Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Đề thi học sinh giỏi nhận định của sóng hồng về bài thơ tây tiến quang dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.9 KB, 5 trang )

Đề thi h ọc sinh gi ỏi : Nh ận định c ủ
a
Sóng H ồng v ềbài th ơTây Ti ến- Quang
D ũng
Posted by Thu Trang On Tháng Chín 25, 2016 0 Comment
Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng
Hồng).
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
– Vấn đề cần giải quyết: Phân tích thi phẩm Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng
tỏ một vấn đề lí luận văn học về mối quan hệ giữa đặc trưng của thơ và các loại
hình nghệ thuật gần gũi với nó. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chính xác, tính
hình tượng, tính nhạc) khiến nó mang trong mình đặc điểm của các loại hình nghệ
thuật khác.
– Vùng tư liệu: Đặc trưng ngôn ngữ thơ, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
– Kiểu bài: kiểu bài nghị luận văn học có vận dụng kết hợp các thao tác giải thích,
phân tích, chứng minh, bình luận.
– Yêu cầu về kỹ năng: Lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát có cảm
xúc, ngôn ngữ chọn lọc, không mắc chính tả, dùng từ, ngữ pháp (trong đó đề cao
sáng tạo với những kiến giải riêng hợp lí).
Các chất liệu cần huy động:
– Hệ thống các luận điểm lớn, nhỏ (ý lớn, ý nhỏ).
– Các dẫn chứng: Ngoài kiến thức về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, học sinh có
thể viện dẫn những nhận định của các nhà nghiên cứu phê bình văn học có uy tín
(tất nhiên phải gần gũi, phù hợp). Bước này học sinh cần vận dụng trí nhớ và ghi
lại ngay khi kiến thức cần thiết ùa về.
– Dựng khung đề cương cho bài viết:


Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
1/ Giới thiệu vấn đề nghị luận.


Mở bài tham khảo :
“Phải phí tổn nghìn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi,
Một chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.”
(Maiacôpxki)
Thơ là tập hợp những tinh hoa tâm hồn và ngôn ngữ. Thơ là cái thật, cái đẹp của
tâm hồn được chắt lọc, gọt giũa bằng nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ phải dùng
bàn tay tài hoa và lăng kính nghệ thuật để biến ngôn ngữ đời sống thành ngôn ngữ
văn học. Nhà thơ, để tạo nên một tác phẩm độc đáo cần trải qua quá trình lao động
nhọc nhằn, như người đào vàng, tìm ngọc, đãi từ kho quặng chữ thô ráp lấy một
viên ngọc chữ nghĩa tinh khôi. Nhiều khi khát cháy trên sa mạc ngôn từ vẫn chưa
tìm được thứ báu vật thiêng liêng ấy. Nhiều “phu chữ” cả một đời luôn trăn
trở: “Chữ chẳng làm kinh động lòng người chết chẳng yên” (Đỗ Phủ). Với chất
liệu phi vật thể (ngôn từ), thơ ca đã tạo cho mình thế mạnh riêng, là nơi gặp gỡ,
giao thoa của nhiều bộ môn nghệ thuật. Bàn về vấn đề này, thi Sĩ Sóng Hồng cho
rằng: Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. Qua
việc phân tích những biểu hiện của chất thơ, chất nhạc, chất hoạ, chất điêu khắc
trong Tây Tiến – bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Quang Dũng- chúng
ta sẽ hiểu rõ hơn về nhận định mang tính lí luận
Thân bài:
1/ Giải thích ý kiến.
2.1 Thơ là thơ : Thơ trước hết phải là chính nó, nghĩa là phải mang đầy đủ những
đặc trưng riêng khác với bất kì loại hình nghệ thuật nào: truyện, kịch… Thơ là


phương thức trữ tình, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc được thể hiện bằng một
cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt.
2.2 Thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng:
+ Thơ – hoạ – nhạc – chạm khắc đều là những loại hình nghệ thuật, song có sự

khác biệt, trước hết là chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh đời
sống. Chất liệu của thơ ca là ngôn ngữ – chất liệu phi vật thể có những đặc trưng
riêng- vì vậy tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật
khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên
tưởng con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, âm
thanh, hình khối.
+ Thơ là họa: Họa có nghĩa là hội họa, đặc trưng ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình,
thơ có thể gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh, chi tiết sống động, chân
thực như bản thân sự sống vốn có, “thi trung hữu hoạ”.
+ Thơ là nhạc: Nhạc là âm nhạc. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Tính nhạc của thơ
thể hiện ở: thể thơ, cách gieo vần, ngắt nhịp, thanh điệu,… “thi trung hữu nhạc”.
Nhạc là cỗ xe chở hồn thi phẩm (Hoàng Cầm).
+ Thơ còn là chạm khắc: Chạm khắc là điêu khắc. Cũng vì tính tạo hình, ngôn ngữ
thơ ca có khả năng tạo dựng hình khối, đường nét sống động, chân thực.
+ Một cách riêng: Phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
2.3 Tóm lại: Sóng Hồng đã khẳng định tính chất kì diệu của thơ ca: thơ là thơ
nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình
khối của chạm khắc (điêu khắc). Thơ cất tiếng nhờ nhạc, đẹp lên nhờ hoạ và kiêu
hãnh vì được thể hiện bằng nét chạm khắc. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy
phải được thể hiện theo “một cách riêng” nghĩa là nhà thơ phải có phong cách nghệ
thuật độc đáo.
(Cũng như nhận xét của Biêlinxki “Bản thân văn học là toàn bộ nghệ
thuật” hay “Thơ là kết tinh của cái đẹp trong mọi hình thức nghệ thuật”).
2/ Chứng minh qua bài thơ Tây Tiến.
3.1 Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
– Tác giả: Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng
khoáng, lãng mạn và hào hoa.
– Tác phẩm: Tây Tiến (1948) là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện
sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ đươc in trong tập Mây đầu
ô. Xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ: nỗi nhớ da diết về những người động đội và

