Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Về đoạn trích trao duyên truyện kiều, nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.69 KB, 8 trang )

V ềđo ạn trích "trao duyên"-Truy ện
Ki ều, Nguy ễn Du
Posted by Thu Trang On Tháng Tư 26, 2015 32 Comments
1.Tìm hiểu xuất xứ
Đây là một trong những đoạn ở vị trí mở đầu cho cuộc đời lưu lạc
đầy đau khổ của Thuý Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt
giam do có kẻ vu oan, Thuý Kiều phải bán mình làm vợ Mã Giám
Sinh để lấy tiền đút lót quan lại cứu cha và em. Việc nhà đã tạm
yên, Kiều mới nghĩ đến tình duyên lỡ dở của mình. Trước hết, nàng
nghĩ cho người mình yêu, phận mình dù thế cũng đành, nhưng
cảm thấy có lỗi với Kim Trọng. Phải làm thế nào cho người yêu đỡ
khổ, suy nghĩ mãi, trong đêm cuối cùng, nàng quyết định nhờ em
thay mình trả nghĩa cho KimTrọng.
Trao duyên trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều.
2. Tìm hiểu bố cục đoạn trích
Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:


Đoạn 1 (14 câu đầu): Thuý Kiều “trao duyên” cho Thuý Vân.



Kiều nói với em về nỗi bất hạnh của mình.



Nhờ em và trao kỉ vật tình yêu cho em.



Đoạn 2: 12 câu tiếp Kiều trao kỉ vật và dặn dò



-Đoạn 3 : 8 câu cuối :Tâm trạng Kiều sau khi “trao duyên”.
+

Kiều mong muốn “trở về” gặp lại người yêu.

+

Kiều hướng đến sự đồng cảm với người yêu.


+
Tâm trạng tuyệt vọng của Kiều bởi mâu thuẫn trong tâm
hồn nàng (tình yêu sâu nặng và sự chia biệt vĩnh viễn) vẫn không
thể giải quyết.
3. Nhan đề
Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không
phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta
thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “Trao
duyên”, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ
người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước
phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình
không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy
Vân thay mình gắn bó với chàng Kim.
4. Cách viết phần mở bài:
Các em thân mến ! khi phân tích đoạn trích “trao duyên”, các em
có thể mở bài như sau:
+Giới thiệu tên tác giả ( Nguyễn Du) và Truyện Kiều
+Nêu vắn tắt xuất xứ đoạn “Trao duyên”
+Trích dẫn đoạn thơ cần phân tích : đề bài yêu cầu phân tích đoạn

nào thì mình trích đoạn đó. Lưu ý : không nên chép hết đoạn thơ
vào bài thi, mất thời gian. Các em chỉ cần chép câu thơ đầu,
xuống dòng ,chấm chấm (…) rồi chép câu cuối là được.
@ nếu đề bài yêu cầu chứng minh nhận định về đoạn trích thì các
em trích dẫn nhận định đó vào phần mở bài, nêu vấn đề nghị
luận.
Ví dụ mở bài sau:Đề bài : phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong
đoạn trích Trao duyên
Bài làm:
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta phải đứng trước những sự lựa
chọn khắc nghiệt :Chữ Tình và chữ Hiếu. Tuy nhiên công đức sinh


thành bao giờ cũng cao cả ,bởi vậy nếu là một người con hiếu
thảo yêu thương cha mẹ thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy,
người ta vẫn quyết định chọn chữ Hiếu để trả ơn bố mẹ. Kiều
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ Hiếu lớn lao ấy.
Thế nhưng nàng vẫn muốn bù đắp cho tình yêu dang dở của
mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy
Vân. Đoạn trích “trao duyên” thể hiện được tất cả những tâm
trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân
“Cậy em em có chịu lời

