửa cho các em được hoặc có sửa thì cũng không đúng..
+ Một nguyên nhân nữa là do khối lượng kiến thức của lớp 3 so với lớp 1, 2
nhiều hơn nên học sinh phải tăng tốc độ viết trong giờ học, giờ làm bài nên chữ
viết thường không nắn nót, không viết đúng quy cách, sai kích cỡ, khoảng cách
giữa các chữ không đều. Hiện tượng viết sai nét, sai cỡ chữ, hở nét, thừa nét,
thiếu dấu hoặc đánh dấu không đúng vị trí diễn ra thường xuyên.
b, Giáo viên:

4


+ Giáo viên luôn quan tâm đến phong trào vở sạch chữ đẹp, chấm chữa bài cho
học sinh thường xuyên. Song khi chấm bài cho học sinh, học sinh viết sai lỗi
chính tả thì giáo viên chỉ gạch chân, ít sửa sai cho các em. Giáo viên mới chú
trọng đến chữ viết đúng nên khi học sinh viết sai chữ thì giáo viên gạch chân lỗi
sai, còn khi học sinh viết sai nét, giáo viên đều bỏ qua. Vì vậy, khi giáo viên
nhận xét, đánh giá bài viết của các em, các em không biết phải sửa thế nào cho
đúng, cho đẹp.
+ Bản thân một số giáo viên còn sửa qua loa.
+ Trong các giờ chính tả, tập viết, giáo viên chưa thực sự tổ chức tiết học sôi
nổi, chưa có sự đổi mới phương pháp, hình thức dạy học thực sự mà còn mang
tính hình thức.
c, Phụ huynh học sinh.
- Một số em có cả bố mẹ đi làm ăn xa để mặc các em ở nhà với ông bà già.

- Bản thân một số phụ huynh còn viết sai chính tả.
- Khi học sinh nói sai, viết sai không được sửa, và khi nhìn thấy phụ huynh viết
sai thì các em cho đó là đúng, đâu có biết như vậy là sai. Chỉ có phần ít là các
em biết phát hiện đúng sai, do đó các em cứ theo cái sai đó dẫn đến các em sẽ
viết sai.
d, Một số nguyên nhân khác
Trong thời gian nghỉ hè hầu như là các em chỉ ôn lại bài đọc mà không chú ý
đến viết chính tả và luyện chữ nên khi vào năm học mới, lên lớp 3 bài chính tả
đầu tiên các em viết sai nhiều và không đúng cỡ chữ.
*Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng chất lượng chữ viết
của học sinh lớp 3. Do vậy, tìm các giải pháp“Rèn chữ viết cho học sinh lớp 3”
là việc làm cần thiết và quan trọng.
II. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Các giải pháp thực hiện
1.Nghiên cứu lý thuyết
2. Khảo sát, phân loại đối tượng

5


3. Luyện tập thực hành.
4. Nêu gương
2. Các biện pháp thực hiện
a, Chuẩn bị điều kiện, vật chất:
Ngay từ đầu năm tôi đã giáo dục để các em hiểu tầm quan trọng, ý nghĩa, tác
dụng của viêc giữ vở sạch, rèn chữ đẹp. Tôi còn cho các em xem những bộ vở
sạch, chữ đẹp từ những năm trước và động viên các em hăng say rèn luyện để
đạt được những bộ vở sạch, chữ đẹp như các anh chị và các bạn .
- Đầu năm tôi quy định mẫu vở, bút kim, bút mực viết cho các em cả lớp cùng
thống nhất.

- Mỗi em có một tờ giấy thấm; một giẻ để lau bút, trong mỗi vở đều có một tờ
giấy kê tay để vở không bị giây bẩn, không bị ướt mồ hôi khi viết .
- Ngoài ra tôi còn hướng dẫn học sinh cách gọt bút chì, cách bơm mực ( không
bơm quá đầy, chỉ bơm 1/2 sức chứa của bút )
- Khi viết không ấn bút, mở nắp nhẹ nhàng dưới ngăn bàn, nếu bút bẩn cần lấy
giẻ lau lau sạch rồi mới viết .
- Trước khi viết cần thử bút ra giấy nháp, khi nào thấy mực ra đều đặn, nét đẹp
mới viết vào vở .
- Tôi luôn nhắc nhở học sinh mở vở, gấp vở nhẹ tay, khi viết không gấp đôi vở
- Cuối giờ học thu vở để vào tủ của lớp, đầu giờ học lớp trưởng phát vở theo
bàn.
.- Hàng ngày bàn học của học sinh phải được lau sạch trước khi vào lớp, học
sinh cần phải rửa tay sạch trước khi vào giờ học .
- Nếu viết sai trong vở cần dùng thước kẻ chân dưới chữ viết sai, không được
tẩy xoá.
- Cuối mỗi buổi học tôi luôn kiểm tra vở của các em để kịp thời nhắc nhở, rút
kinh nghiệm.
- Thường xuyên động viên, tuyên dương những em viết sạch, đẹp và đưa vở cho
những em viết còn chưa được đẹp xem, học tập .

