Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI DẢI VEN BỜ TỈNH KHÁNH HOÀ, NHỮNG TIẾP CẬN THÍCH ỨNG VÀ ỨNG PHÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.9 MB, 136 trang )

Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI DẢI VEN BỜ TỈNH KHÁNH HOÀ,
NHỮNG TIẾP CẬN THÍCH ỨNG VÀ ỨNG PHÓ
Nguyễn Tác An(1) , Nguyễn Kỳ Phùng(2)
(1)Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Chương trình Hải dương học, Liên Chính phủ Việt Nam
(2) Phân viện Khí tượng Thủy văn và Môi trường phía Nam
Nội dung báo cáo trình bày quá trình tổng hợp, phân tích và giới thiệu những thông
tin về các dấu hiệu cảnh báo hiện tượng khí hậu thay đổi đồng thời đưa ra phương pháp đánh
giá tác động của biến đổi khí hậu đối với dải ven biển tỉnh Khánh Hoà. Báo cáo cũng đề xuất
nhiệm vụ cần giải quyết trong việc xây dựng cơ sở khoa học cho cách tiếp cận các giải pháp
ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu theo quan điểm “Nguyên nhân và hậu quả”.

1. Mở đầu
Tại Khánh Hoà, có thể chưa có đủ thông tin và cơ sở khoa học để xác nhận
những tác động xấu của biến đổi khí hậu toàn cầu, nhưng cần phải lưu ý đến các bài
học của nhiều quốc gia khác trên thế giới: những vùng đã có thiệt hại do sự biến đổi
khí hậu gây ra thì trong những năm tới sẽ bị thiệt hại nặng hơn nữa, những vùng chưa
thấy bị thiệt hại thì không có nghĩa là sẽ không bị thiệt hại trong thời gian tới
(Rahmstorf, et al.2007 ). Chính vì thế, trong quá trình hoạch định phương hướng phát
triển, không thể không nghiên cứu, tìm hiểu sâu và tính đến sự biến động của khí hậu.
Bài báo tập trung bàn luận về một số dấu hiệu cảnh báo hiện tượng thay đổi khí
hậu ở tỉnh Khánh Hoà từ đó xây dựng tiêu chí đánh giá sự tác động của biến đổi khí
hậu và các giải pháp thích ứng, ứng phó và đưa ra một số đề xuất cụ thể trong chiến
lược ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà.
2. Tình hình biến đổi khí hậu ở Khánh Hoà
Khánh Hoà có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường chỉ có hai mùa rõ rệt là mùa
mưa và mùa nắng. So với các tỉnh phía Bắc từ Đèo Cả trở ra và các tỉnh phía Nam từ
Ghềnh Đá Bạc trở vào, khí hậu ở Khánh Hoà tương đối ôn hoà hơn do mang tính chất
của khí hậu đại dương. Sự biến đổi của khí hậu cũng như những tác động của biến đổi
khí hậu đối với tài nguyên, môi trường và sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Khánh


Hoà là một vấn đề tương đối mới và chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu. Sự hiểu biết
định lượng về các hiện tượng đặc trưng, chỉ số, nguyên nhân và những tác động liên
quan đến biến đổi khí hậu ở địa phương Khánh Hoà là điều kiện cần thiết để cảnh báo
và là cơ sở khoa học trong xây dựng chiến lược ứng phó và thích ứng với biến đổi khí
hậu. Dấu hiệu thường sử dụng để xác nhận hiện tượng thay đổi khí hậu là xu thế gia
tăng nhiệt độ và lượng mưa theo thời gian, sự gia tăng mực nước biển, sự thay đổi của
các dòng chảy địa phương, sự gia tăng tần suất và cường độ của các hiện tượng thời
tiết cực đoan.
2.1. Các dấu hiệu cảnh báo về hiện tượng biến đổi khí hậu ở tỉnh Khánh Hoà
2.1.1. Xu thế biến đổi nhiệt độ(oC)

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

231


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

Hình 1. Biến động nhiệt độ không khí
trung bình ở Khánh Hoà trong 10 năm
gần đây

Hình 2a. Biến động mực nước tại trạm
Cầu Đá-Viện Hải dương học

Xác định xu thế biến đổi, gia tăng của nhiệt độ ở một vùng, một địa phương thì
thường khó khăn hơn so với việc xác định xu thế biến đổi cho một quy mô lớn, quy
mô toàn cầu hoặc quy mô quốc gia. Cách đây hơn một trăm năm người ta đã nói đến
hiện tượng trái đất đang nóng lên và khoa học đã sử dụng phương trình cân bằng nhiệt
để xác định nhiệt độ trung bình trên toàn thế giới đã tăng lên khoảng 0,60C/100 năm.

Khánh Hoà là địa phương có khí hậu nóng, ẩm khá ổn định chủ yếu phụ thuộc
vào vị trí, địa hình, mặt đệm và vai trò điều hoà nhiệt ẩm về mùa đông và điều hoà chế
độ nhiệt vào mùa hè của biển Đông. Giá trị nhiệt độ cao tuyệt đối đo được ở Khánh
Hoà là 39,2oC có thể làm cho giới hạn nhiệt độ sinh thái tối ưu cho sự sống của sinh
vật bản địa ở Khánh Hoà sẽ cao hơn so với các vùng khác. So sánh trên nền biến động
của nhiệt độ cực đoan, trong khi ở Khánh Hoà có giá trị nhiệt độ cực đoan thì ở các đia
phương khác không phát hiện được và ngược lại. Chế độ nhiệt độ cực đoan từ năm
1980 đã xảy ra ở vùng duyên hải Nam Trung bộ vào các năm: 1982, 1983,
1985,1988,1993,1994, 1997, 1998 (Dương Liên Châu, 2007).
2.1.2. Mực nước biển dâng lên
Mực nước biển biến động rất phức tạp, vì có rất nhiều quá trình tác động lên
biến động này như quá trình thành tạo biến động chu kì ngắn từ vài phút đến 18,613
năm của mực nước biển. Thực tế biến động mực nước biển ở các vùng khác nhau trên
thế giới cho thấy có nơi tăng, có nơi giảm. Sự biến động mực nước biển bao gồm hai
thành phần chính: thành phần biến đổi triều và thành phần biến đổi không triều. Điển
hình phân tích đánh giá các biến động của mực nước, xu thế biến đổi giá trị trung bình
của mực nước và thành phần biến đổi không triều trong vùng biển Nha Trang (Khánh
Hoà) Hình 2a, b và 3. Các đặc trưng thống kê mực nước trạm Cầu Đá (Nha Trang) cho
thấy, có sự biến động rõ rệt các giá trị trung bình năm từ năm 1976 đến năm 2008
(Đường trung bình). Tuy nhiên phải lưu ý rằng có rất nhiều năm số liệu mực nước
từng giờ không được đo đạc đầy đủ làm cho kết quả tính toán các đặc trưng thống kê
không được chính xác.
Biến động triều có tám chu kì chính, từ 12h24.5’ đến 18,6 năm. Rõ ràng là với
chuỗi số liệu hiện có của trạm Mực nước biển Cầu Đá, Nha Trang, không thể nêu nhận
xét về sự gia tăng của mực nước biển do biến đổi khí hậu (hiệu ứng nhà kính, sự nóng
lên của Trái Đất) nói chung và băng ở các cực Trái Đất tan ra nói riêng.
232

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu



Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

Biến động mực nước trung bình (cm)

100

50

0

Cực tiểu
Cực đại
Trung bình

-50

-100

-150
87-90

91-95

95-00

00-05

06


Hình 2b. Biến động mực nước trung bình trong giai đoạn 5 năm tai Cầu Đá (cm)
SL(m)

1.30

2

1.20

3
1

Years

1.10
1975

1985

1995

2005

Hình 3. Xu thế biến đổi giá trị trung bình năm của mực nước trạm Cầu Đá, Nha Trang.
1 - Giá trị trung bình năm (đường gạch – gạch); 2 - giá trị là trơn (đường liền)
3 - Xu thế biến đổi của giá trị trung bình năm (đường gạch - chấm).

Nhằm củng cố thêm nhận định này chúng ta có thể áp dụng hai phương pháp
sau: một là chuỗi số liệu và hai là đồ thị và kết quả của hai phương pháp vừa nêu được
trình bày ở Hình 3. Dựa vào kết quả thống kê cho thấy trong vòng ba mươi bốn năm

qua giá trị trung bình năm của mực nước trạm Cầu Đá biến đổi với khoảng sáu chu kì
(đường 2, Hình 3), nghĩa là một chu kì khoảng 5,7 năm và xu thế biến đổi chung là từ
1975 đến 1992 giá trị trung bình năm của mực nước giảm trong khi từ 1992 đến 2008
thì tăng (đường 3, Hình 3). Chênh lệch giá trị trung bình năm của mực nước năm 2008
và 1975 là 5 cm. Biến động không triều của mực nước biển do một số quá trình xảy ra
trong khí quyển, đại dương và vỏ trái đất tạo thành. Nghiên cứu biến động không triều
của mực nước biển dựa trên dãy số liệu từng giờ của Trạm Mực nước biển Cầu Đá
(Phòng Vật lí biển, Viện Hải dương học) và áp dụng phương pháp lọc (Nguyễn Kim
Vinh, 2009) thì thu được chuỗi giá trị mực nước biển không triều. Từ đó có thể nêu
các đặc trưng và đặc điểm biến động không triều của mực nước biển. Giá trị biến đổi
không triều trong năm dao động trong khoảng từ 52 cm đến 108 cm. Như vậy, giá trị
biến đổi không triều cực đại bằng 46% biến đổi mực nước lớn nhất (Biến đổi mực
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

233


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

nước lớn nhất là 238 cm, vào tháng 11). Rõ ràng, vai trò của biến đổi không triều trong
quá trình biến đổi chung của mực nước biển trong vùng là rất đáng kể. Để xét ảnh
hưởng của gió mùa lên biến động không triều của mực nước biển trong vùng ta phải
chọn hai tháng, một tháng đại diện cho mùa gió đông – bắc và một tháng đại diện cho
mùa gió tây – nam. Giá trị trung bình năm biến động không triều trong hai tháng này
là: vào tháng 1: từ 1 đến 14 cm và vào tháng 7: từ -6 đến –26 cm. Giá trị cực đại năm
biến động không triều trong hai tháng này là: vào tháng 1: từ 9 đến 24 cm và vào tháng
7: từ -15 đến –35 cm. Ở đây, giá trị dương có nghĩa là gió mùa đông – bắc làm gia
tăng mực nước biển còn giá trị âm có nghĩa là gió mùa tây – nam làm giảm mực nước
biển. Trong đó, gió mùa tây – nam gây biến động mực nước biển mạnh hơn, về giá trị
gấp khoảng hai lần.