những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả trong đoàn
quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ
ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức để kết tinh thành những hình ảnh sống động.
3.2 Chất thơ của Tây Tiến:


+ Bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Quang Dũng: nỗi nhớ đơn vị cũ, nhớ
thiên nhiên núi rừng, con người Tây Bắc.
+ Ngôn ngữ thơ hàm súc, đa nghĩa, có tính biểu cảm cao.
3.3 Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc và điêu khắc:
+ Chất hoạ: Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, bí ẩn, dữ
dội, mà mĩ lệ thơ mộng trữ tình. Nét vẽ gân guốc, khoẻ khoắn tái hiện thiên nhiên
Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở hoang sơ. Nét vẽ nhẹ nhàng, nhoè mờ kiểu tranh
lụa lại làm hiện lên thiên nhiên Tây Bắc thơ mộng, trữ tình, ấm áp (dẫn chứng).
+ Chất nhạc: phép đối, điệp âm, sử dụng từ láy, cách ngắt nhịp, phối thanh Bằng –
Trắc… => tạo nên giọng điệu gân guốc, mạnh mẽ khi nói về con đường hành quân
gập ghềnh, trắc trở; giọng điệu êm đềm man mác khi nói về thiên nhiên thơ mộng
trữ tình; giọng thơ vui tươi, khoẻ khoắn khi tái hiện kỉ niệm về tình quân dân thắm
thiết trong đêm liên hoan (dẫn chứng).
+ Đường nét của điêu khắc: chạm khắc bức tượng đài về người lính Tây Tiến sống
động, chân thực, mang vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn mà bi tráng
(dẫn chứng).
Đáng giá chung
3.4 Bài thơ Tây Tiến thể hiện phong cách riêng, độc đáo của Quang Dũng: bút
pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng, hồn thơ bay bổng và ngôn ngữ sáng tạo, tinh
tế, tài hoa.
4.1 Ý kiến đúng đắn, có giá trị của Sóng Hồng đã khẳng định sức sống và vẻ đẹp kì
diệu của thơ ca: đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chính xác, tính hình tượng, tính
nhạc) khiến nó mang trong mình đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác.
4.2 Bài thơ Tây Tiến với vẻ đẹp kì diệu là minh chứng rõ nét cho điều đó. Tác

phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Quang Dũng, xứng đáng là một trong
những thi phẩm xuất sắc của nền thi ca cách mạng Việt Nam.
4.3 Để sáng tác được những bài thơ hay, nhà thơ không chỉ cần cảm xúc mãnh liệt,
chân thành mà còn cần có tài năng trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, thanh điệu,
nhịp điệu thật độc đáo để tạo được phong cách riêng của mình. Mỗi độc giả cần
phải là người đọc “đồng sáng tạo” với nhà thơ.
Học sinh hoàn thành một kết bài sáng tạo và để lại ấn tượng với người đọc.
Kết luận: Tóm lược vấn đề, phát triển nâng cao và để lại ấn tượng sâu sắc.
Tóm tại, thơ là kết quả của sự thăng hoa cảm xúc, là sản phẩm tinh thần của nhà
thơ. Mỗi bài thơ là sự kết tinh vốn văn hoá, thể hiện cái nhìn về cuộc đời và biểu
hiện những trạng thái xúc cảm của người sáng tác. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của
tác phẩm văn học. Trong sự lao động của nhà thơ có sự lao động về ngôn ngữ,
trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của


tác phẩm một phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ của tác giả. Với các đặc trưng:
tính chính xác, tính hình tượng, tính tinh luyện, hàm súc kết hợp với tính nhạc
phong phú của tiếng Việt, thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo
một cách riêng. Tuân thủ nghiêm ngặt điều đó, với Tây Tiến, Quang Dũng trở
thành một trong những nhà thơ lưu danh hậu thế. Cũng như vậy, mỗi nghệ sĩ trong
sáng tạo cần ghi nhớ: để sáng tác được những bài thơ hay, nhà thơ không chỉ cần
cảm xúc mãnh liệt, chân thành mà còn cần có tài năng trong việc sử dụng từ ngữ,
hình ảnh, thanh điệu, nhịp điệu thật độc đáo để tạo được phong cách riêng của
mình. Nếu Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt/ Một mật ngọt
thành đòi vạn chuyến ong bay (Chế Lan Viên) thì mỗi độc giả hãy là người đồng
sáng tạo với nhà thơ, đừng quên lời nhắc nhở của Phôntan:
“Bạn ơi hãy học suy nghĩ bằng trái tim
Và hãy học cảm xúc bằng lý trí”.




×