6


* Chọn bút:
Các em không chọn bút quá dài hay quá to chỉ khoảng 15cm và đường kính
7mm là vừa. Phần ngòi bút và lưỡi gà cắm vào ổ bút vừa khít không quá rộng
hoặc quá chật. Phần ngòi bút không được mềm quá dễ hỏng. các bộ phận khác
của bút phải đảm bảo cho việc hút mực, giữ mực và ra đều mực.
* Chọn vở:
Vở theo quy định của nhà trường.

* Bảng con và phấn:
- Bảng con: nên dùng cỡ 20cm x 30 cm, mặt bảng có vạch rõ các ô vuông kích
thước 2,4cm x 2,4cm, dòng kể kích thước 1,2cm x 1,2cm kèm theo khăn ẩm để
lau khô.
- Phấn; Dùng phấn trắng, mềm, dùng phấn không bụi.
*Cách để vở
Giáo viên cần chú ý cho học sinh vở không gập đôi, để hoàn toàn trên mặt bàn,
hơi nghiêng sang trái khoảng 15 độ so với mặt bàn sao cho mép vở song song
với cánh tay. Khi dạy giờ chính tả, tập viết, giáo viên cần chú ý tất cả các điều
kiện trên.
b. Thực hành luyện viết
* Đối với việc rèn cách viết chữ đúng, đẹp :
- Muốn rèn học sinh viết chữ đúng, đẹp đầu tiên tôi đọc các tài liệu tham khảo,
chỉ đạo chuyên môn để nắm chắc cách viết các nét, chữ cái cho đúng, đẹp.
- Ngay từ đầu năm học tôi dành tuần đầu tiên để hướng dẫn các em cách cầm bút
, để vở và tư thế ngồi viết …
+ Khi ngồi viết, học sinh phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào
cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25-30 cm. Cánh tay trái đặt trên mặt
bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào vở giữ vở không bị xê dich khi viết. Cánh tay
phải cùng ở trên mặt bàn. Với cách để tay như vậy, khi viết bàn tay và cánh tay
phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải một cách dễ dàng .

7


+ Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút viết bằng cả ba
ngón tay ( ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa ) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ
đặt ở phía trên, đầu ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa cạnh đốt
đầu ngón tay giữa. Ba điểm tựa này giữ bút và điều khiển ngòi bút dịch chuyển
linh hoạt. Ngoài ra, động tác viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay khuỷu

tay và cả cánh tay .
+ Vị trí đặt vở khi viết chữ: Vở viết cần đặt nghiêng so với mép bàn một góc
300 (nghiêng về bên phải ). Sở dĩ phải đặt như vậy vì chiều thuận của vận động
tay khi viết chữ Việt là vận động từ trái sang phải. Trong quá trình học sinh
viết , tôi luôn quan sát để phát hiện những học sinh ngồi, cầm bút hoặc đẻ vở sai
để sửa triệt để cho các em .
Trong quá trình rèn luyện chữ cho học sinh, tôi đặt kế hoạch rèn chữ cụ thể ở
bốn thời điểm: Trong giờ tập viết, trong giờ chính tả, trong các giờ học còn lại ở
nhà .
- Trong giờ tập viết (theo PPCT - ở kỳ I ), giờ Tiếng Việt ôn luyện.
Trước hết tôi cho học sinh nhắc lại, hiểu rõ đặc điểm và cách sử dụng vở tập viết
để các em biết dùng vở tập viết đúng yêu cầu .
Xác định đường kẻ ngang, kẻ dọc ( Từ dưới lên )
5
4
3
2
51

Các chữ cái có độ cao một đơn vị được xác định bằng đường kẻ ngang trên và
đường kẻ ngang dưới ( Nếu ở cùng dòng viết có hai đường kẻ ).
Các chữ cái có độ cao 2,5 đơn vị được xác định bằng đường kẻ ngang trên, giữa
đường kẻ ngang ba và bốn.
* Ô vuông trên khung chữ mẫu. Các ô vuông này do các đường kẻ ngang, dọc
tạo thành, khoảng cách giữa 2 ô vuông nhỏ theo chiều dọc là một đơn vị chữ.
* Xác định tọa độ và chiều hướng chữ.
* Điểm đặt bút: là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ.
* Viết liền mạch: là điểm thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét

8



đứng trước tới điểm bắt đầu của nét tiếp theo.
* Kĩ thuật lia bút: là thao tác đưa ngòi bút trên không.
* Kĩ thuật rê bút: đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ
vừa viết, ở đây xảy ra hai trường hợp dụng cụ viết ( Đầu ngòi phấn, bút) “ Chạy
nhẹ” từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét đứng sau.
Sau khi đã cho học sinh nắm chắc các kí hiệu, kỹ thuật viết chữ rồi tôi tiến hành
dạy chắc tiết tập viết. Nếu dạy tốt tiết tập viết tôi tin rằng chữ của học sinh sẽ
dần dần trở nên đúng và đẹp hơn. Ở trong tiết tập viết, tôi đặc biệt chú trọng tới
chữ mẫu (Bộ chữ cái), chữ viết mẫu của giáo viên (Trên bảng lớp ); việc này
thực hiện thao tác hướng dẫn học sinh viết phảt thật tỉ mỉ và cho học sinh luyện
viết nhiều ở bảng tay, giấy nháp.
* Song song với việc rèn tỉ mỉ học sinh ở tiết tập viết có trong chương trình từ
tuần đầu của năm học tôi còn rèn luyện thêm cho các em một tiết tập viết ở vở
luyện chữ đẹp cho các em trong tiết hướng dẫn tự học. Với tiết tập viết này, tôi
rèn luyện cho các em cách viết chữ hoa sáng tạo, rèn luyện chữ viết thường và
việc dạy học này tôi tiến hành rất tỉ mỉ và cẩn thận.
Chú ý nêu tên gọi các nét cơ bản: Các nét cơ bản thường gặp trong cấu tạo hệ
thống chữ viết tiếng Việt:
* Các nét thẳng:
- Thẳng đứng (p, q...)
- Nét xiên phải