Một cách tổng quát, quá trình biến động mực nước biển trong điều kiện biến đổi
khí hậu hiện đại ngày càng phức tạp đòi hỏi phải tiến hành những đo đạc nghiên cứu
toàn diện các quá trình thành tạo biến động đó. Kết quả tính toán và phân tích chuỗi số
liệu mực nước từng giờ tại Nha Trang, từ năm 1976 đến năm 2008, cho thấy xu thế
biến đổi mực nước biển với chu kì 5,7 năm. Từ 1976 đến 1992 mực nước (theo xu thế)
giảm và từ 1993 đến 2008 mực nước tăng. Sự gia tăng mực nước và các quá trình động
lực biển sẽ gây nhiều rủi ro cho các vùng bờ biển Khánh Hoà, đặc biệt nguy cơ xói lở
sẽ tăng cao ở một số khu vực nhạy cảm như vùng bờ Xuân Tự (Vạn Ninh), đường
Trần Phú ở Nha Trang và vùng Cam Lộc, Cam Phúc ở Cam Ranh.
2.1.3. Các hiện tượng thời tiết cực đoan
2.1.3.1. Bão và áp thấp nhiệt đới
Trong 50 năm gần đây (1960-2010) có khoảng gần 500 cơn bão hoạt động trên
biển Đông. Trung bình hàng năm có khoảng 10,24 cơn bão và 2,24 cơn áp thấp nhiệt
đới. Số năm nhiều bão ( ≥ 12 cơn) chiếm tỉ lệ 27,5% và số năm ít bão (≤ 8 cơn) cũng
chiếm tỉ lệ 27,5%. Năm 1964 là năm nhiều bão nhất có đến 16 cơn, còn năm 1969 là
năm ít bão nhất chỉ có 4 cơn bão. Vùng có mật độ hoạt động của bão và áp thấp nhiệt
đới cao nhất là vùng 15oN-22oN và 110oE -120oE. Khu vực Nam Biển Đông từ 10oN
trở xuống xích đạo mật độ hoạt động của bão thấp.
Theo Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Khánh Hoà thì từ năm 1956 đến năm 2000
trung bình mỗi năm, Khánh Hoà chịu ảnh hưởng của khoảng 0,4 cơn bão. Các cơn bão
được dự đoán sẽ đổ bộ vào Khánh Hoà trong những năm gần đây thường lệch hướng
vào Nam hoặc tan ngay khi gần vào bờ. Tuy vậy, do địa hình sông suối có độ dốc cao
nên khi có bão kèm theo mưa lớn, làm nước dâng cao nhanh chóng, trong khi đó sóng
bão và triều dâng lại cản đường nước rút ra biển, nên thường gây ra lũ lụt. Trong
những năm 1976-2000, có tất cả chín cơn bão và một áp thấp nhiệt đới với tốc độ cấp
VI-VII (39-61 km/g) chiếm 55%, lớn nhất cấp X (89-102 km/g) chiếm 12% đổ bộ vào
Khánh Hoà. Thời gian gió mạnh từ cấp VI trở lên kéo dài trung bình 6-12 giờ.
2.1.3.2. Lũ lụt
Lũ lụt lớn thường đi sau ngay mưa lớn, bão và áp thấp nhiệt đới. Lũ tập trung
rất nhanh về hạ lưu là những vùng trũng, thấp, thoát lũ kém, gây lụt nhiều ngày. Ở

Khánh Hoà, những vùng có nguy cơ và rủi ro cao do ngập lụt lớn là vùng Vạn Giã
(Vạn Ninh ) và vùng Ba Ngòi (Cam Ranh).

234

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

2.2. Một vài hướng tiếp cận liên quan đến các giải pháp ứng phó với biến

đổi khí hậu

2.2.1. Nhận thức về các giải pháp ứng xử
Loài người đang phải gấp rút giải quyết những vấn đề có liên quan đến biến đổi
khí hậu. Đây là một thách thức rất lớn. Trong vấn đề xác định, định hướng các giải
pháp, con người đang phải đối mặt với những nhận thức có chiều hướng trái ngược
nhau. Với tư duy khoa học tự nhiên, giải pháp cho biến đổi khí hậu toàn cầu phải được
thiết kế trên nhận thức “Nguyên nhân và Hậu quả”. Với nhận thức này thì “Thiệt hại
khí hậu = Tổn thương khí hậu x Biến đổi khí hậu”. Ý nghĩa của mối tương quan này
chỉ rõ hậu quả tai hại do khí nhà kính gây ra tỉ lệ thuận với sự biến đổi khí hậu cũng
như sự tổn thương của các hệ thống tương ứng, đặc biệt là các hệ sinh thái trong vùng
nhiệt đới, các vùng cực và các ngành kinh tế phụ thuộc vào nước và chất lượng nước
như nông nghiệp và du lịch. Nhận thức này cho phép loài người có thể đề xuất những
định hướng có tính chiến lược. Trong trường hợp lý tưởng tai họa khí hậu không xảy
ra (bằng không), nghĩa là sự tổn thương khí hậu hoặc là sự biến đổi khí hậu không xảy
ra. Như vậy, việc giới hạn tối đa sự biến đổi khí hậu phụ thuộc vào khả năng tổ chức
triển khai các hoạt động ngăn ngừa hoặc làm giảm tối đa tổn thương khí hậu. Hệ thống
khí hậu là một hệ nhạy cảm và phản ứng tức thời trước một thay đổi dù là nhỏ. Khí

hậu thay đổi không phải là không có lí do, không có nguyên nhân nhưng để xác định
được các nguyên nhân và các lý do đó là việc không hề đơn giản.
Hiện nay, nhân loại đang phải đối mặt với một câu hỏi cực kì khó khăn là phải
tìm ra giải pháp để có thể giải quyết được vấn đề khí hậu thay đổi. Cái khó nhất hiện
nay khi nghiên cứu các giải pháp là chúng ta quá thiếu những dữ liệu thực tế, phần lớn
chỉ dựa vào các mô hình dự báo ở quy mô toàn cầu và cho hàng trăm năm tới. Chính vì
vậy, các giá trị thiệt hại do khí hậu biến đổi thiếu cơ sở khoa học nên ít thuyết phục.
Giải pháp thích nghi cũng khó xác định được cơ sở khoa học vì khó có thể dự báo
được những hậu quả do biến đổi khí hậu và cách tổ chức xã hội của loài người trong
tương lai. Xác định “khả năng bị tổn thương” (vulnerability) hay “khả năng thích
nghi” (adaptive capacity) cho tỉnh Khánh Hoà là một việc làm cần thiết. Các cơ quan
chức năng có thừa khả năng để đưa ra biện pháp ngăn ngừa, phòng chống sự gia tăng
mực nước dâng cao H m, trong một khoảng thời gian T, tại một địa phương nhất định
nào đó ở ven biển Khánh Hoà và cũng không khó khăn nhiều trong việc đánh giá thiệt
hại về người, về của tại vùng có nước biển dâng do khí hậu thay đổi. Quan trọng nhất
khi chọn mục tiêu của giải pháp là không nên có tính toán đặt ra lợi nhuận cao nhất
theo nhận thức của “Chi phí và Lợi ích” mà phải tìm cách đạt mục tiêu tốt nhất với khả
năng ít tốn tiền, tốn sức nhất. Ở đây, cần hết sức chú ý trong định hướng các giải pháp,
không thể vì mục tiêu gia tăng sự phát triển của một vùng, một quốc gia mà phải hy
sinh môi trường sống của một địa phương, của một cộng đồng dân cư nào đó. Như vậy
giải pháp giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu nên dựa vào nhận thức “Nguyên nhân và
Hậu quả”. Vấn đề khí hậu do con người gây ra, đã được con người nhận biết, tất nhiên
nên để cho con người tự giải quyết bằng những cách tốt nhất. Phần lớn các nghiên cứu
khoa học đều cho rằng trái đất nóng lên là do hiệu ứng nhà kính mà nguyên nhân chủ
yếu là do hoạt động của con người như công nghiệp hóa cấp bách đã thải ra khí CO2,
CH4, N2O và SF6 hay do phá rừng và phát triển chăn nuôi ở quy mô quá lớn. Mục tiêu
chung của chiến lược bảo vệ khí hậu là làm sao để nhiệt độ trung bình của toàn thế
giới không tăng vượt quá 2oC so với nhiệt độ trung bình của toàn thế giới trước thời kì
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


235


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

công nghiệp hóa, tức là mỗi thập niên nhiệt độ không khí không được tăng quá 0,2 oC
và làm sao để giới hạn hàm lượng khí CO2 trong khí quyền phải có giá trị nhỏ hơn
550 ppm.
2.2.2. Một số đề xuất
Nhiệt độ trung bình thế giới mới tăng khoảng 0,6oC trong thế kỉ XX nên hậu
quả tác tại của biến đổi khí hậu diễn ra chưa nhiều. Tuy nhiên, các kịch bản biến đổi
khí hậu đã dự báo về những tai họa lớn hơn đang rình rập phía trước dưới tác động của
biến đổi khí hậu. Về mặt quản lí, theo kế hoạch chung của Việt Nam, tỉnh Khánh Hoà
cũng đã soạn thảo chiến lược “Ứng phó với biến đổi khí hậu” (Mai Văn Thắng, 2010).
Theo tài liệu này, tỉnh Khánh Hoà, cũng sẽ chịu nhiều những tác động và hậu quả to
lớn do khí hậu thay đổi đối các nguồn lợi tài nguyên, các ngành kinh tế và sức khỏe
cộng đồng. Để có cơ sở khoa học cho các giải pháp thích ứng và ứng phó, tỉnh Khánh
Hoà cần lên kế hoạch nghiên cứu để có những kiến thức sâu và thực tế hơn nữa về
“Nguyên nhân và Hậu quả” của sự biến đổi khí hậu. Ở Khánh Hoà, chưa thấy có nhiều
công bố thông tin xác nhận những dấu hiệu cảnh báo của khí hậu thay đổi ở địa
phương một cách chắc chắn và tin cậy, còn thiếu cơ sở khoa học cho những giải pháp
thích ứng và ứng phó. Để cải thiện vấn đề này, Khánh Hoà cần đầu tư nghiên cứu một
số vấn đề cụ thể như:
-Vai trò của Biển Đông đối với sự biến đổi khí hậu ở Khánh Hoà.
-Xu thế thay đổi hệ thống dòng chảy mang tính địa phương.
-Các dự án trồng rừng nhằm tăng cường khả năng hấp thụ và lưu giữ khí
cacbonic trong bầu khí quyển.
-Xu thế biến đổi của các hệ sinh thái quần xã biển nhiệt đới như rừng ngập
mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển…
-Xu thế phát triển của nghề cá, du lịch và các ngành kinh tế liên quan đến biển