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
(“Trao duyên”- trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du)
Trong mở bài trên, câu văn in đậm là câu nêu vấn đề nghị luận
Website của Thu Trang, giáo viên trường THPT Tạ Uyên ,Yên Mô,
Ninh Bình
5. Bài văn mẫu:
Thuý Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lí ra chẳng ai nói đến

bao giờ :
Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Nghe xong Thuý Vân chắc sẽ rất bất ngờ. Lời chị khẩn khoản, thiết
tha chắc không thể chỉ là chuyện bình thường. Trong nhóm các từ
biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn được hai từ đắt nhất và
cũng hợp với hoàn cảnh nhất : cậy và chịu. Cậy không chỉ là
nhờ. Cậy còn là trông đợi và tin tưởng. Cũng vậy, chịu không chỉ là
nhận lời, chịu còn là nài ép. Chuyện chưa nói ra nhưng Kiều biết
người nhận không dễ dàng chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa
Vân vào thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Lời xưng hô nghiêm cẩn


và trang trọng của Thuý Kiều lại càng có tác dụng gây áp lực đối
với Thuý Vân.
“Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thuý
Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ không thể
nào nói được :
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thuý Kiều đã nói. Thuý Vân
hết sức ngỡ ngàng nhưng cũng nhanh chóng hiểu nỗi niềm của
chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào những chuyện riêng tư. Tình
yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ
nặng nề, chắc nịch (đứt gánh tương tư). Câu thơ thứ 4 lại hay ở
hai chữ tơ thừa. Với Thuý Kiều, tình yêu trao cho em chỉ là sự nối
tiếp, chỉ là chắp mối tơ thừa mà thôi. Mặc em ở đây có thể hiểu là
Kiều phó thác cho em, gắn trách nhiệm ở em phải cứu vãn tình
yêu đó. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa.
Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến

cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến, thấu hiểu và cảm thông “khi gặp
gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”.
Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thuý Kiều chủ yếu nói về
những bất hạnh của mình. Nhưng để trao duyên, Thuý Kiều còn
phải chọn những lời lẽ thuyết phục :
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình.
Người “nhận” có ba lí do để không thể khước từ. Trước hết, không
cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng phải nhắc đến hai chữ ngày


xuân với Kiều sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày xuân
(hiểu là sự trong trắng tinh khôi) thì giờ đây Thuý Kiều đâu thể
xứng đáng với Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang
danh là đã có chồng. Lí do thứ hai lại càng thuyết phục hơn. Kiều
đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ,
khó nhận thì vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng
cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe sao như một
lời khẩn cầu đầy chua xót :
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu
như một lời trăng trối. Và có ai lại đang tâm từ chối ước nguyện
của người thân sắp phải thuộc về hoàn cảnh bấp bênh, khôn
lường bất trắc ? Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc nước đời
là ở những chỗ như vậy.
Duyên đã được trao, người “nhận” cũng không có lí do gì để từ

chối. Thuý Kiều trao kỉ vật cho em :
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng
chính lúc Thuý Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu
chới với để cố níu mình lại với tình yêu. Duyên đã khó trao, tình
làm sao trao được ? Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc
vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với
tình yêu của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những
ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng
nàng và Kim Trọng. Tình yêu không có người thứ ba, khi có người
thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ
vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau đớn.
Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt
mất.


Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý
Kiều đành ngậm ngùi đau xót nghĩ về tương lai :
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Thuý Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa.
Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng như đã hoàn toàn cách biệt
âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều vẫn không hề thay đổi :
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thuý Kiều vẫn
không quên nghĩ về sự tủi hổ, bất hạnh của mình :

Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thuý Kiều từ cõi hư không.
Thời gian không còn là thời gian tâm trạng, nó là thời gian khách
thể. Trở về với hiện thực, Thuý Kiều xót xa chấp nhận sự phũ
phàng của định mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”, “tơ duyên
ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ
để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển
dời. ý thức về hiện tại, Kiều chỉ còn biết thương mình, oán hờn số
phận. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi, thì suy
nghĩ của nhân vật lại rẽ sang hướng khác :
Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !


Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn
ngào của người con gái đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Thuý Kiều sau đó xa cách Kim Trọng mười lăm năm nhưng trong
mười lăm năm ấy không lúc nào nàng nguôi nhớ đến mối tình đầu.
Song có lẽ không cần phải đợi đến mười lăm năm. Ngay trong
ngày phải đau đớn “trao duyên”, người đọc có thể thấy tình yêu
trong lòng người con gái ấy không gì có thể chia cắt nổi.
ở Trao duyên, cần phải ghi nhận một thành công của Nguyễn Du,
đó là bút lực sắc sảo tuyệt vời trong nghệ thuật miêu tả nội tâm
nhân vật.
6. Các em có thể xem thêm đề thi sau: Cảm nhận của em về tám
câu cuối đoạn trích trao duyên( Truyện Kiều -Nguyễn Du)
Hướng dẫn :
(8 câu cuối):Kiều trở về với thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng
Hướng đến tương lai đã không cho Kiều một sự giải thoát, quay về

thực tại Kiều càng đau đớn bội phần. Tiếng nói thành tiếng than
khóc, nói với em mà như nói với chính mình, rời quên hẳn xung
quanh chỉ còn hướng đến người yêu đang vắng mặt:
« Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ái ân !
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như vôi !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây »
“Bây giờ” của Kiều là “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn
ngủi”, là“phận bạc như vôi”, là“nước chảy hoa trôi”. Hình ảnh ước
lệ “trâm gãy gương tan” và một loạt những thành ngữ, từ ngữ dân
gian cho thấy sự ý thức sâu sắc về bi kịch hiện tại của Thuý Kiều.
Thực tại đó hoàn toàn đối lập với quá khứ hạnh phúc, đẹp đẽ
không sao kể xiết mà nàng đã có “muôn vàn ái ân”. Quá khứ giờ
đây đã trở thành niềm khát khao mãnh liệt của Kiều. Bi kịch vì vậy


càng sâu sắc.
– Câu thơ “Trăm nghìn gửi lại tình quân” thể hiện sự day dứt, giày
vò, biểu hiện tình yêu cao đẹp Kiều dành cho Kim Trọng, đồng thời
cũng cho thấy một nhân cách vị tha trong sáng.
– Khi bi kịch tình yêu lên đến đỉnh điểm, Kiều thốt lên tiếng kêu xé
lòng: “Ôi Kim lang! hỡi Kim lang / Thôi thôi tiếp đã phụ chàng từ
đây.”+ Thán từ “ôi, hỡi” như một tiếng nấc đau thương.+ Lời gọi
được lặp lại một cách trang trọng “Kim lang” như một lời kêu cứu
tuyệt vọng.
+ Nhịp thơ 3/3 ở câu trên như một tiếng nấc nghẹn ngào, trong

khi đó, điệp từ “thôi” vừa thể hiện sự dằn vặt, vừa xác nhận sự
phụ bạc, nhịp thơ ngân dài như một tiếng than vọng mãi không lời
đáp, tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng.
Đoạn trích kết lại bằng tiếng kêu xé lòng trong tột cùng đau đớn
của Thúy Kiều khi nàng ý thức sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ của
mình. Kiều thương mình thì ít, thương cho chàng Kim thì nhiều.
Nàng đã nhận hết mọi trách nhiệm của sự tan vỡ tình duyên về
mình. Có thể nói, trong đau khổ tột cùng Kiều vẫn sáng lên vẻ đẹp
của một nhân cách cao thượng: ân cần, chu đáo với Kim Trọng mà
vẫn tự trách, nàng quên đi bất hạnh của mình để cảm thông cho
người khác. Đây là giây phút độc thoại thật nhất, nhân bản nhất.
Tổng kết:
– Trao duyênlà âm hưởng mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của
Thuý Kiều. Đoạn trích khắc hoạ những phẩm chất cao đẹp của
Thúy Kiều: son sắt, thuỷ chung, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha,
quên mình vì hạnh phúc của người khác. Qua đoạn trích, Nguyễn
Du đã tỏ ra thấu hiểu, cảm thông với những khổ đau và khát vọng
tình yêu của nàng Kiều – một con người vừa cao cả về mặt đạo
đức, vừa nhân bản về mặt con người.
– Tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm
nhân vật (vừa sâu sắc, vừa phức tạp, vừa tinh tế), sử dụng ngôn
từ chọn lọc, hàm súc đã được khẳng định qua đoạn trích.



×