- Nét ngang (t, đ)

- Nét xiên trái

- Nét hất (t, p)


* Các nét cong:
- Nét cong kín (hình bầu dục đứng): o, ô, ơ, d, đ, a...
- Nét cong hở: cong phải, cong trái: c, q
* các nét móc:
- Nét móc trên (móc xuôi, móc trái)
- Nét móc dưới (móc ngược, móc phải): d, đ, l, h...
- Nét móc hai đầu: n, m, p...
- Nét móc hai đầu có thắt ở giữa (k)

9


* Nét khuyết:
- Nét khuyết trên (xuôi): l, h, b...

-Nét khuyết dưới (ngược): y, g

* Nét thắt: (b, r, s)
Ngoài ra còn có một số nét bổ sung: nét chấm (trong chữ i); nét gẫy trong dấu
phụ của chữ ă, â... Đặt ở vị trí trên đầu các chữ cái. Điểm cao nhất của dấu
không quá

1
đơn vị, điểm thấp nhất của dấu không chạm vào đầu các chữ cái
3

(cách đầu chữ cái một khe hở), chiều ngang của dấu bằng

1
đơn vị chữ.

3

*) Vị trí đặt các dấu thanh ở mỗi chữ viết: Đặt ở giữa chữ cái ghi âm chính của
vần. Ví dụ: mía, nhãn, loá, khoẻ, tuỵ; …
*) Viết liền mạch: Muốn viết nhanh phải viết liền mạch. Liền mạch giữa các nét
trong một chữ cái, liền mạch giữa các nét trong một chữ sau đó mới nhấc bút lên
viết tiếp các dấu chữ, dấu thanh.
*) Cách lia bút, nối liền mạch giữa các nét:
Cách sắp xếp các chữ cái có hình dáng tương tự (nét cơ bản chủ yếu) vào cùng
bài dạy hoặc các bài kế tục nhau tạo điều kiện cho các em so sánh chữ đã biết
với chữ chưa biết tìm sự giống nhau và khác nhau để sử dụng kiến thức và kỹ
năng đã biết vào học viết chữ sau, làm cho các em dễ nhớ, dễ đọc và phát huy
tính tích cực trong quá trình tập viết. Bảng chữ cái tiếng Việt có thể sắp xếp
thành các nhóm đồng dạng như sau:
- Nhóm 1: nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c; o; ô; ơ; e; ê; x.
- Nhóm 2: nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc
(hoặc nét thẳng): a; ă; â; d; đ; q.
- Nhóm 3: nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i; t; u; ư; p; n; m.
- Nhóm 4: nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong phối hợp
với nét móc): l; h; k; b; y; g;…
- Nhóm 5: nhóm các chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong: r; v; s.

10


Ta có bảng sau:
Nhóm chữ theo độ cao
Nhóm chữ có nét cơ bản đồng dạng
1 đơn vị: a, ă, â,u, ư, n, m, i, e, ê, o, Nét cơ bản là nét cong: c; o; ô; ơ; e; ê; x.
ô, ơ, v, c, x.

1,25 đơn vị: s, r.
Nét móc phối hợp với nét cong: r; v; s.
1,5 đơn vị: t.
Nét cơ bản là nét móc: i; t; u; ư; p; n; m.
2 đơn vị: d, đ, p, q, và chữ số 0, 1, Nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét
2,…..
2,5 đơn vị: b, h, l, g, k.

móc (hoặc nét thẳng): a; ă; â; d; đ; q.
Nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong
phối hợp với nét móc): l; h; k; b; y; g;…

+ GV bao giờ cũng viết mẫu đầu tiên.
+ Hướng dẫn kỹ thuật viết chữ bằng cách phân tích các nét qua quan sát chữ
mẫu trong bộ đồ dùng dạy viết ở các lớp (có HD viết cụ thể, rõ ràng HS dễ
học).
+ Cho HS thực hành viết.
Ví dụ: Chữ A: mẫu chữ này cấu tạo bằng những nét nào? Cách viết đúng là như
thế nào?
Khi ôn viết chữ hoa tôi chia các chữ hoa thành các nhóm đồng dạng có các nét
cơ bản giống nhau để học sinh luyện có nhiều thuận lợi: đơn giản và dễ viết,
cùng nằm trong một khung chữ giống nhau.
Nhóm 1: Gồm các con chữ : A,Ă, Â, N, M
Nhóm 2: Gồm các con chữ: C, G, E, Ê, L, S
Nhóm 3: Gồm các con chữ: B, I, H, K, P, V, R, Q ( kiểu 2)
Nhóm 4: Gồm các con chữ: D, Đ
Nhóm 5: Gồm các con chữ: U, Ư, Y, V (kiểu 2)
Nhóm 6: Gồm các con chữ: O, Ô, Ơ, Q, A ( kiểu 2 )