trong điều kiện khí hậu thay đổi toàn cầu.
3. Kết luận
Ở Khánh Hoà cũng đã xuất hiện một số dấu hiệu cảnh báo sự thay đổi của khí
hậu như giá trị tuyệt đối của nhiệt độ cao đến 39,2 oC, mực nước biển cũng có xu thế
gia tăng cũng như bước đầu xác định được những vùng nhạy cảm, có nguy cơ bị ảnh
hưởng cao do tác động của khí hậu biến đổi. Tuy nhiên, Khánh Hòa cần phải tập trung
nghiên cứu những cơ sở khoa học cho việc xây dựng các định hướng cho các giải pháp
thích ứng và ứng phó trước nguy cơ và tác động do biến đổi khí hậu ở dải ven biển
Khánh Hoà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Intergovernmental Panel on Climate Change (Edition ) (2010).
2. Johanna E Johnson, Paul A Marshall (2007), Climate Change and the Great Barrier
Reef. A Vulnerability Assessment.Climate neutral.
3. Nguyễn Kim Vinh (2009), Nghiên cứu đặc điểm biến động mực nước biển trong điều
kiện biến đổi khí hậu hiện đại.
4. Sở KH&CN, Đài KTTV Khu vực Nam Trung bộ (2004), Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn
tinh Khánh Hoà.
236

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

5. Viện Hải dương học (2011), Cẩm nang tra cứu về điều kiện tự nhiên, Môi trường,
Sinh thái kinh tế, Xã hội và Quản lí tổng hợp đới ven bờ Nam Trung bộ, Nxb Khoa
học tự nhiên và công nghệ, tập 1, 2.

THE IMPACT OF CLIMATE CHANGE ON SHORE-LINE OF
KHANH HOA PROVINCE, APPROACHS OF ADAPTATION

AND RESPONSE
Nguyen Tac An(1) , Nguyen Ky Phung(2)
(1)Chairman of the National Ocenography Programme
(2) Sub-Institute of Meteorology Hydrology and Environment
This paper analyses the information about warning signals of climate changes and
provides the methodology for assessing the impact of climate changes to the coastal regions
in Khanh Hoa province. This paper also brings out the assignments need to be solved in
bulding the fundamental science for approaching respond and mitigation to climate changes
in Khanh Hoa province based on the outlook “Cause and Effect”.

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

237


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN LƯU Ý KHI KHAI THÁC
NĂNG LƯỢNG GIÓ
Tạ Văn Đa
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
Kinh tế xã hội càng phát triển, nhu cầu về năng lượng ngày càng tăng. Trong khi các
dạng năng lượng dựa trên nguồn nhiên liệu hoá thạch ngày càng cạn kiệt, việc tìm kiếm và
phát triển các nguồn năng lượng thay thế đang là nhu cầu bức thiết trên toàn thế giới cũng
như ở Việt Nam. Năng lượng gió là một trong số các nguồn năng lượng thay thế có tiềm năng
và đang được phát triển khai thác nhiều nhất. Để có được hiệu quả khai thác cao, cần nghiên
cứu, xây dựng các giải pháp khai thác phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương có
tiềm năng và có kế hoạch xây dựng dự án. Bài báo này trình bày phương pháp nghiên cứu
xây dựng các giải pháp chủ yếu để khai thác năng lượng gió đạt hiệu quả cao.


1. Mở đầu
Nhu cầu về năng lượng không ngừng tăng lên trên phạm vi toàn thế giới cũng
như đối với mỗi quốc gia. Kinh tế xã hội càng phát triển nhu cầu này càng tăng. Toàn
thế giới cũng như đối với hầu hết các nước, năng lượng dựa trên nguồn nhiên liệu hoá
thạch (than đá, dầu hoả, khí đốt...) đã và đang là nguồn năng lượng chủ yếu, song hiện
đang có nguy cơ cạn kiệt. Việc tìm kiếm và phát triển các nguồn năng lượng thay thế
được tiến hành liên tục trong nhiều thế kỷ qua nhất là trong những thập kỷ gần đây.
Năng lượng gió là một trong số các nguồn năng lượng thay thế có tiềm năng và đang
được phát triển khai thác nhiều nhất. Việc khai thác năng lượng gió không đòi hỏi
công nghệ quá phức tạp và suất đầu tư không lớn như một số công nghệ khai thác năng
lượng khác. Tuy nhiên, đây là một ngành công nghệ mới được phát triển, nhất là đối
với Việt Nam, nên để có được hiệu quả khai thác cao, cần nghiên cứu, xây dựng các
giải pháp khai thác phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương có tiềm năng và
khả năng khai thác.
2. Phương pháp nghiên cứu xây dựng giải pháp cho khai thác năng lượng gió
Có nhiều các giải pháp để tiến hành khai thác năng lượng gió. Song theo chúng
tôi, các giải pháp chủ yếu cần thiết cần được xây dựng là:
+ Giải pháp công nghệ;
+ Giải pháp kinh tế xã hội;
+ Giải pháp môi trường.
Dưới đây trình bày về phương pháp nghiên cứu xây dựng các giải pháp chủ yếu
cho khai thác năng lượng gió.
2.1. Giải pháp công nghệ
Để nghiên cứu lựa chọn giải pháp công nghệ thác năng lượng gió, trước hết,
phải nghiên cứu kỹ về chế độ gió và tiềm năng chung của năng lượng gió ở khu vực,
tính toán và đánh giá được dải tốc độ gió khai thác tối ưu đối với các loại thiết bị điện
gió và với các khu vực có tiềm năng. Tiếp đó, cần tính toán và nghiên cứu xác định
được tiềm năng kỹ thuật của năng lượng gió cho các khu vực có khả năng khai thác.
238


Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

Vấn đề đặt ra là, cần phải lựa chọn các công nghệ khai thác năng lượng gió như thế
nào cho phù hợp nhất với trình độ công nghệ hiện tại trên Thế giới cũng như ở Việt
Nam trong một tương lai gần. Tất nhiên, ở mỗi khu vực khai thác năng lượng gió khác
nhau trên đất nước, việc lựa chọn giải pháp công nghệ khai thác còn tuỳ thuộc vào
tiềm năng năng lượng gió, điều kiện địa lý địa hình và các điều kiện về kinh tế - xã hội
của địa phương. Dưới đây trình bày phương pháp nghiên cứu để đưa ra giải pháp lựa
chọn các công nghệ khai thác năng lượng gió cho các khu vực có khả năng khai thác
năng lượng gió.
Để giải pháp công nghệ khai thác năng lượng gió phù hợp với điều kiện của địa
phương, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp được dựa trên các tiêu chí cụ thể sau
đây:
+ Tiểm năng chung của năng lượng gió trên khu vực;
+ Dải tốc độ gió khai thác tối ưu;
+ Tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió trên khu vực;
+ Điều kiện địa lý địa hình khu vực;
+ Điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực;
+ Trình độ công nghệ khai thác năng lượng gió trong và ngoài nước vào thời
điểm hiện tại và tương lai gần.
Khi lựa chọn giải pháp, trước hết, phải xem xét tính phù hợp của giải pháp dự
kiến đề xuất đối với từng tiêu chí cụ thể. Sau đó, phải xem xét một cách tổng thể sự
phù hợp của giải pháp đối với tất cả các tiêu chí trên cơ sở cân nhắc tương quan giữa
các tiêu chí có tính đến mức độ ưu tiên đối với các tiêu chí có tính đặc thù.
Tiềm năng năng lượng gió của khu vực giúp cho việc đánh giá khả năng khai
thác, xác lập quy mô tổng quát của dự án, từ đó có định hướng cho giải pháp công
nghệ khai thác. Chẳng hạn, với khu vực có tiềm năng lớn, ngay từ đầu các nhà đầu tư

có thể xác định khả năng xây dựng một dự án quy mô lớn nối lưới; với một khu vực có
tiềm năng nhỏ, chỉ có thể tính đến dự án khai thác quy mô nhỏ, không nối lưới.
Dải tốc độ gió khai thác tối ưu rất quan trọng cho việc lựa chọn thiết bị khai
thác để thu được tối đa sản lượng điện do gió mang lại cho khu vực với xuất đầu tư
thấp nhất có thể. Nhờ đó, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Ngoài ra, dải tốc độ gió khai
thác tối ưu còn đảm bảo lựa chọn thiết bị khai thác hoạt động an toàn trong khu vực có
chế độ gió biến đổi bất thường.
Kết quả xác định tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió trên khu vực giúp cho việc
xác định cụ thể quy mô của dự án và vị trí xây dựng các tua bin gió cụ thể. Đây cũng
là cơ sở để lựa chọn các thiết bị (công suất) khai thác mang lại hiệu quả cao.
Các tiêu chí khác cũng rất quan trọng để xác định giải pháp công nghệ khai
thác. Ví dụ, có những khu vực có tiềm năng năng lượng gió rất lớn nhưng khi xác định
giải pháp công nghệ khai thác chỉ có thể lựa chọn công nghệ có quy mô vừa phải để
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở địa phương đó. Chẳng hạn như đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi) cách đất liền khoảng 25 ki lô mét, ở đây có năng lượng gió rất lớn (tốc
độ gió trung bình năm ở mặt đất là 3,6m/s và ở độ cao 60m là gần 6m/s; tổng năng
lượng gió cả năm ở các độ cao tương ứng là 1078,4KWh/m2 và 2916,7KWh/m2) và
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

239


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

điều kiện địa lý địa hình trên đảo rất thuận lợi cho xây dựng một nhà máy điện gió quy
mô lớn. Nhưng cả huyện đảo chỉ có khoảng hai vạn dân sinh sống chủ yếu bằng nghề
trồng hành tỏi và chài lưới, trên đảo không có khu công nghiệp nào. Nhu cầu dùng
điện trên đảo này chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt và làm nghề nông. Nếu xây dựng nhà
máy điện gió quy mô lớn, việc đầu tư sẽ rất lớn và chắc chắn sẽ có điện dư thừa đáng
kể không để làm gì. Như vậy, hiệu quả kinh tế sẽ rất thấp.