11



Bên cạnh việc rèn chữ viết đúng, viết đẹp còn phải rèn HS viết đúng, đẹp các
con số. Các chữ số đều có chiều cao nhất loạt là 2 đơn vị nhưng khi dạy HS viết
chữ số tôi cũng chia thành các nhóm chữ số như sau:
+ Nhóm chữ số có cấu tạo là những nét thẳng: 1, 4, 7.
+ Nhóm chữ số có cấu tạo là nét cong phối hợp với nét thẳng: 2, 5.
+ Nhóm chữ số có cấu tạo bằng nét cong: 0, 3, 8, 6, 9.
*Phương pháp quan sát, kết hợp đàm thoại, quan sát mẫu chữ, hỏi đáp về nét
chữ cách viết và kiểm tra chữ viết: ví dụ: Khi ôn cách viết chữ G .GV cho HS
quan sát và nhận xét:
+ Chữ G được viết mấy nét? (2 nét )
+ Viết nét 1 giống chữ hoa gì? ( C )
+ Nét 2 là nét gì? (nét khuyết )
* Phương pháp thảo luận; tìm hiểu nghĩa của từ, câu ứng dụng, thảo luận cách
viết từ, câu ứng dụng:
VD: Từ: Ông Gióng. GV gợi ý để HS nêu hiểu biết về Ông Gióng (còn gọi là
Thánh Gióng hoặc Phù Đổng Thiên Vương) quê ở làng Gióng (nay thuộc xã Phù
Đổng, ngoại thành Hà Nội) là người sống vào thời vua Hùng, đã có công đánh
đuổi giặc ngoại xâm.
- Trong từ: Ông Gióng những chữ nào viết 2 li rưỡi? ( Ô, g ).Chữ hoa nào viết 4
li? (G)
Câu:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.

GV nêu: Câu ca dao tả cảnh đẹp và cuộc sống thanh bình trên đất nước ta ( Trấn
Vũ, Thọ Xương là những địa điểm thuộc Hà Nội trước đây)
+ Câu ca dao có những chữ nào được viết hoa? (Gió: tiếng đầu dòng thơ ; Trấn

Vũ, Thọ Xương – tên riêng.)
* Trò chơi trong dạy học Tập viết - Chính tả…
VD: HS làm động tác vòng tay khép kín.
Hỏi: Bạn đang minh họa cho chữ gì? – HS trả lời: Chữ o.

12


Hoặc cho HS đoán chữ: Đố con chữ gồm một nét xiên, một nét thẳng, một nét
ngang là chữ gì? HS trả lời: chữ t.
Trong thực tế, tôi nhận thấy, nếu GV hướng dẫn một cách tỉ mỉ, sát sao, có lòng
nhiệt tình, say mê với công việc thì các em rất có ý thức trong việc rèn chữ viết,
tạo ra cho HS thói quen viết đẹp ở tất cả các môn học. Từ đó chất lượng của
phong trào thi đua “ Vở sạch – chữ đẹp” sẽ ngày càng cao hơn, đạt kết quả tốt
hơn nữa.
- Trong giờ chính tả:
Đây là giờ học rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghe đọc để viết chuẩn xác theo
luật chính tả. Học sinh nắm chắc để phân biệt được những phụ âm dễ lẫn như
tr/ch; x/s; d/r/gi …
- Đối với chính tả ( Tập chép ), tôi chú trọng rèn cho các em cách nhẩm chép,
cách phân biệt các phụ âm dễ nhầm để viết cho chuẩn xác thông qua việc phát
âm, ghép tiếng tạo từ ( Dựa vào nghĩa chuẩn của từ ghép để phân biệt , dựa vào
quy luật chung).
- Đối với tiết chính tả nghe đọc; Tôi chú trọng rèn luyện cho học sinh cách nghe
chuẩn xác để viết đúng, ngoài ra đây còn là giờ học để rèn lyện cho học sinh kỹ
năng viết đúng, viết đẹp.
- Trong cả tiết tập viết, tiết chính tả tôi đều rất chú ý tới việc đánh giá bài viết
của học sinh để đảm bảo 2 yếu tố: vừa nghiêm khắc, vừa thể hiện sụ động viên
khích lệ kịp thời. Nhờ đó sẽ đánh giá được thực chất bài viết của học sinh và
động viên các em cố gắng phấn đấu hơn.

- Trong các giờ học khác:
Trong các giờ còn lại tôi rất chú trọng đến tiết tập đọc (tiết 1 và tiết 2). Trong các
tiết học này tôi luyện kỹ cho các em cách đọc và nếu các em biết phát âm chuẩn
xác thì các em sẽ đọc đúng, đọc nhanh. Nếu học sinh đã đọc đúng, đọc nhanh
thì việc viết chữ của các em sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
Ngoài ra, tôi còn chú trọng rèn chữ cho học sinh khi các em viết bài của các môn
học khác như:Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội …để các em hiểu được rèn chữ

13


đẹp cần rèn ở mọi lúc mọi nơi. Từ đó hình thành cho các em thói quen tốt giữ vở
sạch sẽ, viết chữ cẩn thận đúng và đẹp .
- Đốí với việc rèn chữ ở nhà:
Tôi giao việc về nhà cụ thể để học sinh luyện thêm như :
+ Ở kỳ I: Chép một bài chính tả theo bài chính tả trên lớp, tập viết mẫu chữ viết
thường nhỏ như bài trên lớp (Viết ra vở ly ) theo mẫu của quyển luyện viết chữ
đẹp.
+ Ở kỳ II: Mỗi tuần các em luyện 2 bài ( theo quy định của giáo viên ) ra một vở
ô ly có kẻ nghiêng. các phần luyện khác cũng giống như ở kỳ I.
- Theo dõi riêng (ngoài sổ chủ nhiệm) về diễn biến chữ viết, việc giữ vở sạch
của học sinh trong lớp. Hàng tuần, vào chiều thứ sáu (tiết sinh hoạt) tôi dành ra
khoảng 10 phút để đánh giá việc rèn chữ của từng học sinh trong lớp. Ngoài ra,
tôi còn khuyến khích việc các em trao đổi bài luyện viết, vở cho nhau để các em
học được ưu điểm của bạn, nhờ bạn chỉ rõ giúp những yếu điểm của mình để
khắc phục.
Hàng tháng, tôi đều nhận xét vở sạch, chữ đẹp cho các em và tôi lấy kết quả
việc nhận xét vở sạch, chữ đẹp hàng tháng là một tiêu chí quan trọng trong việc
đánh giá thi đua cho các em. Đây cũng là một biện pháp quan trọng thúc đẩy các
em nỗ lực phấn đấu giữ vở sạch, viết chữ đẹp .

c. Dạy học sinh viết , trình bày bài.
Vào lớp 3, tuần đầu, các em viết bài chính tả thường lúng túng khi viết như:
+ Không biết cách trình bày bài viết.
+ Quên độ cao, khoảng cách từng con chữ.
Vậy chúng ta cần phải làm gì giúp các em khỏi bị lúng túng khi viết chính tả,
đặc biệt ở những bài đầu của phân môn chính tả?
Với học sinh Tiểu học, đặc biệt học sinh lớp 3, các em “ nói đấy, nghe đấy” rồi
cũng “quên ngay đấy”. Nếu như các em không được làm quen, được nhắc nhở
thường xuyên thì các em sẽ không biết làm, nếu làm thì cũng dễ sai, dễ nhầm lẫn
và không tránh khỏi lúng túng. Với lớp tôi, tôi đã thực hiện như sau:

14


* Ôn lại chữ viết thường cỡ nhỏ.
+ Nếu kể chiều cao của con chữ thấp nhất không kể các dấu phụ trên các con
chữ ấy (như các chữ a, ă, â, c, e, ê..) là đơn vị chiều cao của chữ và lấy dòng kẻ
dưới cùng của khuông kẻ vở làm dòng chuẩn thì các chữ viết thường có các độ
cao là vị trí trên khuông kẻ (như đã nêu ở trang 7); lưu ý các em: Nhóm chữ có
độ cao 2,5 đơn vị (2 ô li rưỡi): b, h, l, g, k.
+ 2,5 đơn vị: b, h, k, l ( với 2,5 đơn vị trên dòng chuẩn)
+ g, y ( với 1 đơn vị trên và 1,5 đơn vị dưới dòng chuẩn)
- Các chữ hoa đều có độ cao 2,5 đơn vị trên dòng chuẩn trừ g và y có độ cao 4
đơn vị , với 2,5 đơn vị ở trên và 1,5 đơn vị ở dưới dòng chuẩn.
Ở các giờ luyện Tiếng Việt (ôn luyện) và giờ Tập viết, giáo viên có thể giúp học
sinh so sánh độ cao, độ rộng cũng như kỹ thuật viết chữ. Nhưng giáo viên chú ý
không nên đi sâu phân tích, nhận diện mà ở đây tôi chỉ muốn với hình thức giáo
viên ôn lại cho học sinh là chính, tránh làm mất nhiều thời gian của tiết học.
Như vậy qua các bước ôn đó, phần nào học sinh đã nhớ để khi chuyển sang viết
chính tả học sinh không còn lúng túng và viết sai về độ cao các con chữ cũng

như kĩ thuật viết.
+ Ở lớp 3, khi viết bài chính tả học sinh có 3 hình thức: tập chép, nhớ viết, nghe
viết.
Yêu cầu của bài tập chép là tích hợp các yêu cầu về nhiều mặt: tư thế ngồi viết,
tay cầm bút, nét chữ, đánh vần, đọc trơn, hiểu bài, viết liền mạch.
Yêu cầu của bài nhớ viết, học sinh phải nhớ lại bài đọc và viết.
Yêu cầu bài nghe viết học sinh phải từ giọng của cô mà nhớ lại cách viết các từ
nghe được.
+ Trong những lúc tiếp xúc với học sinh, trong mọi tiết học, đặc biệt là trong giờ
học Tiếng việt. giáo viên là người đọc mẫu cho học sinh, vì vậy giáo viên phải
đọc đúng, đọc hay để học sinh bắt chước theo (chú ý phát âm chuẩn). Có đọc
đúng thì mới viết đúng.