2.2. Giải pháp kinh tế xã hội
Để xác định giải pháp công nghệ khai thác có hiệu quả, cần phải nghiên cứu
điều kiện kinh tế xã hội ở địa phương dự kiến xây dựng dự án. Thêm vào đó, cần có
giải pháp về kinh tế xã hội phù hợp để việc thu hút đầu tư và triển khai các dự án, quản
lý khai thác sử dụng nguồn năng lượng điện có nhiều thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Giải pháp kinh tế xã hội được xây dựng trên cơ sở các điều kiện sau:
- Điều kiện phân bố dân cư và quy hoạch các khu kinh tế trọng điểm của địa
phương;
- Điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của địa phương;
- Các cơ chế chính sách của Nhà nước và các quy định cụ thể của địa phương
(chính sách ưu đãi đầu tư, cơ chế giá bán điện, chính sách thuế, chính sách cấp đất cho
các dự án,…) về vấn đề khai thác năng lượng tái tạo nói chung và năng lượng gió nói
riêng.
2.3. Giải pháp môi trường
Nói chung, việc khai thác năng lượng gió không có tác động xấu đáng kể đến
môi trường chung quanh. Đặc biệt, với trình độ công nghệ hiện nay, nhiều loại thiết bị
điện gió đã được quan tâm khử nhiễu tiến ồn đến mức triệt để. Tuy nhiên, trong thực tế
trển khai các dự án điện gió, người ta vẫn cần quan tâm đến giải pháp môi trường để
tránh đến mức thấp nhất tác động bất lợi của việc khai thác năng lượng gió đến môi
trường chung quanh. Giải pháp môi trường được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí sau:
- Đánh giá mức độ các vật phế thải và nước thải sinh hoạt phát sinh trong quá trình thi
công dự án:
- Mức độ tiếng ồn do động cơ (tua bin) gây ra trong quá trình vận hành. Để khắc phục
tình trạng tiếng ồn, trước hết, khi chọn thiết bị khai thác phải tìm hiểu kỹ trình độ công
nghệ của các nhà cung cấp thiết bị để lựa chọn loại thiết bị có khả năng khử tiếng ồn
cơ học và giảm tiếng ồn khí động học tốt nhất, đảm bảo mức tiến ồn khi vận hành thiết
bị nằm trong phạm vi cho phép (QCVN 27:2010/BTNMT).
- Khi lập kế hoạch đầu tư, lập báo cáo đầu tư, lựa chọn khu vực xây dựng dự án, phải
tính đến khoảng cách từ khu vực xây dựng dự án đến khu vực dân cư gần nhất. Thông
thường, với trình độ công nghệ như hiện nay, khu vực xây dựng nhà máy điện gió quy

mô lớn cần cách khu dân cư ít nhất là khoảng 400 đến 500 mét. Ở khoảng cách này,
cường độ tiếng ồn bị giảm đi khoảng 10dB (đề xi ben) so với mức tiếng ồn ở ngay
điểm đặt máy.
- Xem xét hướng gió thịnh hành ở khu vực xây dựng dự án cũng góp phần quan trọng
trong việc giảm thiểu tác động của tiếng ồn;
- Mức độ bóng che của cột trụ và cánh quạt tua bin.
240

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

Tóm lại, để đầu tư xây dựng một dự án khai thác năng lượng gió (nhất là khai
thác điện gió) một cách có hiệu quả, cần nghiên cứu xây dựng được các giải pháp đặc
biệt là ba giải pháp chủ yếu nêu trên cho phù hợp với điều kiện thực tế của các địa
phương có tiềm năng và khả năng khai thác. Muốn vậy, trước đó cần tiến hành khảo
sát, nghiên cứu để đánh giá cụ thể về tiềm năng năng lượng gió, về điều kiện địa lý địa
hình và về điều kiện kinh tế xã hội đối với từng địa phương.
3. Kết luận
Để làm kết luận cho bài báo này, xin nêu ra một vài ý kiến nhận xét sau:
Giải pháp công nghệ, giải pháp kinh tế xã hội và giải pháp môi trường là ba giải
pháp chủ yếu không thể thiếu được khi đầu tư xây dựng một dự án khai thác năng
lượng gió (nhất là khai thác điện gió).
Muốn xây dựng tốt ba giải pháp trên, cần tiến hành khảo sát, nghiên cứu để
đánh giá cụ thể về tiềm năng năng lượng gió, về điều kiện địa lý địa hình và về điều
kiện kinh tế xã hội đối với từng địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2010). Nghiên cứu các giải pháp công nghệ khai thác năng
lượng gió tại một số khu vực ven bờ biển Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ khoa học.

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Tạ Văn Đa (2006). Đánh giá tài nguyên và khả năng khai thác năng lượng gió trên
lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học. Viện Khí tượng
Thuỷ văn.

3. Trần Việt Liễn và cộng sự (2010). Nghiên cứu lựa chọn công nghệ khai thác năng
lượng gió. Tuyển tập báo cáo khoa học Hội thảo khoa học thuộc đề tài "Nghiên cứu
đánh giá tiềm năng các nguồn năng lượng biển chủ yếu và đề xuất các giải pháp khai
thác". Đề tài cấp Nhà nước KC.09.19/06-10, Hà Nội – 10/2010.

METHOD TO RESEARCH AND CONSTRUCTION
MAJOR SOLUTIONS FOR WIND ENERGY EXPLOITATION
Ta Van Da
Vietnam Institute of Meteorology Hydrology and Environment
The development of socio-economy always goes along with the increase in energy
demand. While other forms of energy based on fossil fuels increasingly exhausted, finding
other alternative energy sources is the urgent task for nations all over the world as well as for
Vietnam. Wind energy is one of the renewable energy sources and is being developed and
exploited the most. To obtain high extraction efficiency, study and buildings of appropriate
solutions to exploit this resource are of great importance especially for regions whose wind
energy potential was investigated. This paper presents methodological solutions built
primarily to exploit wind energy with high efficiency.

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

241


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu


NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LỒNG GHÉP
CÁC HOẠT ĐỘNG ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
VÀO CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐỊA PHƯƠNG
Hoàng Nguyễn Giáp, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Bá Hùng, Trần Lan Anh,
Trần Thị Vân, Trần Hồng Thái
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
Lồng ghép các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) nhằm mục đích bảo
đảm tính hiệu quả và bền vững của các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển, phòng
ngừa những rủi ro có thể xảy ra do tác động của BĐKH.
Trên cơ sở tư vấn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của một số tỉnh
đại diện, bài báo đã nêu ra các bước của việc lồng ghép các yếu tố vào các chương trình dự
án và phải theo 3 nguyên tắc: chủ động, toàn diện và hiệu quả. Quá trình lồng ghép gồm 7
bước.

1. Mở đầu
Trên tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua các ngành,
các địa phương đã và đang nỗ lực xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với
BĐKH với những đặc thù của ngành và từng địa phương.
Nghiên cứu khả năng lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương là một trong các
nhiệm vụ mà Trung tâm Tư vấn Khí tượng Thủy văn và Môi trường đang triển khai
thực hiện.
Trong quá trình tư vấn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí
hậu của các tỉnh Phú Thọ, Lào Cai, Hà Nam, Hà Tĩnh…, việc nghiên cứu khả năng
lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH đã tập trung vào ba nội dung chính là:
-

Đánh giá thực trạng;


-

Nguyên tắc lồng ghép;

-

Quy trình lồng ghép;

2. Đánh giá thực trạng
Lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển là triển khai sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước, là sự
thể hiện trách nhiệm không những của các bộ, ngành, địa phương mà cả các doanh
nghiệp và cả cộng đồng xã hội. Việc lồng ghép này nhằm mục đích bảo đảm tính hiệu
quả và bền vững của các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển, phòng ngừa
những rủi ro có thể xảy ra do tác động của những hiện tượng khí hậu cực đoan và xu
thế BĐKH dài hạn, hoặc những hậu quả chưa lường hết được về môi trường và xã hội
do việc thực hiện các kế hoạch đó gây ra. Trong cuộc chiến chống lại những thảm họa
thiên nhiên mà một phần do chính con người gây ra việc lồng ghép này nhằm mục
đích giảm thiểu tối đa thiệt hại về người và của do các thảm họa từ thiên nhiên.
242

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

Ở các tỉnh, mặc dù các cấp chính quyền, địa phương đã có sự quan tâm và định
hướng ban đầu trong kế hoạch lồng ghép hoạt động ứng phó với BĐKH vào các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển. Tuy nhiên, việc lồng ghép còn gặp nhiều khó
khăn do các tỉnh đang trong quá trình phát triển, sự chỉ đạo ở chính quyền các cấp từ

Trung ương tới địa phương còn hạn chế, chưa có các hướng dẫn cụ thể về lồng ghép,
mà mới chỉ ban hành Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với
BĐKH của các Bộ, ngành địa phương. Đồng thời, chưa chỉ ra được yêu cầu cụ thể về
vai trò, trách nhiệm của các đơn vị lập kế hoạch trong việc thực hiện. Chưa có đủ dữ
liệu mang tính định lượng về khả năng diễn biến của biến đổi khí hậu trong tương lai
(các kịch bản biến đổi khí hậu còn mang tính trung bình cho một khu vực rộng lớn,
thiếu các trị số cực trị có khả năng xảy ra trong tương lai đối với những vùng nhỏ như
quy mô quận, huyện …); Nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng đối với BĐKH còn
rất hạn chế.
3. Nguyên tắc lồng ghép
Một thực tế cho thấy, các công trình, dự án lớn ở Việt Nam đều chưa tính tới
khả năng ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, nếu không có kế hoạch lồng ghép và những
điều chỉnh cụ thể đối với từng hoàn cảnh nó sẽ tạo sự kìm hãm sự phát triển bền vững
ảnh hưởng tới thế hệ tương lai. Đặc biệt, thời gian gần đây, các hoạt động ứng phó với
BĐKH của Việt Nam nhận được nhiều sự quan tâm và hỗ trợ tích cực của cộng đồng
quốc tế với nhiều hình thức hợp tác song phương, đa phương và đa dạng về tài chính.
Vì thế, việc cấp thiết xây dựng các nội dung đánh giá tác động của BĐKH, lồng ghép
trong những chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của mỗi Bộ, ngành, địa
phương là không thể chậm trễ.
Lồng ghép các yếu tố vào các chương trình dự án phải theo 3 nguyên tắc: chủ
động, toàn diện và hiệu quả.
Cụ thể, việc lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào các chiến lược,
chính sách, quy hoạch, kế hoạch chương trình/dự án phát triển của ngành, đơn vị cần
phải trên nguyên tắc chủ động thực hiện từ cơ sở trong quá trình chuẩn bị các kế hoạch
phát triển của ngành và các lĩnh vực, qua các khâu: Lập - Thẩm định và Phê duyệt - Tổ
chức thực hiện. Trong đó, cơ sở phải được quyền chủ động trong quá trình lồng ghép,
đồng thời, tuân thủ hướng dẫn chung của kế hoạch. Bên cạnh đó, các giải pháp thực
hiện cần được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên để đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình
thực hiện các giải pháp đó. Các giải pháp được xây dựng trên cơ sở:
(1) Mức độ ảnh hưởng của BĐKH thông qua việc xem xét diễn biến các yếu tố

trong kịch bản BĐKH đã được công bố.
(2) Phải tính toán chi phí - lợi ích của các giải pháp đối với ngành, lĩnh vực.
(3) Cuối cùng, cần phải chú ý tới nguyên tắc tổng hợp. Đó là khi lựa chọn các

biện pháp cần phải lưu ý tới cả hai loại biện pháp chủ yếu: Biện pháp công trình và
biện pháp phi công trình. Với mỗi loại biện pháp cần phân tích rõ những ưu điểm,
nhược điểm và khả năng phối hợp trong quá trình thực hiện.
4. Quy trình lồng ghép
Quá trình lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển nhằm nâng cao nhận thức về BĐKH, khả năng ứng phó với
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

243


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

tác động của BĐKH, duy trì sự ổn định và tính hiệu quả của các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển của các lĩnh vực và khu vực trên địa bàn các tỉnh.
Quá trình lồng ghép các hoạt động BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển của các lĩnh vực và khu vực trên địa bàn các tỉnh thực hiện theo quy
trình như sau:
- Bước thứ 1: Xác định chỉ tiêu của quá trình lồng ghép các hoạt động ứng phó
BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, phát triển ngành
và các địa phương.
- Bước thứ 2: Đánh giá tác động của BĐKH đến các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển của các lĩnh vực và khu vực trên địa bàn tỉnh.
Quá trình lồng ghép cần đưa ra được các minh chứng về tác động của BĐKH
tới các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các lĩnh vực, khu vực. Quá trình
đánh giá tác động tới các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phải có tính khoa học và

thuyết phục cao và nêu bật được tính cần thiết của việc lồng ghép. Vì tác động của
BĐKH là lâu dài và có sự thay đổi thường xuyên, quá trình đánh giá tác động của
BĐKH tới các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển này cần nêu ra được các tổn
thương có thể, ở hiện tại và trong tương lai, nếu quá trình lồng ghép này không được
thực hiện.
- Bước thứ 3: Đánh giá quá trình thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành và địa phương. Để lồng ghép các hoạt động ứng phó BĐKH
vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển cần đánh giá việc thực hiện các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được xác định. Quá trình đánh giá này sẽ chú trọng
tới các nội dung đã và đang được thực hiện của từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển. Cần xác định các lĩnh vực, khu vực trên địa bàn tỉnh có tính nhạy cảm và dễ
bị tổn thương cao đối với các tác động do BĐKH để có biện pháp ưu tiên.
Quá trình đánh giá này cũng cần được thực hiện với sự hợp tác của các bộ,
ngành, cơ quan, tổ chức, khu vực và vùng đã và đang thực hiện các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương.
- Bước thứ 4: Đánh giá nhận thức và năng lực về BĐKH của đội ngũ cán bộ
của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành nhằm thực hiện quá trình
lồng ghép.
Quá trình lồng ghép được thực hiện phần lớn bởi các cán bộ của các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển. Do đó, đánh giá nhận thức về BĐKH và đội ngũ cán
bộ đã và đang thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển là rất cần thiết.
Quá trình đánh giá này cũng sẽ bổ trợ cho việc xây dựng cơ chế chính sách và chiến
lược của quá trình lồng ghép.
- Bước thứ 5: Đánh giá các tác động của quá trình lồng ghép (gồm cả hai mặt
tích cực và tiêu cực).
Nội dung đánh giá bao gồm: quá trình thực hiện, các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển; các tác động tích cực hoặc tiêu cực của quá trình lồng ghép này đối
với các khu vực và lĩnh vực ưu tiên, với quá trình thực hiện trong tương lai của các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và đóng góp của các chiến lược, quy hoạch,
244


Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

kế hoạch phát triển này cho sự phát triển KT-XH của tỉnh nói riêng và của đất nước
nói chung trong bối cảnh tác động của BĐKH ngày càng gia tăng. Quá trình đánh giá
tác động này cung cấp các thông tin ban đầu cho việc xây dựng các cơ chế chính sách,
chiến lược và các hành động cụ thể của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
trong quá trình lồng ghép.
- Bước thứ 6: Xây dựng cơ chế chính sách và chiến lược lồng ghép (bao gồm
cả các vấn đề về tài chính, kinh tế và chính sách).
Quá trình xây dựng cơ chế chính sách và chiến lược lồng ghép cần dựa trên kết
quả đánh giá quá trình thực hiện, năng lực và nhận thức về BĐKH của đội ngũ cán bộ
của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và quá trình đánh giá tác động ban
đầu của quá trình lồng ghép.
Quá trình xây dựng cơ chế chính sách và chiến lược này cần nêu bật các khu
vực và lĩnh vực ưu tiên; đưa ra các bước hành động cụ thể và có hướng dẫn đánh giá,
giám sát thường xuyên của ban chỉ đạo.
- Bước thứ 7: Thực hiện quá trình lồng ghép trong từng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển.
5. Kết luận
Nghiên cứu lồng ghép các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu trên trên cơ
sở đánh giá thực trạng dựa trên những nguyên tắc xuyên suốt là chủ động, toàn diện và
hiệu quả là cơ sở quan trọng trong lồng ghép hiệu quả các hoạt động ứng phó với
BĐKH tại các tỉnh.
Nghiên cứu này có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng không những trong
quá trình tư vấn xây dựng kế hoạch hành động cho các tỉnh mà sẽ là cơ sở quan trọng
để các tỉnh có thể triển khai hiệu quả kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường. 2008. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2011. Chỉ thị về việc lồng ghép biến đổi khí
hậu vào xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề
án phát triển ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2011 – 2015.
3. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường. 2010. Biến đổi khí hậu và tác
động ở Việt Nam.
4. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường. 2011. Tài liệu hướng dẫn Đánh
giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng.
5. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ. 2005. Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH
tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.
6. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ. 2010. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2011-2015 của tỉnh Phú Thọ.
7. Trung tâm Tư vấn Khí tượng Thủy văn và Môi trường. 2011. Xây dựng kế hoạch hành
động ứng phó với biến đổi khí hậu của các tỉnh Phú Thọ, Hà Nam, Lào Cai.

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

245


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

STUDY ON MAINSTREAMING CLIMATE CHANGE ADAPTATION
ACTIONS INTO THE DEVELOPMENT OF SOCIO – ECONOMY AT
THE LOCAL LEVEL
Hoang Nguyen Giap, Nguyen Phuong Thao, Nguyen Ba Hung, Tran Lan Anh,
Tran Thi Van, Tran Hong Thai
Vietnam Institute of Meteorology, Hydrology and Environment

Integrating activities to cope with climate change (CC) aims to ensure the efficiency
and sustainability of strategies, planning, master plan, to prevent the risks that may occur
caused by effects of CC
On the basis of consultancy and development of action plan to cope with CC in some
represented provinces, the paper gives steps of the integration of elements into programs of
project. It has to follow to 3 principles: to take the initiative, Exhaustiveness and efficiency.
The process of the integration comprises of 7 steps.
Though level of local authorities have concerned and had the initial orientation,
integrating is still facing lots of difficulties in implementation.

246

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN
XU HƯỚNG DIỄN BIẾN THIÊN TAI LŨ, LỤT, LŨ QUÉT VÀ HẠN HÁN
Ở VIỆT NAM
Lê Bắc Huỳnh(1), Bùi Đức Long (2)
(1)
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, (2) Trung tâm Dự báo KTTV TƯ
Trong những năm cuối của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã
làm gia tăng các loại thiên tai, trong đó có mưa lớn, lũ, lụt, lũ quét, hạn hán thiếu nước.
Trong 30 năm qua, cả nước liên tiếp xảy ra những thiên tai lũ lụt, ngập úng lớn, lũ quét, hạn
hán, gây thiệt hại nặng nề đến đời sống dân cư, hạ tầng cơ sở, ảnh hưởng rất lớn đến phát
triển kinh tế xã hội trong vùng. Dựa trên những tài liệu đo đạc, khảo sát khí tượng thủy văn,
đặc trưng thủy văn, các loại hình thiên tai thủy văn trong 30 năm gần đây báo cáo đã trình
bày kết quả nghiên cứu tổng hợp, phân tích diễn biến của các đặc trưng thủy văn, tài nguyên

nước, trên cơ sở đó xem xét đánh giá những biểu hiện cụ thể của BĐKH đối với lũ lụt, lũ quét,
hạn hán thiếu nước và tài nguyên nước nói chung ở các lưu vực sông nước ta, đồng thời đánh
giá hiểm họa thiên tai lũ lụt, lũ quét, nguy cơ hạn hán thiếu nước trong những thập kỷ tới ở
các vùng miền nước ta nhằm góp phần làm rõ hơn bức tranh chung của ảnh hưởng của
BĐKH đối với nguy cơ thiên tai ở các vùng, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn hoạch định các
giải pháp khả thi ứng phó hiệu quả trong những năm tới.

1.