15


Khi viết đúng, khi chấm bài, đặc biệt là những bài viết mẫu cho học sinh, chữ
của giáo viên phải chân phương mẫu mực, giáo viên chú ý cách trình bày bài
khoa học, đúng mẫu chữ, cỡ chữ. Như vậy, giáo viên cần luôn chú ý đến cách
viết, cách trình bày của mình cũng như chú ý sửa cho học sinh về khoảng cách
các con chữ, khoảng cách các chữ, cách ghi dấu thanh, cách viết liền nét, viết
liền mạch, không nhấc bút, giáo viên giúp học sinh biết:
Khoảng cách chữ - chữ bằng độ rộng một con chữ o.
Khoảng cách chữ - dấu phẩy, dấu chấm khoảng 1/2 độ rộng một con chữ o.
Khoảng cách dấu phẩy - chữ bằng độ rộng một con chữ o.
Khoảng cách dấu chấm - chữ hơn độ rộng một con chữ o.
Khi đã có sự hiểu biết này khi viết chính tả học sinh sẽ tránh được những lỗi
này.
Muốn trình bày bài tốt, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ từng bước kết hợp trong
các môn học. Như vậy, dạy học sinh viết luyện viết không chỉ thực hiện ở phân

môn chính tả, tập viết mà thông qua tất cả các môn học, không chỉ rèn viết mà
còn rèn cả đọc - nghe - nói cho học sinh.
d. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên và học
sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học chứ không
phải người dạy, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu hứng thú, thói
quen và năng lực của người học. như vậy, mục đích của dạy học ở đây là trẻ em
phát triển trên nhiều mặt chứ không chỉ nhằm lĩnh hội kiến thức. Khi dạy học,
hoạt động tư duy của trẻ em khơi dậy, phát triển và coi trọng, đó chính là dạy
học phát huy tính tích cực của học sinh.
Trong các giờ chính tả, tập viết, giáo viên thường lạm dụng con đường giải thích
cách viết, nhận xét luôn bài của học sinh. Như vậy chưa phát huy tính tích cực
của học sinh vì vậy khi dạy chính tả, tập viết, giáo viên cần lưu ý:
+ Giúp các em tự quan sát, phát hiện và nêu cách viết.
+ Tạo điều kiện cho các em được đánh giá bạn và đánh giá chính mình.

16


3. Kiểm nghiệm:
Sau khi áp dụng giải pháp trên vào thục tiễn giảng dạy trong thời gian vừa qua
tôi thấy: Dù học sinh lớp 3 nhưng tình trạng học sinh viết không đúng, trình bày
chưa khoa học đã giảm hẳn, cụ thể:
Không có học sinh nào mắc lỗi về trình bày kể cả đoạn văn, đoạn thơ. Học sinh
hiểu nghĩa từ, ghi nhớ từ, nắm được quy tắc chính tả, các em đã viết đúng
khoảng cách giữa chữ với chữ, giữa từ với từ, cách ghi dấu chấm, dấu phẩy, dấu
mũ. Các em viết đúng tốc độ, nối chữ đúng quy định, bài viết sạch đẹp, ít mắc
lỗi chính tả. Nhờ được rèn đọc, rèn viết ngay từ đầu năm, trong tất cả các môn
học nên đến nay các em đã viết rất tốt. Đặc biệt là học sinh tự chép hay nghe
viết một bài chính tả, tập viết theo đúng mẫu yêu cầu của cô. Trong các bài thi

viết chính tả, thi viết đẹp do giáo viên trong tổ tự tổ chức vào các buổi chiều
luyện Tiếng Việt) học sinh đã viết, trình bày rất đúng và đẹp, không còn bị bỡ
ngỡ do không phải là giáo viên chủ nhiệm đọc chính tả. Học sinh tự tin khi viết
và làm bài.
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng
dạy luyện viết chữ cho học sinh lớp 3 tôi thấy cần lưu ý những điểm sau:
a.Về thái độ học tập của học sinh:
- Có ý thức tự giác, tích cực trong học tập. Biết lắng nghe nhận xét của cô, của
bạn để tự sửa chữa, khắc phục nhược điểm của mình. Mạnh dạn góp ý, sửa sai
giúp đỡ bạn trong học tập cũng như trong rèn chữ.
b.Về kết quả học tập:
Vận dụng các biện pháp trên từng bước chữ viết của học sinh được nâng lên.
Đặc biệt kết quả kiểm tra VSCĐ cuối kì I như sau:

17


Về chữ viết
Tổng số Trình bày đúng, đẹp
học
sinh
27

SL
%
19
71,5
Xếp loại VSCĐ

Trình bày đúng nhưng Trình bày sai

chưa đẹp
SL
8

%
28,5

SL
0

%
0

Xếp loại chung
A: 19
71,5%

B: 8
28,5%

C: 0
0%

*Nhận xét chung:
Qua kết quả đạt được như trên so với kết quả khảo sát đầu năm học ta thấy
rõ được sự chuyển biến tích cực của học sinh. Số học sinh trình bày đúng, đẹp
được nâng lên, học sinh trình bày sai không còn. Điều đó, chứng tỏ các giải
pháp và biện pháp mà tôi đã sử dụng ở trên là có tính khả thi.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.