Diễn biến thiên tai thủy văn chính trong những năm gần đây

Trong những năm gần đây, trên các khu vực toàn quốc đã xảy ra những lũ lụt
lớn như ở Bắc Bộ năm 1996, 2002, 2008; ở Trung Bộ năm 1998, 1999, 2007, 2009,
2010 và Nam Bộ năm 2000, 2001, gây thiệt hại lớn về người và của (hình 1). Những
số liệu thống kê không thể nào diễn tả hết thảm cảnh do thiên tai lũ, lụt để lại, nhất là
hậu quả rất nặng nề về tâm lý, xã hội và kinh tế. Lũ quét bất ngờ, nhanh, có sức tàn
phá lớn thường xảy ra ở các lưu vực nhỏ và vừa ở vùng núi cao phía Bắc, miền Trung
và Tây Nguyên. Trong 20 năm 1990-2009, đã xảy ra gần 250 trận lũ quét ở trên hầu
hết các vùng, nhưng tập trung phần lớn ở vùng núi phía Bắc (hình 2), riêng trong 10
năm, từ 2000 đến 2009, xảy ra tới 147 trận lũ quét làm chết và mất tích 1340 người, bị
thương 846 người. Đây là những dấu hiệu cho thấy, BĐKH đã có xu hướng làm gia
tăng hiểm họa thiên tai lũ lụt, lũ quét ở các vùng, miền nước ta, gây hậu quả nghiêm
trọng hơn trước. Thiệt hại trong những thập kỷ gần đây cũng gia tăng liên tục. Hạn
hán, thiếu nước và xâm nhập mặn là thách thức lớn đối với phát triển, nhất là dưới tác
động của BĐKH khi nền nhiệt độ tăng làm gia tăng bốc, thoát hơi nước trong khi lại
giảm rõ rệt lượng mưa trong mùa khô thậm chí kéo dài thời gian không mưa, nguồn
nước trong sông mùa kiệt suy giảm đáng kể mà nhu cầu về nước cho sinh hoạt, đời
sống, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường không ngừng tăng lên. Trong tình hình như
vậy thì rõ ràng phải luôn đối mặt với hiểm họa hạn hán thiếu nước, nhất là ở đồng
bằng các lưu vực sông lớn, có khi trên diện rộng lớn bao trùm hầu khắp nước như tình

trạng hạn hán thiếu nước nghiêm trọng năm 1997-1998. Thiên tai hạn hán thiếu nước
điển hình đã xảy ra gần đây trong các mùa khô 1992-1993, 1997-1998, 2000, 2001,
2002, 2003, 2004-2005, 2010.
2.

Đánh giá bước đầu tác động của BĐKH đối với lũ lụt, hạn hán thiếu nước
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

247


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

2.1. Đánh giá xu hướng diễn biến lũ lụt trong 3 thập kỷ gần đây
Việc phân tích số liệu quan trắc tại 24 trạm thủy văn trong 3 thập kỷ gần đây
(1980-2009) trên các sông ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (hình 3, bảng 1) cho thấy, xu
hướng chung là liên tục gia tăng đỉnh lũ cao nhất năm, trừ ở một số trạm thuộc hạ lưu
sông Hồng-Thái Bình như Sơn Tây, Hà Nội, Phả Lại có xu hướng giảm do tác động
điều tiết cắt lũ của các hồ chứa trên sông Hồng, hoặc ít thay đổi ở hạ lưu sông Mã và
sông Cả. Xu hướng chung khi tính đỉnh lũ năm trung bình 3 thập kỷ liên tiếp (19801989, 1990-1999 và 2000-2009) ở hầu hết các sông đều tăng dần, trừ ở hạ lưu sông
Thái Bình có xu hướng giảm chậm mà nguyên nhân chủ yếu là do điều tiết giảm lũ tại
Sơn Tây và Hà Nội, Thượng Cát bằng các hồ chứa trên lưu vực trong 2 thập kỷ gần
đây. Nếu sơ bộ loại trừ tác động cắt giảm lũ nhờ các hồ chứa trên sông Hồng, có thể
thấy mức độ gia tăng đỉnh lũ ở thượng lưu các lưu vực sông đều lớn hơn ở vùng hạ
lưu. Như vậy, có thể thấy, nguy cơ gia tăng lũ lụt do BĐKH và một số nguyên nhân do
con người đã biểu hiện rõ ở vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Bắc Bộ &
Bắc Trung
Bộ: 167, 33%


3000
0
Hòa Bình

Yên Bái

Ghềnh Gà

Sơn Tây

Sự biến đổi dòng chảy lớn nhất trung bình trong 10 năm tại các trạm chính
trên hệ thống sông Hồng

Hà Nội
Thời đoạn

2000-2009

Thượng
Cát

6000

1990-1999

Đáp Cầu

2000-2009

1980-1989


P.L.
Thương

1980-1989

9000

Hình 2. Lũ quét gia tăng liên tục trong 4
thập kỷ gần đây
Hmax (cm)
1200
1100
1000
900
800
700
600
500
400
300
200
100
0

Qmax (m3/s)
18000

1990-1999


1991-1999,
103 (39%)

Lục Nam

Hình 1. Số trận lũ từ báo động 3 trở lên
trên các sông chính từ 1980-2009 và tỷ lệ
so với tổng số trận lũ trên báo động 3

12000

1981-1990, 8
(3%)

2000-2009,
147 (55%)

Miền Trung,
308, 65%

15000

1970-1980, 7
(3%)

Sự biến đổi mực nước cao nhất trung bình trong 10 năm
tại một số trạm chính hệ thống sôngThái Bình

Phả Lai


Cửu Long
35, 7%

Thời đoạn

Hình 3. Diễn biến đỉnh lũ cao nhất năm trung bình thập kỷ trên các sông ở Bắc Bộ
thời kỳ 1980-2009
Việc phân tích số liệu quan trắc tại 18 trạm thủy văn trong 3 thập kỷ gần đây
trên các sông ở miền Trung (hình 4, bảng 1) cho thấy, xu hướng chung là gia tăng
đỉnh lũ cao nhất năm, trừ ở hạ lưu sông Ba (có thể do hồ chứa Sông Hinh có tác dụng
cắt giảm lũ). Đỉnh lũ cao nhất năm gia tăng rõ rệt trên các sông thuộc Thừa Thiên-Huế
đến Quảng Ngãi và Khánh Hòa; gia tăng không nhiều trên các sông ở Bình Định và
giảm không đáng kể trên các sông ở Quảng Bình, Quảng Trị, Phú Yên. Xu hướng
chung của đỉnh lũ năm trung bình từng thập kỷ trong 3 thập kỷ liên tiếp (1980-1989,
1990-1999 và 2000-2009) ở hầu hết các sông từ Thừa Thiên-Huế đến Quảng Ngãi đều
248

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

gia tăng, trong khi đó ở các sông khác có xu hướng giảm không đáng kể. Do thiếu
những số liệu cần thiết để phân tích tách biệt tác động của các hồ chứa ở Miền Trung
trong đánh giá nên chưa có điều kiện làm rõ xu hướng diễn biến lũ thực tế trong tự
nhiên ở nhiều lưu vực, nhưng có thể thấy, nguy cơ gia tăng lũ lụt do BĐKH và một số
trường hợp là do con người đã biểu hiện rõ ở vùng Trung Trung Bộ và Khánh Hòa.
Hmax (cm)
800


Qmax (m3/s)
8000
7000
6000
5000
4000
3000
2000
1000
0

1980-1989
1990-1999

1980-1989

700

1990-1999

600

2000-2009

500

2000-2009

400
300

200

Sự biến đổi mực nước cao nhất trung bình trong 10 năm
tại một số trạm chính ven biển Trung Bộ

Thời đoạn

Phú Lâm

Trà Khúc

Câu Lâu

Phú Ốc

Kim Long

Thạch H ãn

Mai Hóa

N am Đ àn

Linh C ảm

0
Giang

Bản Đ ô n


Sự biến đổi dòng chảy lớn nhất trung bình trong 10 năm(1980 - 2009)
tại các trạmchính sông miền Trung

Kon
Tum

Đồng
T răn g

Củng
Sơn

B ìn h
Tường

Sơn
G ia n g

Nông
Sơn

Thượng
N h ật

Y ên
Thượng

100

Thời đoạn


Hình 4. Diễn biến đỉnh lũ năm trung bình thập kỷ trên các sông ở miền Trung trong
thời kỳ 1980-2009
Trong 30 năm gần đây (hình 5, bảng 1), theo số liệu quan trắc tại 14 trạm ở vùng
đầu nguồn sông Đồng Nai thuộc Tây Nguyên và ở Đông Nam Bộ thấy rõ xu
hướng gia tăng đỉnh lũ cao nhất năm trên các sông La Ngà, Bé, Sài Gòn,… do hạ
tầng cơ sở trên lưu vực sông Đồng Nai thay đổi rất nhiều và do suy giảm thảm thực
vật rừng cùng với BĐKH đã tác động mạnh mẽ đến chế độ dòng chảy sông. Bức
tranh tương tự cũng diễn ra ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai sau các công trình hồ
chứa thủy điện, thủy lợi, nhất là thủy điện Trị An được vận hành ổn định (năm
1990) thì mực nước cao nhất năm ở hạ lưu như tại Biên Hòa và Phú An tăng lên
đáng kể (khoảng 15-20cm). Tác động của thủy triều với vận hành của thủy điện
làm tăng mực nước đỉnh lũ năm (khoảng 15-30cm) và suy giảm mực nước kiệt
nước đến 20-35cm. Lưu lượng đỉnh lũ năm tăng dần trong 10 năm gần đây, riêng
sông Bé tại Phước Hòa ít thay đổi.
Qmax (m3/s)

2000
1800
1600
1400
1200
1000
800
600
400
200
0

Sự biến đổi mực nước cao nhất trung bình trong 10 năm tại một số

trạm trên hệ thống sông Đồng Nai

Hmax (cm)
350
1980-1989

1980-1989

300

1990-1999

1990-1999

250

2000-2009

2000-2009

200
150
100
50
Đại Nga

Phú Hiệp

Tà Pao


Đắk Nông Thanh Bình

Tà Lài

Sự biến đổi dòng chảy lớn nhất trung bình trong 10 nămtại một số trạm
trên hệ thống sông Đồng Nai

Phước Hòa
Thời đoạn

0
Dầu Tiếng

Biên Hòa

Phú An

Thời đoạn

Hình 5. Diễn biến đỉnh lũ năm trung bình thập kỷ trong thời kỳ 1980-2009
trên các sông ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
Sự biến đổi mực nước vùng ĐBSCL trong 30 năm qua và tính trung bình thập
kỷ (hình 6, bảng 1) tại 11 trạm thủy văn chính cho thấy rõ bức tranh chung là đỉnh lũ
tăng lên rất rõ ở hầu hết các vùng cuối nguồn, tăng không nhiều ở vùng đầu nguồn
(Tân Châu, Châu Đốc). Tuy nhiên, theo đánh giá của Ủy hội Mekong quốc tế thì đỉnh
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