1. Kết luận.

18


Qua quá trình tôi thực hiện một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh ở lớp
mình đã đem lại kết quả tốt, đáp ứng được yêu cầu đặt ra, góp phần tích cực
trong việc đạt được hiệu quả giáo dục của lớp, của trường, Tôi xin trình bày trao
đổi kinh nghiệm và rất mong được sự đánh giá, góp ý của hội đồng sư phạm nhà
trường và bạn bè đồng nghiệp. Với mong muốn sáng kiến của tôi ngày càng
được hoàn thiện, áp dụng có hiệu quả hơn trong thực tiễn và được nhân rộng đến
các bạn đồng nghiệp, để chữ viết của mỗi học sinh ngày một đẹp hơn.
Muốn học sinh viết chữ đúng và đẹp, trước hết và chủ yếu phải có sự dạy dỗ
công phu của giáo viên theo một phương pháp khoa học và kinh nghiệm đã được
đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên, sâu sát của các bậc phụ huynh, sự
nỗ lực, kiên trì của mỗi học sinh . Người giáo viên phải yêu nghề, đi sâu, đi sát
từng học sinh để kèm cặp uốn nắn kịp thời. Đồng thời mỗi giáo viên cũng phải
tự rèn chữ của mình sao cho thật mẫu mực để học sinh học tập và noi theo khi
chấm và ghi lời nhận xét vào bài làm, bài kiểm tra của học sinh, khi ghi sổ liên
lạc cũng như khi viết bài:
+ Giáo viên là người làm gương cho học sinh noi theo.
+ Giáo viên giới thiệu với phụ huynh mẫu chữ mà nhà trường đang thực hiện để
phối hợp hướng dẫn học sinh khi luyện viết ở nhà.
+ Đối với học sinh viết quá ẩu, quá xấu, hay sai. Giáo viên yêu cầu học sinh đó
phải có một vở riêng để luyện viết và sắp xếp cho các em ngồi ở chỗ giáo viên
thuận tiện theo dõi.
+ Trong tiết sinh hoạt, giáo viên cần tuyên dương, khen ngợi những em được
xếp loại A, viết đẹp; nhắc nhở, động viên những học sinh còn lại. Kể cho các em
nghe những gương rèn chữ của những người đi trước được viết trong sách báo,

những gương rèn chữ của học sinh năm trước.
+ Dạy học phải đảm bảo tính hệ thống, tính khoa học, tính vững chắc, tính vừa
sức với đối tượng học sinh lớp mình.
+ Phối kết hợp rèn chữ trong tất cả các môn học.

19


- Viết đúng cần phải phát âm chuẩn, cần phát động phong trào “chống nói
ngọng”, “Thi đọc diễn cảm, nói hay, ứng xử có văn hoá”, thi “ Vở sạch - chữ
đẹp”, “ Nét chữ - nết người”… Những hoạt động này thực sự đã tạo được
không khí sôi nổi, ý thức tự giác và khát khao viết đúng, viết đẹp cho mỗi học
sinh.
- Giáo viên nên tạo ra không khí học tập thoải mái, vui vẻ, giúp đỡ học sinh yếu
mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập.
- Giáo viên luôn luôn sử dụng linh hoạt nhiều phương án, nhiều cách tổ chức giờ
học cho học sinh hứng thú, tích cực hơn.
- Trong quá trình rèn luyện chữ viết, giáo viên đã phân loại chữ viết thành các
nhóm để rèn luyện dứt điểm theo những trọng tâm mà giáo viên lựa chọn.
- Trong các giờ Tập viết, Chính tả, giáo viên đã hướng dẫn học sinh tuân thủ
nghiêm ngặt và thực hiện đúng các nguyên tắc về tư thế ngồi viết, cách để tay,
cách cầm bút…bàn viết đảm bảo đủ ánh sáng và thuận chiều, cầm bút xuôi theo
chiều ngồi, bút nghiêng so với mặt giấy khoảng 45 độ. Khi viết, yêu cầu học
sinh đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, không ấn mạnh ngòi bút vào
mặt giấy.
- Mục đích quan trọng của việc dạy viết là học sinh viết đúng mẫu chữ quy
định, có kĩ năng viết nhanh (đạt và vượt tốc độ yêu cầu đề ra ở mỗi lớp) và biết
trình bày một bài viết sạch đẹp (có tính thẩm mĩ). Do vậy khi dạy và luyện chữ
viết cho học sinh, nhiều giáo viên đã chú trọng phương pháp thực hành luyện tập
giúp học sinh hình thành và trau dồi kĩ năng viết chữ. Theo tinh thần đổi mới

phương pháp giảng dạy, tiết Tập viết, Chính tả cần tạo điều kiện để học sinh chủ
động tiếp cận kiến thức ( tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút
kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của GV.
- Thường xuyên trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp trong khi họp nhóm, họp tổ,
trong giờ giải lao để tìm ra biện pháp phối hợp hiệu quả, tích cực tham gia
chuyên đề để tìm ra nhiều phương pháp dạy luyện viết chữ.