249



Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

lũ trên trung lưu Mê Kông thuộc Lào tăng lên rõ rệt do tác động của BĐKH. Như vậy
có thể thấy, nguy có lũ lụt nói chung có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây
còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới ở ĐBSCL.
Như vậy, thiên tai lũ lụt ở Việt Nam là vấn đề rất nghiêm trọng, tác động rất
xấu đến kinh tế, xã hội và môi trường. Do BĐKH, thiên tai lũ lụt ngày càng thường
xuyên hơn, ác liệt hơn, bất bình thường hơn, gây tác động ngày càng rộng lớn hơn, có
khi bao trùm một khu vực lớn, thậm chí một miền của đất nước, cản trở lớn đến sự
phát triển bền vững của Đất nước.
Hmax (cm)
500
450
400

1980-1989

350
300

1990-1999
2000-2009

250
200
150
100

Sự biến đổi mực nước cao nhất trung bình trong 10 năm
tại các trạm chính vùng Đồng bằng sông Cửu Long


B
ế
nT
rạ
i

T
ràV
in
h

C
a
oL
ã
n
h

H
ư
n
gT
h

n
h

P
h


n
gH
iệ
p

V
ịT
h
a
n
h

C
a
iL

y

M
ỹT
h
o

L
o
n

ịn
h


K
iế
nb
ìn
h

L
o
n
gX
u
y
ê
n

C
â
nth
ơ

M
ỹT
h
u

n

B
ế

nL

c

T
â
nH
iệ
p

C
h
â


c

0

T
â
nc
h
â
u

50

Thời đoạn


Hình 6. Diễn biến mực nước đỉnh lũ năm trung bình thập kỷ ở ĐBSCL 1980-2009
Bảng 1. Tổng hợp xu thế diễn biến đỉnh lũ cao nhất năm ở các vùng
Xu thế diễn biến (%) đỉnh lũ lớn nhất năm (Qmax hoặc Hmax) các vùng
T
T

Vùng

Xu thế tăng/giảm TB
Xu thế tăng/giảm TB
Qmax, % so với TBNN Hmax, % so với TBNN

Ghi chú

Năm Thậpkỷ Chung Năm Thậpkỷ Chung
1

BB và BTB +0,0

+0,19

Tăng

-0,34

-3,4

Giảm

H giảm do cắt lũ


2

MT và TN

+0,2

+1,5

Tăng

+0,1

+0,7

Tăng

-

3

Đ Nam Bộ

-0,2

-1,7

Giảm

-0,3


-2,8

Giảm

H giảm do cắt lũ

4

ĐBSCL

Không Không Không +0,6

+6,5

Tăng

Do triều tăng

Ghi chú: MT và TN: Miền Trung và Tây Nguyên; Đ: Đông; TB: Trung bình; TBNN: Trung bình
nhiều năm; Qmax: Lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất năm; Hmax: Mực nước đỉnh lũ cao nhất năm
2.2. Đánh giá xu hướng tác động của BĐKH đến thiên tai hạn hán thiếu nước, xâm
nhập mặn
Trong những năm gần đây, lượng mưa trên các lưu vực sông Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ trong các tháng cuối mùa mưa, nhất là trong mùa khô thiếu hụt so với
TBNN khá nhiều, có nơi thiếu hụt nghiêm trọng nên dẫn đến nguồn nước trong các
tháng mùa kiệt có xu thế giảm so với những năm trước đây. Tuy nhiên, do điều tiết của
các hồ chứa nên nguồn nước trong mùa kiệt trên một số sông có xu hướng được cải
thiện. Song, nguồn nước hạ lưu các lưu vực sông Hồng, Thái Bình, Lô có xu thế giảm
rõ rệt, lại là do tác động của vận hành cấp nước chưa theo quy định của pháp luật hiện

hành. Trong vài năm lại đây, do ảnh hưởng điều tiết không hợp lý của các hồ chứa kết
hợp với lượng dòng chảy bị thiếu hụt so với TBNN, trên phần lớn các sông ở Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ (theo số liệu thời kỳ 1980-2009 tại 24 trạm thủy văn chủ chốt trên các
sông chính) đã xuất hiện các giá trị cực hạn; tại hạ lưu các sông đều thấy rõ xu hướng
250

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

giảm mực nước thấp nhất năm hoặc mực nước, lưu lượng nhỏ nhất trung bình thập kỷ
(1980-1989, 1990-1999, 2000-2009). Ngược lại, ở vùng chịu ảnh hưởng của thủy
triều, có thể do tác động của nước biển dâng, nên mực nước thấp nhất năm lại có xu
thế tăng (hình 7, bảng 2). Điều này cho thấy rõ nguy cơ hạn hán thiếu nước, tăng xâm
nhập mặn ở vùng của sông ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Kết quả phân tích đánh giá xu hướng diễn biến lưu lượng và mực nước nhỏ nhất
năm trên các sông thuộc miền Trung và Tây Nguyên trong thời kỳ 1980-2009 hoặc
xét trung bình thập kỷ (1980-1989, 1990-1999 và 2000-2009) theo số liệu tại 25 trạm
thủy văn chủ chốt cho thấy, trên thượng và trung lưu, nhìn chung nguồn nước có xu
hướng tăng mạnh trừ trên lưu vực sông Ba giảm nhẹ; trong khi đó, ở hạ lưu các sông,
mực nước thấp nhất có xu hướng giảm rõ rệt ngoại trừ trên hạ lưu sông Hương-Bồ và
Vu Gia lại tăng rõ rệt, có thể là do tác động điều tiết của các hồ chứa trong mùa kiệt.
Nếu loại trừ tác động của các hồ chứa, có thể thấy, nguy cơ hạn hán thiếu nước có xu
hướng giảm ở vùng núi đầu nguồn, nhưng lại gia tăng ở đồng bằng hạ lưu nơi tập
trung phát triển kinh tế và đông dân cư. Xu hướng giảm nguồn nước kèm theo gia tăng
hạn hán thiếu nước là khá rõ ở miền Trung (nhất là ở đồng bằng); tại Tây Nguyên,
nguy cơ hạn hán gia tăng ở vùng Nam Tây Nguyên (hình 8, bảng 2).
Hmin (cm)
2500


1980-1989

2000

1990-1999
2000-2009

1500
1000
500

Thời đoạn

Phả Lai

Thượng
Cát

Đáp Cầu

Thái
Nguyên

Lục Nam

Sự biến đổi dòng chảy nhỏ nhất trung bình trong 10 nămtại các trạmchính trên
hệ thống sông Hồng

Hà Nội


Chũ

Thượng
Cát

P.L.
Thương

0

Yên Bái Ghềnh Gà Vụ Quang Sơn Tây

Cầu Sơn

Qmax (m3/s)
1000
900
800
1980-1989
700
1990-1999
600
2000-2009
500
400
300
200
100
0

Lai Châu Hòa Bình

Sự biến đổi mực nước thấp nhất trung bình trong 10 năm
tại một số trạm chính hệ thống sông Thái Bình

Thời đoạn

Hình 7. Diễn biến dòng chảy nhỏ nhất năm trên các sông ở Bắc Bộ 1980-2009
Hmin (cm)
150

Qmin (m3/s)
140
120

1980-1989

100

1990-1999

80

2000-2009

1980-1989

100

1990-1999

2000-2009

50

60

Thời đoạn

Phú Lâm

Trà Khúc

Câu Lâu

Phú Ốc

Kim Long

Mai Hóa

Thạch Hãn

Bản Đôn

Kon Tum

Đồng
Trăng

Củng Sơn


Bình
Tường

Sơn
Giang

Nông
Sơn

Thượng
Nhật

Yên
Thượng

Sự biến đổi dòng chảy nhỏ nhất trung bình trong 10 năm (1980 - 2009)
tại các trạm chính sông miền Trung

Linh Cảm

-50

0

Nam Đàn

20

Giang


0

40

-100
-150

Sự biến đổi mực nước thấp nhất trung bình trong 10 năm
tại một số trạm chính ven biển Trung Bộ

Thời đoạn

Hình 8. Diễn biến dòng chảy nhỏ nhất năm trung bình thập kỷ trên các sông
ở miền Trung và Tây Nguyên trong thời kỳ 1980-2009
Quan trắc ở Nam Bộ tại 18 trạm thủy văn chủ chốt về dòng chảy nhỏ nhất năm
trong 30 năm gần đây cho thấy (hình 9, bảng2): Xu hướng gia tăng mực nước thấp
nhất trong năm ở ĐBSCL (mức tăng giảm dần từ ven biển vào trong nội địa), làm tăng
xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt; ở vùng Đông Nam Bộ, có xu hướng gia tăng mực
nước thấp nhất ở vùng thượng lưu, nhưng tại hạ lưu lại giảm; thời gian xuất hiện thời
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

251


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

kỳ kiệt nhất có xu hướng muộn hơn.
Bến Trại


Hmin (cm)
0
Trà Vinh

Long Xuyên

Cân thơ

Mỹ Thuận

Tân châu

-50

Châu Đốc

Hmax (cm)
0

-100

Dầu Tiếng

Biên Hòa

Phú An

-50
-100


-150

-150

1980-1989
1990-1999

-200

2000-2009

-200

1980-1989
1990-1999
2000-2009

-250

-250

-300

Sự biến đổi mực nước thấp nhất trung bình trong 10 năm tại một số
trạm chính vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Sự biến đổi mực nước thấp nhất trung bình trong 10 năm tại một số trạm hạ
lưu trên hệ thống sông Đồng Nai

Thời đoạn


Thời đoạn

Hình 9. Diễn biến mực nước thấp nhất năm trung bình thập kỷ 1980-2009 ở Nam Bộ
Bảng 2. Tổng hợp xu thế diễn biến dòng chảy nhỏ nhất năm ở các vùng
Xu thế diễn biến (%) dòng chảy nhỏ nhất năm (Qmin hoặc Hmin) các vùng
TT

Vùng

Xu thế tăng/giảm TB
Qmax, (% so với TBNN)
Năm

Thậpkỷ

Xu thế tăng/giảm TB
Hmax, (% so với TBNN)

Chung Năm

Thậpkỷ

Chung

Ghi chú

1

BB, BTB


+0,2

+1,8

Tăng

-1,2

-12,4

Giảm

Giảm H: HN, TC

2

MT và TN

+0,9

+9,0

Tăng

-0,3

-3,4

Giảm


Giảm ở hạ lưu
Hương, Bồ

3

Đ Nam Bộ

-0,4

-4,3

Giảm

-0,8

-8,4

Giảm

Do vận hành hồ

4

ĐBSCL

Không

Không


+11,0

Tăng

Do triều tăng

Không +1,1

Ghi chú: MT và TN: Miền Trung và Tây Nguyên; Đ Nam Bộ: Đông Nam Bộ; TB: Trung bình;
TBNN: Trung bình nhiều năm; Qmin: Lưu lượng nhỏ nhất năm; Hmin: Mực nước thấp nhất năm; HN:
Trạm Hà Nội; TC: Trạm Thượng Cát.

3. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiểm họa các thiên tai có xu hướng gia tăng trong
thập kỷ tới so với trong các thập kỷ gần đây tuy có biểu hiện khác nhau ở mỗi
vùng. Trong đó, đặc biệt lưu ý đến mức độ gia tăng rõ rệt của hiểm họa do BĐKH
như: lũ lụt lớn, lũ quét, hạn hán thiếu nước trên diện rộng ở các tỉnh Bắc Bộ, duyên
hải miền Trung; mức độ gia tăng khá rõ hiểm họa hạn hán thiếu nước nghiêm
trọng, xâm nhập mặn, lũ lụt lớn, ngập úng liên tiếp ở Đồng bằng sông Cửu Long;
gia tăng mức độ suy giảm nguồn nước mùa kiệt dẫn tới hạn hán thiếu nước nghiêm
trọng ở Tây Nguyên; gia tăng hiểm họa lũ quét có thể xảy ra đồng thời trên diện
rộng ở vùng núi phía Bắc và các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; lũ lớn tác động tổ
hợp cùng bão mạnh, nước dâng do gió ở các cửa sông và nước biển dâng cao đối
với đồng bằng Bắc Bộ vẫn là hiểm họa thường trực, và nếu xảy ra vỡ đê hoặc sự cố
các công trình phòng lũ thì có thể dẫn tới thảm họa. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy, còn một số vấn đề trong đánh giá tác động của BĐKH đến tài nguyên nước,
lũ lụt, hạn hán trong tổ hợp với nước biển dâng, gia tăng mưa lớn,… cần được tiếp
tục đánh giá cụ thể hơn.
Trên cơ sở kết quả đánh giá bước đầu tác động của biến đổi khí hậu đối với các
hiểm họa thiên tai ở các vùng và căn cứ yêu cầu ứng phó, giảm thiệt hại, trong đó nhấn

252

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

mạnh sự gia tăng số lượng lũ, hạn hán, gia tăng phạm vi và mức độ nguy hiểm đối đối
với kinh tế - xã hội và môi trường, đến sự phát triển bền vững của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ NN&PTNT (2010). Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến các mối hiểm họa
liên quan và chương trình quản lý hậu quả rủi ro thiên tai ở Việt Nam. Báo cáo tổng
kết Tiểu hợp phần thuộc dự án “Nâng cao năng lực thể chế về quản lý rủi ro thiên tai
tại Việt Nam, đặc biệt là các rủi ro liên quan đến BĐKH” hỗ trợ Bộ NN&PTNT thực
hiện “Chiến lược Quốc gia về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020”.
5/2010.
2. Lê Bắc Huỳnh (2011). Những vấn đề cấp bách cần giải quyết trước thực trạng suy
giảm nghiêm trọng nguồn nước ở hạ lưu các lưu vực sông. TC Môi trường, 3-2011, tr.
56-60

AN ASSESSMENT OF CLIMATE CHANGE IMPACTS
ON FLOOD, FLASH FLOOD AND DROUGHT HAZARDS
IN VIET NAM
Le Bac Huynh(1), Bui Duc Long (2)
(1)
Vietnam Association for Conservation of Nature and Environment,
(2)
National Centre for Hydro-Meteorological Forecasting
Based on the latest data analysis on the trend as of flood, flash flood, drought
disasters and water resources as well in Viet Nam has carried out an assessment on the

climate change impacts on major hydrological hazards such as floods, flash floods, drought,
water shortage, salt water intrusion in different river basins and regions of Viet Nam. The
research results also analyzed, reviewed in detail and summarized the lessons in responding
to major natural hydro-disasters in Viet Nam recently, particularly as major floods in the Bac
Bo Delta, whole country-scale drought-water shortage; historic floods in the Central
Provinces, and historic recorded flooding in the Mekong Delta. Affirmation could be made
from the research results: the above natural disasters are the abnormal phenomenon, rarely
seen, continuously occurring, happenings are very complicated in both scope, intensity and
time effects, causing great losses of lives and property, causing severe and long-lasting
consequences which seem to be difficult to make economic, social and environmental
recovery done that makes development less sustainable. The analyzed results draw more
awareness of natural disasters, useful lessons learnt and experience to respond more
effectively to the threat of natural disasters in the future if occurring. The research based on
climate change scenarios for Vietnam which was announced in 2008 and the results assessed
in detail trends of floods, flash floods, droughts, water shortages, salt water intrusion in Viet
Nam based on the observation data at 68 hydrologic stations on the period 1980-2009 were
predicted specifically the trend of flooding, flash floods and drought hazards in all river
basins and regions of Viet Nam. Research results showed that, overall, the hazards of hydronatural disasters mentioned above tend to increase more remarkably in the next decade than
in the past decade; despite level of increasing tends to be different in each region. Amongst
them, it should be particularly noted that results predicted the significant increase of hazards
due to the impacts of climate change such as heavy flooding, severe drought/water shortage
widespread in the Central coastal provinces; remarkable increase of hazards such as serious
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

253


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

drought-water shortage, salt water intrusion, major flooding and continuous inundation in

the Mekong River delta; increase of water sources decline in dry season leading to serious
drought/water shortage in the Central Highlands; increase of flash flood hazards may occur
simultaneously widespread in the mountainous areas of Viet Nam; combined heavy flood with
strong wind, storm surge in estuaries and high sea level rise for Bac Bo Delta remains
permanent hazards and if it happens dykes broken or structure incidents it will lead to
disaster.
The research results could be helping create the important foundations for further
research to decide on major orientations on enhancing the work of prevention, response,
recovery of natural disasters for adaptation of climate change impacts in Viet Nam.

254

Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu

TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN NGUY CƠ NGẬP LỤT Ở CẦN THƠ
Huỳnh Thị Lan Hương(1), Assela Pathirana(2), Trần Thục(1)
(1)
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
(2)
UNESCO-IHE, Viện Đào tạo về Tài nguyên nước, Delft, Hà Lan
Phát triển đô thị làm gia tăng nguy cơ lũ lụt ở các thành phố, nguyên nhân chủ yếu là
do sự thay đổi điều kiện khí tượng và thuỷ văn làm gia tăng rủi ro lũ lụt và mật độ dân số
cũng làm tăng tính dễ tổn thương của đô thị. Quy mô tác động toàn cầu do biến đổi khí hậu
cũng là một nguyên nhân làm tăng tính rủi ro này. Báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu cho
thành phố Cần Thơ (thành phố lớn nhất đồng bằng sông Mê Kông, Việt Nam). Cần Thơ sẽ
phải đối mặt với nhiều thách thức trong tương lai, cụ thể là, (i) nước biển dâng và tác động

của thủy triều, (ii) biến đổi khí hậu làm gia tăng dòng chảy trong sông, (iii) dòng chảy đô thị
gia tăng do sự gia tăng diện tích không thấm trong đô thị (iv) khả năng xuất hiện mưa lớn do
tác động của việc phát triển đô thị. Một loạt mô hình đã được sử dụng để định lượng các tác
động của những ảnh hưởng này trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, trong
tương lai, độ sâu ngập lớn nhật tại Cần Thơ sẽ tăng khoảng 20%. Tác động của biến đổi khí
hậu đối với ngập lụt nghiêm trọng hơn so với tác động của đô thị hóa.

1. Mở đầu
Các thành phố trên thế giới đang phát triển nhanh chóng do sự tăng trưởng dân
số, di cư từ nông thôn đến các thành phố và chuyển đổi các khu định cư nông thôn
thành thành phố. Kết quả là các đô thị phát triển với mức độ không kiểm soát được
với sự gia tăng các khu định cư, khu công nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng.
Đô thị hóa là một nguyên nhân làm tăng nguy cơ lũ lụt, gây nên tình trạng dễ
bị tổn thương và gia tăng rủi ro ngập lụt do thay đổi sử dụng đất dẫn đến những thay
đổi về chế độ thủy văn và thủy lực và vi khí hậu do đô thị hóa. Hiện nay, các nhà
khoa học đang tiến hành các nghiên cứu đánh giá tác động của đô thị hóa đến thay
đổi các yếu tố khí tượng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy một mối quan hệ chặt chẽ
giữa các khu vực đô thị và vi khí hậu địa phương. Khái niệm hiệu ứng "đảo nhiệt đô
thị" (UHI) đã được đề cập đến, trong nhiều trường hợp UHI có thể làm tăng lượng
mưa trong vùng lân cận của thành phố. Một số nghiên cứu đã tìm thấy một sự gia
tăng lượng mưa ở các khu vực theo hướng gió của khu vực đô thị, với sự gia tăng
khoảng 25% trong một số vùng.
Bài báo này tập trung nghiên cứu về rủi ro ngập lụt cho thành phố Cần Thơ một thành phố sẽ phải đối mặt với tất cả những thách thức trong tương lai.
2. Khu vực nghiên cứu
Thành phố Cần Thơ là thành phố lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) và được coi là trung tâm kinh tế lớn nhất ĐBSCL. Năm 2009, thành phố đã
được công nhận là thành phố cấp 1, do đó trong tương lai, Cần Thơ được dự báo là sẽ
phát triển rất nhanh. Diện tích của thành phố là 1.390 km2 với dân số 1,2 triệu (tháng
4 năm 2009). Dân số của thành phố dự kiến sẽ tăng với tốc độ vừa phải, tuy nhiên
việc di chuyển vào khu vực đô thị và khu công nghiệp có thể làm gia tăng dân số tới

1,8 triệu vào năm 2020.
Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu

255


×