20


- Có sự giúp đỡ, ủng hộ của đồng nghiệp, của nhà trường và phụ huynh học
sinh; Việc sử dụng biện pháp, phương pháp dạy học phù hợp sẽ đem lại hiệu
quả cao trong dạy học. Tôi thiết nghĩ kết quả học tập của học sinh phần lớn phụ
thuộc vào cách tổ chức của giáo viên. Trong giờ học mà còn tình trạng học sinh
ngại học, lơ là học tập tức là giáo viên chưa có những biện pháp thích hợp, chưa
có sự sáng tạo, bền bỉ trong công việc trồng người.
Với sự sáng tạo tuyệt vời của các thầy, cô giáo cùng với sự nhiệt tình tâm huyết
của các "kĩ sư tâm hồn” tôi tin rằng sự nghiệp giáo dục của chúng ta vững bước
đi lên, đưa nước ta từng bước "sánh vai với các cường quốc năm châu".
2. Đề xuất.
Việc rèn chữ viết cho học sinh là một việc làm hết sức quan trọng, để nâng cao
hơn nữa chất lượng rèn chữ cho học sinh lớp 3 tôi có một số kiến nghị sau:
a. Đối với giáo viên:
- Giáo viên cần thực sự hăng say tích cực tìm tòi, đề ra các giải pháp thiết thực
để rèn chữ viết cho học sinh.
- Giáo viên cần kiên trì, nhẫn nại, thường xuyên khích lệ động viên các em.
- Việc rèn chữ cho học sinh là việc làm thường xuyên liên tục trong mọi giờ học
cũng như lúc ở nhà.
- Giáo viên luôn kiểm tra bài viết của học sinh ở bảng con cũng như vở học, vở
tập chép, vở tập viết, luyện viết đẹp,….

- Rèn chữ viết cũng như xây dựng nhà cửa đòi hỏi phải có nền móng vững
chắc. Cần phải nâng cao yêu cầu lên từng bài, từng giai đoạn. Tăng cường nhiều
hơn khi học sinh đã tiến bộ.
- Nên tổ chức nhiều cuộc thi “Viết chữ đẹp, giữ vở sạch” để khen thưởng, bồi
dưỡng kịp thời giúp học sinh hăng hái rèn luyện chữ viết.

- Tạo điều kiện cho tất cả học sinh luôn có ấn tượng, hình mẫu chữ viết đúng,
đẹp thì có thể làm báo tường treo (chú trọng đến chữ đẹp), treo mẫu chữ qui
định trong trường tiểu học của Bộ GD&ĐT ở trong lớp, các bài thi viết chữ đẹp
đạt giải thì treo ở bảng tin của trường để làm trực quan cho học sinh.

21


- Ngoài ra cần chú trọng đến khâu kiểm tra, đánh giá, xếp loại vở sạch, chữ đẹp
theo định kỳ.
b. Đối với học sinh: Học sinh hiểu và say mê luyện tập .
c. Đối với nhà trường:
- Thường xuyên phát động thi đua rèn chữ đẹp, giữ vở sạch trong giáo viên và
học sinh.
- Đề cao sự gương mẫu về chữ viết của Giáo viên: chữ viết chuẩn, đúng, đẹp cả
mẫu chữ, cỡ chữ sáng tạo trong dạy luyện viết chữ đẹp cho học sinh, mở chuyên
đề rèn chữ viết thường xuyên.
- Bàn ghế học sinh đúng quy cách, phù hợp, thuận tiện sử dụng, thích hợp với
từng độ tuổi, từng khối lớp.
- Phòng học đủ ánh sáng, thoáng mát, sạch sẽ.
- Phối hợp thường với xuyên với Hội cha mẹ học sinh động viên khen thưởng
kịp thời, khích lệ học sinh hăng hái luyện viết.
d. Đối với phụ huynh học sinh
- Phụ huynh cần quan tâm hơn nữa tới việc học tập của con em mình, cần đảm

bảo góc học tập của các em phù hợp theo độ tuổi, đảm bảo đủ ánh sáng... tạo
cho các em ngồi học thoải mái.
- Kết hợp với nhà trường, cụ thể là giáo viên chủ nhiệm để rèn kĩ năng viết, viết
đúng, viết đẹp cũng như các kĩ năng khác cho con em mình.
- Bản thân phụ huynh cũng cần phải tự rèn cách đọc, cách nói chuẩn, cách viết
chuẩn.
Trên đây là một vài biện pháp tôi sử dụng trong dạy học Luyện viết chữ cho học
sinh. Do thời gian có hạn cũng như năng lực trình độ bản thân còn hạn chế vì thế
không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong sự góp ý của đồng nghiệp để
mong sáng kiến mang tính khả thi hơn.

22


XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Yên Định, ngày 20 tháng 3 năm 2015
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh
nghiệm là của mình tự làm, không sao
chép lại của người khác.
Người thực hiện

23



×